Từ Sơn và Tiên Du xưa
Khổng Đức Thiêm Ngày nay, Từ Sơn và Tiên Du thuộc tỉnh Bắc Ninh, phía bắc hai huyện, thị giáp huyện Yên Phong và thành phố Bắc Ninh, phía đông Tiên Du giáp huyện Quế Võ, phía nam và tây nam Tiên Du giáp huyện Thuận Thành và huyện Gia Lâm, phía tây Từ Sơn giáp huyện Đông Anh – Hà ...
Khổng Đức Thiêm
Ngày nay, Từ Sơn và Tiên Du thuộc tỉnh Bắc Ninh, phía bắc hai huyện, thị giáp huyện Yên Phong và thành phố Bắc Ninh, phía đông Tiên Du giáp huyện Quế Võ, phía nam và tây nam Tiên Du giáp huyện Thuận Thành và huyện Gia Lâm, phía tây Từ Sơn giáp huyện Đông Anh – Hà Nội, có đường xe lửa xuyên Việt, quốc lộ 1A và các tỉnh lộ 38, 179, 180 chạy qua.
Từ Sơn, Tiên Du có hệ thống sông ngòi khá dầy đặc, tạo nên nguồn tiêu và tưới nước chính rất thuận tiện. Sông Đuống là gianh giới tự nhiên với Thuận Thành, bao bọc phái nam hai huyện, thị trên một độ dài 18km, có mặt sông rộng 180-250m khi bình thường và 800-1100m trong mùa nước lũ, lưu lượng 6900m3/s dòng nước chảy xiết, cứ 1km chiều dài mực nước chênh 130mm. Hàng năm lũ xuất hiện sớm nhất vào tháng 5, kết thúc muộn nhất tháng 9, cao trình lũ lớn đo tại bến Hồ là +10,2m. Lượng phù sa trong nước tới 1,208-1,400kg/m3. Sông Ngũ Huyện, còn gọi là sông Thiếp chảy từ Đông Anh xuống Hạ Giang – Phú Lâm, bao bọc phía tây bắc huyện Tiên Du, dài 25km, rộng từ 30-50m, có chỗ tới 150m. Sông Tào Khê chảy từ huyện Gia Lâm xuống, dài 15km, ngòi Ba Xà chảy qua 12km, tiêu nước qua trạm bơm Kim Đôi (Quế Võ). Sông Tiêu Tương – con sông nội đồng gắn với câu chuyện Trương Chi, đã từng được sách Đại Nam nhất thống chí ghi nhận: “Sông Tiêu Tương cũ ở địa giới phủ Từ Sơn, phát nguyên từ cái đầm lớn ở xã Phù Lưu huyện Đông Ngàn, chảy từ phía tây sang phía đông bắc xã Tiêu Sơn huyện Yên Phong, chuyển sang địa phận hai huyện Tiên Du và Quế Dương vào sông Thiên Đức (thực ra là Nguyệt Đức – T.G). Nay sông này có đoạn lấp bồi thành ruộng, gián hoặc có vài đoạn còn sâu”.
Dưới thời Hùng Vương, hai huyện, thị nên trong bộ lạc Rồng của Bộ Vũ Ninh, cư dân giỏi trồng lúa nước, tuyệt xảo trong kỹ thuật chế tác đồ đá ngọc, thành thạo nghề gốm và mộc, tài khéo dệt vải, có kinh nghiệm trong việc giao lưu buôn bán trên sông nước và góp phần quan trọng cho sự ra đời kinh đô Cổ Loa.
Suốt ngàn năm Bắc thuộc, vùng này nằm trong huyện Long Biên, trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa của Giao Chỉ. Thành nội Long Biên đã có phố phường, tấp nập khách trong nước và ngoài nước. Bước vào thời kỳ tự chủ, dưới các tên Cổ Lãm – Thiên Đức, Từ Sơn đã sản sinh ra Lý Công Uẩn, vị vua sáng nghiệp và đức Thái tổ của vương triều Lý nên sớm trở thành thang mộc ấp – đất máu thịt vua tôi.
Nền móng của địa phương hình thành rõ nét vào thời Trần khi hai huyện Đông Ngàn – Tiên Du ra đời. Trải mấy trăm năm lao động sáng tạo, vùng đất này trở thành giàu có nhất Đại Việt. Khu vực Phật Tích có thư viện, cung điện Bảo Hòa và nơi tuyển chọn nhân tài của cả nước. Sang thời Lê – Nguyễn, Đông Ngàn và Tiên Du tuy rộng hẹp có thay đổi nhưng vẫn nằm trong phủ Từ Sơn trấn Kinh Bắc rồi tỉnh Bắc Ninh. Dưới thời Pháp thuộc, cấp phủ bãi bỏ, do đó huyện Đông Ngàn đổi là phủ Từ Sơn và tổng Khắc Niệm của Tiên Du chuyển sang Võ Giàng. Từ thế kỷ XVIII đến đầu thế kỷ XX có một số thay đổi như sau:
Phủ Từ Sơn (huyện Đông Ngàn cũ) vốn có 13 tổng với trên 90 xã phường.
1) Tổng Hội Phụ (Cói): Hội Phụ (Cự Trình, Lại Đà), Đông Ngàn (Long Tửu, Thượng, Trung, Hạ), Ông Xá (năm 1834 đổi là Đông Xá rồi Đông Trù), Du Lâm (Bi, Nội, Ngoại), Tiên Hội (Nội, Chung), Hoa Lãnh (sau đổi là Danh Lâm: Lê Xá, Phú Thọ, Thái Bình), Mai Hiên, Lộc Hà.
2) Tổng Tuân Lệ: Tuân Lệ (Cửa Ải), Chiêm Trạch (Ruộng – có 2 xóm Ngọc Trì, Vĩnh Thanh), Phương Trạch, Cổ Dương, Tiên Kha, Ngọc Giang, Uy Nỗ (còn gọi là Dương Nỗ, Chằm Nỗ), Uy Nỗ Trung (năm 1911 gọi là Trung Oai), Vân Trì (Bình Lục, Lễ Pháp, Ngọc Phấn, Yên Lạc).
3) Tổng Hà Lỗ (Rỗ): Hà Lỗ (Đông, Hương, Phong), Thiết Úng (Ống), Cổ Châu (Dâu), Ngô Khê (Hà Khê), Thù Lỗ, Thiết Bình (Ngườm), Vân Điềm (Đóm), Hà Vĩ (Quậy – có 3 xóm Châu Phong, Đại Vĩ, Giai Tác).
4) Tổng Yên Thường: Yên Thường (Xuân Dục, Yên Khê, Yên Thị), Trịnh Xá (Đồng Phục – Muội, Nguyễn Xá – Ngòi, Thượng – Trịnh Trên), Quy Mông (Đông, Lại Hoàng), Châu Tháp (Đa Vạn), Đình Vũ (Đình Vĩ, Đỗ Xá – Đầm Sâu, Liên Đàm – Tháp), Song Tháp.
5) Tổng Hạ Dương (Nành Mật): Hạ Dương (Hạ, Thượng, Trung), Ninh Giang, Hiệp Phù, Ninh Xuyên (Tế Xuyên), Công Đình, Phù Ninh (Nành).
6) Tổng Dục Tú (Dọc): Dục Tú (Hậu, Phi, Tiền), Ngọc Lôi (Kẻ Lòi), Đồng Đầu (Đồng Đầu, Nghĩa Vũ), Thạc Quả (Đình Chàng, Thạc Quả).
7) Tổng Mẫn Xá (Mịn): Mẫn Xá (Nội, Ngoại), Quan Đình (Lan Đình – có 2 xóm Nghiêm Xá, Cả, Phi Xá – Bùa), Đông Bích (Chạc), Thọ Khê (Nét – có 2 xóm Phương, Thọ Khê), Đông Xuất (Rốt – Có 3 xóm Bình An, Nguyễn Xá, Trung Lan), Quan Độ (Lan Độ).
8) Tổng Phù Lưu (Chợ Dầu): Phù Lưu (Nội Trì, Yên Lã, Thị), Đại Đình (Kẻ Nuốn), Đình Bảng (Báng), Trang Liệt (Sặt), Bính Hạ, Dương Lôi (Đình Sấm – có 4 xóm Tiến Tài, Tiến Lộc, Đường Sau, Trung Hòa), Thụ Chương (Xuân Thụ).
9) Tổng Xuân Canh: Xuân Canh (Thượng Lão, Văn Tinh, Văn Hoạch, Xuân Đình), Uy Nỗ Thượng (Cầu Cả), Uy Nỗ Tó, Vạn Lộc (Vạn Phúc – có 2 xóm Sép, Sắn), Lực Canh (Văn Thượng), Quán Thôn, Mạch Tràng, Phúc Lộc (Cát Lai), Nghĩa Trai (Ngói), Xuân Trạch (Chằm), Kính Nỗ (Cương Nỗ – có 4 xóm Đản Dị, Phấn Xá, Quán Tình, Dàn Nỗ).
10) Tổng Phù Chẩn (Cháy): Phù Chẩn, Phù Tảo, Phù Lộc (Lọc), Phù Luân.
11) Tổng Nghĩa Lập (Sộp): Nghĩa Lập, Phù Khê (Dâm – có hai xóm Đông, Thượng), Tấn Bào (Bèo), Ông Mặc (còn gọi là Me, năm 1834 đổi là Hương Mặc), Thọ Chiền (Đình, Vĩnh Thọ), Kim Thiều (Mấc – có 3 xóm Phú Hậu, Nhiễn, Vân), Đồng Kỵ (Cời), Mai Động (Đồng Hương – Trạch, Đông Mỗi, Kim Bảng – Báng), Đình Cả (Me Cả).
12) Tổng Cổ Loa: Cổ Loa, Lương Quán, Thư Cưu, Đường An (Kim Nhớn), Lỗ Giao, Lương Quy (Kim Con), Dục Nội (Đoài, Đông, Trung), Gia Lộc.
13) Tổng Tam Sơn: Tam Sơn, Vĩnh Kiều (Viềng), Đông Mơi, Yên Từ, Lễ Xuyên (Sậy), Dương Sơn (Chõ – có 4 xóm Chi, Chúc, Tự, Thọ Trai – Giai), Tam Lư, Cẩm Giang (Cẩm Chương – có 2 xóm Nội, Nguyễn), Phúc Tinh (lập năm 1885), Nhân Thọ (lập năm 1904).
Hồi thế kỷ XVIII, Đông Ngàn còn có xã Tàm Xá Châu, tên nôm là Vườn Vải nhập về tổng Hải Bối huyện Yên Lãng (Sơn Tây) rồi lại sang tổng Phúc Lâm (Vĩnh Thuận – Hà Nội rồi Hoàn Long – Hà Đông, nay là xã Tầm Xá huyện Đông Anh). Năm 1807 xã Lương Quán (Cổ Loa), năm 1809 xã Viên Nội (Tuân Lệ) bị phiêu bạt, vài năm sau mới phục hồi. Năm 1876 cắt tổng Tuân Lệ nhập với một số tổng của Kim Anh để lập huyện Đông Anh (khi đó vẫn thuộc Bắc Ninh, nay là hai xã Vân Nội, Vĩnh Ngọc huyện Đông Anh). Năm 1902 cắt thêm 2 tổng Cổ Loa, Xuân Canh đưa về Đông Anh thuộc Phúc Yên (nay là các xã Cổ Loa, Uy Nỗ, Xuân Canh, thị trấn Đông Anh – Hà Nội). Năm 1903, Yên Từ và Đông Mơi (Tam Sơn) nhập về tổng Phong Quang – Yên Phong (nay nằm trong xã Trung Nghĩa – Yên Phong).
Huyện Tiên Du vốn có 9 tổng với trên 50 xã:
1) Tổng Phù Đổng (Dóng): Phù Đổng, Phù Dực, Đổng Xuyên (Dóng Mốt); Đổng Xuyên.
2) Tổng Dũng Vi: Dũng Vi (Ve Đinh, Giáo – Chợ, Lương), Trung Mầu, Thịnh Liên.
3) Tổng Đại Vi: Đại Vi, Đại Thượng, Đại Trung, Dương Húc (Đa, Đống, Đăng, Lễ, Ni, Phan, Tự).
4) Tổng Đông Sơn: Đông Sơn (Trung Nam, Đề Đoài, Đông Lĩnh) Đại Sơn, Đồng Lương (Đoài, Đông, Thượng Sáp), Long Khám (Đoài Tinh, Đông Tinh, Rồng), Dưỡng Mông (Móng), Văn Trinh, Đại Tảo.
5) Tổng Thụ Phúc (Thụ Chiền): Thụ Phúc (Chiềng), Phù Lập (Sộp, Trung, Thượng) Trùng Minh (Trùng Quang – có 2 xóm Ngô Xá – Ngò, Phúc Nghiêm), Phật Tích, Cổ Miếu (Miễu), Cao Đình, Vĩnh Phú.
6) Tổng Nội Duệ: Nội Duệ (Đình Cả, Lộ Bao), Nội Duệ Đông (Chằm, Trú Tây, Đông Bình, Phúc Đàm, Sào, Vĩnh Ninh), Nội Duệ Nam, Nội Duệ Khánh (Long Bình, Thanh Bình), Hoài Bão Trung (Bựu Giữa), Hoài Bão Thị (Bựu Sim), Lũng Giang (Chinh, Trùng, Cả), Bái Uyên (Bưởi), Hồi Bão (Đông Trà – Chè, Quảng Độc – Dọc), Hoài Bão Thượng.
7) Tổng Khắc Niệm (Ném): Khắc Niệm Thượng (Sơn, Trung), Khắc Niệm Hạ (Đoài, Đông, Tiền), Hiên Ngang (Kiều, Nội, Na), Bồ Sơn (Bò, Sẻ – Khả Lễ), Xuân Ổ (Đống Ó – có 2 xóm Đông Trù – Ó Chè, Úng Xá – Ó Chợ), Dương Ổ (Đống Cao), Vân Khám, Lỗi Đình (Hòa Đĩnh – Nhồi).
8) Tổng Chi Nê (Nía): Chi Nê (Đông, Đống, Hồ, Ngọc Tân, Trung), Nghĩa Chỉ (Nghĩa Lộ), Chi Nê Nội (Chi Nội), Tử Nê (Ngoại, Trung), Tử Vi (Ve), Văn Chung (thành lập năm 1895).
9) Tổng Nội Viên: Nội Viên, An Đông (Quan Đồng), Hoa Hội (An Hội), Hộ Vệ (Ngã Tư, Ngõ Cầu, Ngô Đinh), Hương Vân, Nghi Vệ (Ất, Và Chợ, Và Núi), Nguyễn Xá (Tiêu Xá).
Năm 1807 các xã Nguyễn Xá (Nội Viên), Đổng Viên (Phù Đổng), Văn Trinh (Đông Sơn) phiêu bạt. Năm 1808 mới khôi phục lại.
Sau cách mạng, phủ Từ Sơn đổi thành huyện Từ Sơn có 21 xã. Đến năm 1959, thành lập thị trấn Từ Sơn và thị trấn Yên Viên thuộc huyện.
Năm 1961, theo Quyết định của Hội đồng Chính phủ, nhiều xã và thị trấn của huyện Từ Sơn được cắt về Hà Nội (Yên Viên, Liên Hà, Vân Hà, Mai Lâm, Đông Hội, Dục Tú, Tiền Phong, Yên Thường, Ninh Hiệp). Cũng trong năm 1961, Tiên Du chuyển 2 xã Phù Đổng, Trung Mầu về Hà Nội.
Ngày 14-3-1963, Hội đồng chính phủ ra Quyết định số 25/QĐ nhập 2 huyện Từ Sơn và Tiên Du thành một huyện lấy tên là huyện Tiên Sơn. Cũng theo Quyết định này, 2 xã Phú Lâm và Tương Giang thuộc huyện Yên Phong, nay sáp nhập vào huyện Tiên Sơn và cắt hai xã Đông Thọ và Văn Môn của huyện Từ Sơn, sáp nhập vào huyện Yên Phong.
Sau khi trở thành Tiên Sơn, huyện lỵ đóng tại núi Lim thuộc xã Vân Tương.
Năm 1985 xã Võ Cường chuyển về thị xã Bắc Ninh.
Năm 1997, tỉnh Bắc Ninh tái lập, khi ấy Tiên Sơn có 26 xã, 1 thị trấn vốn được cấu tạo từ ba huyện (trong ngoặc là tên tổng cũ):
– Tiên Du 15 xã: Tri Phương (phần còn lại của tổng Dũng Vi), Minh Đạo, Tân Chi (Chi Nê), Đại Đồng, (Đại Vi), Hoàn Sơn, Việt Đoàn (Đông Sơn), Nội Duệ, Liên Bão, Tương Giang (Nội Duệ), Hạp Lĩnh, Lạc Vệ (Nội Viên), Cảnh Hưng, Phật Tích (Thụ Phúc), Hiên Vân, Khắc Niệm (Khắc Niệm).
– Từ Sơn 10 xã và 1 thị trấn: Châu Khê (phần còn lại của tổng Yên Thường), Phù Chẩn (Phù Chẩn), Tam Sơn, Đồng Nguyên (Tam Sơn), Đình Bảng, Tân Hồng, thị trấn Từ Sơn (Phù Lưu), Phù Khê, Hương Mạc (Nghĩa Lập), Đồng Quang (Phù Lưu, Nghĩa Lập).
– Yên Phong 2 xã: Tương Giang, Phú Lâm (Ân Phú).
Năm 1999, Tiên Sơn chia tách thành hai đơn vị hành chính cấp huyện trở lại nguyên trạng trước tháng 3-1963, theo đó:
Huyện Từ Sơn có 11 xã và thị trấn (Đồng Quang, Đồng Nguyên, Đình Bảng, Tân Hồng, Châu Khê, Tam Sơn, Tương Giang, Hương Mạc, Phù Khê, Phù Chẩn và thị trấn Từ Sơn).
Huyện Tiên Du có 16 xã và thị trấn (Cảnh Hưng, Đại Đồng, Hạp Lĩnh, Hiên Vân, Hoàn Sơn, Khắc Niệm, Lạc Vệ, Liên Bão, Minh Đạo, Nội Duệ, Phật Tích, Phú Lâm, Tân Tri, Tri Phương, Việt Đoàn và thị trấn Lim).
Tháng 4-1997, hai xã Khắc Niệm và Hạp Lĩnh từ Tiên Du sáp nhập về thành phố Bắc Ninh. Huyện Tiên Du diện tích chỉ còn 96,21km2 với 14 xã và thị trấn.
Tháng 9-2008 huyện Từ Sơn với diện tích 61,33km2 được nâng cấp thành thị xã Từ Sơn với 7 phường (Châu Khê, Đình Bảng, Đồng Kỵ, Đông Ngàn, Đồng Nguyên, Tân Hồng, Trang Hạ) và 5 xã (Hương Mạc, Phù Chẩn, Phù Khê, Tam Sơn, Tương Giang).
Từ Sơn, Tiên Du là địa bàn cư trú lâu đời của cư dân nông nghiệp, có mật độ tập trung cao nhất của Kinh Bắc. Sách Bắc Ninh tỉnh chí cho biết: “Dân trong toàn hạt có bốn loại: sĩ, nông, công, thương, nghề nghiệp không giống nhau. Nói chung những người làm nghề nông thì có nhiều, những người làm nghề buôn bán có ít. Dân trong các huyện đều rất cần kiệm, chất phác”. Cũng sách này cho biết vào năm 1875 huyện Từ Sơn có 5.092 xuất đinh, huyện Tiên Du có 2.708 xuất đinh.
Từ thượng cổ, dân cư Tiên Du, Từ Sơn đã quây quần, tập hợp nhau theo từng ngõ xóm và liên kết thành làng xã, phường sở, vạn chài. Hội đồng kỳ mục, Hội đồng lý lịch căn cứ vào Hương ước – lệ làng để quản lý, phân chia công điền, công thổ; bảo vệ trị an, tổ chức hội hè đình đám. Viết về tập tục ở Từ Sơn, sách Bắc Ninh tỉnh chí ghi rằng: “Trong hạt này chỉ riêng có tổng Tuân Lệ tiếp cận với vùng núi nên có tập tục dũng hãn. Nhân dân trong các huyện đều rất cần kiệm chất phác, thờ cúng thần phật rất cẩn thận, đền chùa trang trí đẹp đẽ. Ngày trừ tịch trồng cây nêu treo đèn. Nguyên đán đốt pháo, chuẩn bị thức ăn ngon, rượu tốt để cúng tổ tiên; nhà nào cha mẹ còn thì con trưởng phải đôn đốc con cháu lạy mừng, gọi là mừng tuổi. Tết đoan ngọ sắm sửa hoa quả để cúng tiến tổ khảo, buổi sáng mọi người trong nhà đều ăn hoa quả gọi là giết sâu bọ, buổi trưa chọn hái các thứ thuốc trữ lại để dùng, hái lá ngải tùy theo can chi từng năm tết lại thành hình con thú. Tết trung nguyên cắt giấy làm y minh để thờ gia tiên. Tết trung thu đốt đèn thưởng nguyệt…”.
Một số làng nằm ven sông Tiêu Tương như Phù Lưu, Nội Duệ Khánh hoặc ven Ngũ Huyện thờ Trương Hống – Trương Hát làm phúc thần ở đình. Đình làng Đình Bảng thờ Cao Sơn, Thủy Bá, Bạch Lệ. Đình Hồi Quan thờ Tam Quang. Đình Long Khánh thờ Lý Nam Đế. Đình Đồng Kỵ thờ Thiên Cương. Đình Trang Liệt thờ Trần Bà Liệt – Trần Quang Khải…
Ngoài ra, ở các đền và nghè còn thờ các tướng lĩnh thời Hai Bà Trưng như Tam Ngọ ở đền Bính Hạ; Liễu Giáp ở đền Lũng Sơn; ba mẹ con Diệu Tiên ở đền Xuân Thụ; Lý Bát Đế – 8 ông vua triều Lý ở đền Đô; vợ chồng tướng quân Phạm Ban ở đền Cổ Lũng.
Đình và đền còn là nơi tổ chức hội hè nhằm đề cao nhân phẩm, tỏ lòng quý trọng tài năng, từ người dệt lụa tài khéo ở hội Lim, thổi sôi và nuôi lợn giỏi ở Ném Thượng, làm cỗ mặn ở Đình Bảng – Phù Khê, cỗ chay ở Lũng Giang, bánh dầy ở Đồng Kỵ đến cỗ nhắm ở Bái Uyên, luộc gà ở Cẩm Giang… Trai tráng có sức khỏe và kỹ thuật thì thi thố trong các hội vật. Các cụ già dẻo dai thì đến hội thi ôm cột Đồng Kỵ. Các thanh nữ duyên dáng trong hội đu Đình Bảng. Ngoài ra, mọi người còn thể hiện sự dũng mãnh trong cuộc thi tranh cây mộc tất ở Long Khám, thi chém lợn ở Ném Thượng. Và để cố kết một cách chặt chẽ trong cộng đồng làng xã, một số nơi như Lũng Giang, Hòa Đình còn giữ gìn tục miệng thệ.
Suốt cả mùa xuân cả vùng Tiên Sơn mở hội. Hết Xuân Ổ, Bái Uyên, Khắc Niệm, Khả Lễ đến Yên Từ, Tam Tảo, Ngang Nội, Tiêu Long. Ở đâu cũng gặp khung cảnh trai thi mạnh, gái đua mềm. Nhiều trang sử hào hùng của địa phương được điển hình hóa. Nhiều nghi thức tôn thờ người có công với làng nước được lồng vào các cuộc diễn xướng ca vũ nhạc mang tính hùng ca. Hội Đồng Kỵ âm vang trong tiếng pháo diễn tả cảnh Thiên Cương đánh giặc Xích Quỷ. Hội Dóng rộn rã không khí trận mạc. Hội đền Đô nồng nàn khí thế vũ công đại định.
Hơn bất kỳ nơi nào, người dân nơi đây đã hiểu rằng nghề chơi cũng lắm công phu. Sử sách cũ cũng thừa nhận đây là nơi có tập tục văn vẻ mà cần kiệm (Đại Nam nhất thống chí), phong tục dân phần nhiều chuộng ưa văn nhã, ít quê kệch (Lịch Triều hiến chương loại chí), bàn về đại khái thì phong tục đều noi theo thô phác gần với thuần hậu (Bắc Ninh tỉnh chí).
Biến cải thiên nhiên để tạo dựng nên những làng đồi đầy cây trái, những làng sông san sát vó bè, những làng đồng rập rờn ngói đỏ. Bên cạnh canh điền – làm ruộng nhân dân còn đạt hiệu quả cao khi khai thác sông ngòi, ao đầm. Họ rất thấm thía nguyên lý thứ nhất canh trì, chăm chú vào đánh bắt và nuôi cá. Đồng thời còn chú trọng nghề làm vườn bãi, khẳng định thêm tiền đề thứ nhì canh viên với những bãi mía bạt ngàn ở Chi Nê – Nghĩa Chỉ, những cánh đồng dưa hấu Ân Phú – Bất Lự, những vườn chè xanh ở Phù Lưu – Hoài Bão, những rặng trám bên Văn Trinh – Cổ Miếu và những làng thuốc nam Hạ Dương, Ninh Giang.
Do từ rất sớm đã ở vào khu vực đất chật người đông, thiên tai luôn đe dọa, sản xuất nông nghiệp bấp bênh nên người dân nơi đây đã rèn được tính năng động, sáng tạo và sự tài khéo trong nghề thủ công. Do vậy, một hệ thống làng nghề đã xuất hiện, dù làm ruộng vẫn chiếm giữ tỷ trọng nhất định. Những làng chuyên chú vào rèn đúc kim loại như Đa Hội, Đông Xuất, Ân Phú, Trang Liệt đáp ứng được nhu cầu về nông cụ và vật dụng cho cả một vùng nông thôn rộng lớn. Những làng tằm tơ, dệt vải lụa ở Lũng Giang, Nội Duệ, Xuân Ổ, Tam Tảo, Tam Sơn, Hồi Quan, Tiêu Long, Tiêu Nghiêm nổi tiếng từ xưa. Các làng Vĩnh Kiều, Tấn Bào, Tiêu Sơn, Lũng Giang nung được gạch hoa, ngói lợp có chất lượng ít nơi bì kịp. Các làng Hương Mạc, Kim Thiều, Phù Khê nổi tiếng về đồ gỗ chạm. Các làng Đình Bảng, Nội Trì, Phù Lưu làm đồ sơn mài. Vải nhuộm ở Đình Bảng, Hoa Lâm; bột xay ở Lễ Xuyên, Tam Sơn, Lỗi Đình; mành tre nứa và đồ gốm Giới Tế; nhuộm giấy mầu ở Xuân Ổ; làm áo tơi ở Kim Tháp, nón Xuân Canh, mật mía Yên Thường, Hoa Lâm. Tất cả đều được ghi nhận trong Phong thổ Kinh Bắc.
Hầu như ở mỗi làng xóm đều có vài ba nghề phụ làm suốt năm chứ không phải chỉ lúc nông nhàn. Nghề làm đậu, thái mì, nấu rượu, bánh kẹo, nem chạo, đục cối, thợ mộc, thợ xẻ… đâu đâu cũng có. Các làng Yên Lã, Yên Thường, Quan Đình, Dương Lôi, Vân Điềm, Hà Lỗ, Kim Bảng nấu rượu thật ngon. Thợ mộc Thiết Úng, Hà Lỗ, Kim Bảng, Phù Khê, Đỗ Xá cùng với thợ xẻ Đồng Kỵ nổi tiếng trong việc dựng đặt nhà cửa, đình chùa. Thôn Chi Nê xưa làm mã bán khắp chợ quê. Nổi tiếng hơn cả là đội ngũ thợ nề đông đảo, khéo tay, kỹ thuật điêu luyện và trở thành ngoại hạng không đâu sánh kịp là Nội Duệ, Vĩnh Kiều, câu ngạn ngữ Mộc Cả, Ngõa Viềng; Giống Giao, dao Viềng chính là những lời khẳng định.
Hoạt động buôn bán ở Tiên Du, Từ Sơn thời xưa đã khá sôi động. Trước hết là những sản phẩm dư thừa (thóc gạo, hoa màu, thực phẩm) được trao đổi, thông thương bởi một hệ thống chợ làng, chợ chùa, chợ đình, chợ nghè dày đặc họp lúc sáng, khi trưa hoặc xế chiều. Dần dần nông sản cùng với vật phẩm của nghề thủ công trở thành hàng hóa thì một hệ thống chợ phiên nối ngày nhau họp. Sử sách cũ và di ngôn đều ghi nhận về sự hoạt động nhịp nhàng của guồng máy kinh tế trong vùng: người làng Phù Ninh thường ngày chăm chút phơi long nhãn, tìm xác ve, hái thuốc nam; người làng Phù Lưu buôn bán the lụa khắp nơi; người đất Hạ Dương chuyên buôn thuốc bắc; trai Phù Đổng đi buôn thuyền, buôn bè ở khắp nơi để lập nghiệp (Phong thổ Kinh Bắc). Cạnh chùa Dặn có phố xá, đồn phủ Từ Sơn là nơi quán xá trù mật, chợ Quán ở Nội Duệ mỗi tháng họp 6 phiên phần lớn bán thóc gạo, chợ Ó phần nhiều bán tơ mịn, chợ Đọ bán thóc lúa (Bắc Ninh tỉnh địa dư). Chợ Lực Canh ở huyện Đông Ngàn, tục gọi là chợ Dâu, hai bên chợ có nhiều dân cư; chợ Phù Đổng ở huyện Tiên Du, quán xá đông đúc, hàng hóa nhiều; chợ Lim huyện Tiên Du bán nhiều tơ sống (Đại Nam nhất thống chí).
Ở các địa phương này còn có nhiều loại chợ đặc biệt.
– Trước hết là chợ Tơ lụa Phù Lưu, còn gọi là chợ Giầu. Sách Đại Nam nhất thống chí cho biết: “Chợ Phù Lưu ở huyện Đông Ngàn, buôn bán đông đúc, là một chợ lớn trong tỉnh”. Từ thế kỷ XV, chợ Phù Lưu đã khá sầm uất. Chợ chia ra thành nhiều khu gồm có phố chợ trên bán nông cụ chạy dài từ cửa đình đến cổng làng rồi đến phố chợ giữa bán lụa là gấm vóc; phố chợ dưới bán các loại đồ dùng, đồ gỗ, đồ sắt, đồ sành, tre nứa, chè thuốc. Lại có chợ họp ở đình, chùa, nhà bia chuyên bán vải vóc, tơ lụa, bông sợi; chợ họp ở đầu đình bán gạo; chợ họp ở sân đình, sân chùa bán trầu cau, hoa quả. Chợ giếng có các cầu hàng thịt và thực phẩm còn chợ họp ở sát cột trụ thì bán gia cầm.
Chợ Phù Lưu buôn bán nhiều mặt hàng, có sức thu hút mạnh đối với thương nhân tận Hải Dương, Nghệ An, Thanh Hóa, Cao Bằng, Lạng Sơn, Yên Bái, Lào Cai, Hà Đông và cả Hà Nội. Chợ họp vào các ngày 4, 9 âm lịch và đông vui nhất là buổi áp phiên, khách ở xa ngủ lại qua đêm. Đây cũng là điều khiến cho Hội đồng kỳ mục bất bình và năm 1798 phải ra quy định: “Từ nay nếu ai còn cho bọn thương gia đến ngụ ở trong đình thì thần thánh chu diệt”.
Chợ Gia súc Phù Lưu hình thành khá sớm. Trên một khu đất rộng chừng hai mẫu có đắp nhiều bệ đất, chôn cọc để buộc trâu bò và buộc dọ lợn. Trâu bò được lái buôn phần lớn là người Đồng Kỵ mua từ Cao Bằng, Lạng Sơn, Bắc Cạn, Thái Nguyên hoặc các chợ Đức Thắng (Hiệp Hòa), Mẹt (Hữu Lùng), Thanh Dã (Lục Nam), Thương (Bắc Giang) bán lại cho người trong vùng hoặc các tỉnh Hà Đông, Hưng Yên, Phúc Yên. Các lái trâu có phường để tập hợp nhau lại. Họ có cả nhà thờ riêng.
Chợ Lã ngày xưa chuyên bán rượu nên còn gọi là chợ Cầu hoặc chợ Lã Rượu. Ở đây còn có một cầu ngói dựng từ năm Tự Đức thứ 27 (1874).
Lạ nhất là kiểu chợ âm dương mà Phong Thổ Kinh Bắc đã từng ghi: “Ở Cẩm Chương chập tối họp chợ không kén chọn tiền xấu, tiền tốt. Làng Xuân Ổ xế chiều họp chợ không thiếu thứ gì. Chập tối, xế chiều là khoảng thời gian âm dương giao tiếp, người còn sống có thể giao tiếp với ma mỵ. Các đồ vật cũ kỹ, gà đen được đưa đến bán ở chợ với giá rất rẻ, người mua không mặc cả, người bán không đếm tiền, trầm lặng trong không khí mua may bán rủi và buổi chợ cũng kết thúc rất nhanh”.
Loại hình chợ chùa, chợ tam bảo cũng có mặt ở đất Tiên Du, Từ Sơn kiểu như chợ chùa Tam Sơn, chợ tam bảo Hoa Lâm. Tấm bia dựng từ năm Thịnh Đức thứ 4 (1656) cho biết: “Từ khi có trời đất đã có khu chợ này. Chợ nằm giữa chùa và miếu. Giữa chợ có đường cái quan qua lại, người người hội tụ thật là nơi đất hẹp vào bậc nhất”.
Hàng loạt các chợ khác như chợ Me, chợ Sơn, chợ Bựu, chợ Và cùng các phố nhỏ ở Nhồi, Ó, Niềm, Lim, Từ Sơn đã tạo cho địa phương một lớp thương nhân chuyên nghiệp và đội ngũ bán nông bán thương khá đông đảo. Nhiều làng đã coi buôn bán là nghề chính (xã thị), nhiều phố nhỏ ít có mối quan hệ với làng xã để chuyên tâm vào thương mại (thị trấn). Ngoài ra Phù Lưu, Trang Liệt, Nội Duệ, Tam Sơn còn là những làng thuộc loại giầu có.
Có thể nói đây là một vùng xóm mạc có tiếng là trù phú, các phố chợ thuyền bè tụ họp, người buôn bán qua lại như đổ hội đông như mắc cửi, quê hương của nhiều người con gái Nội Duệ – Cầu Lim tài đảm.
Đạo Phật thâm nhập vào Tiên Sơn từ đầu công nguyên. Từ cuối thế kỷ thứ 6 trở đi, ở địa phương có các dòng sau:
– Dòng Nam Phương do Ty ni đa lưu chi (? – 594), một thiền sư Thiên Trúc đến nước ta từ năm 580 lập ra. Pháp Hiền, đệ tử của dòng này đã tu thiền định ở núi Từ Sơn, lập ra chùa Thiện Chúng lúc nào cũng có tới 300 tăng và cho xây nhiều bảo tháp. Dòng Nam Phương ngày một thịnh đạt trên đất Từ Sơn. Sư Thông Biện (? – 686) là tổ thứ tư ở chùa Kiến Dương còn Định Không (? – 808) là tổ thứ 8, xây chùa Quỳnh Lâm ở Đình Bảng.
– Dòng Quan Bích do Vô Ngôn Thông đưa vào chùa Kiến Sơn – Phù Đổng đầu thế kỷ thứ 9, được nhà sư Cảm Thành quê ở Tiên Du, trụ trì ở đây tiếp nhận. Dòng Quan Bích cũng phát đạt mau chóng.
Hai dòng thiền Nam Phương và Quan Bích là cơ sở chủ yếu của phật giáo Việt Nam sau này, góp phần đào tạo nhiều cao tăng người Việt danh tiếng như Đỗ Pháp Thuận (915 – 990) đời thứ 10 và Vạn Hạnh (? – 1018) đời thứ 12 dòng Nam Phương, Ngô Chân Lưu (Khuông Việt, 933 – 1011) dòng thứ 4 và Lã Định Hương (? – 1050) dòng thứ 6 Quan Bích. Họ là những cao tăng có kiến thức uyên bác, có tài thơ văn, tích cực tham gia vào việc khuông phò Lê Đại Hành, Lý Công Uẩn. Có một điều đặc biệt là Lý Thánh Tông, thế hệ thứ 7 của dòng Quan Bích lại là ông tổ của dòng Thảo Đường, dòng thứ ba của phật giáo Việt Nam.
Vì là nơi khai hoa kết quả của đạo phật nên từ thời Lý, vùng đất này chùa chiền mọc lên trùng trùng lớp lớp: Chùa Vạn Phúc, chùa Trùng Quang, chùa Vĩnh Phúc trên núi Tiên Du, chùa Trường Liêu, chùa Quảng Giai và nhiều chùa khác phân bố khắp vùng. Nhà sử học Lê Văn Hưu cho biết: “Lý Thái Tổ lên ngôi được vài năm, nhà tông miếu chưa xây, nền xã tắc chưa lập đã dựng 8 ngôi chùa ở phủ Thiên Đức, lại trùng tu chùa chiền ở các lộ, độ hơn 1 ngàn người ở Kinh sư làm tăng”.
Có thể nói đạo Phật ở Tiên Du, Từ Sơn vào thời Lý rất thịnh hành. Chùa chiền phần lớn do vua và vương hầu quý tộc lập ra. Năm 1088, Lý Nhân Tông chia chùa làm ba hạng: đại danh lam, trung danh lam, tiểu danh lam. Mỗi một tự viện như thế, ngoài số ruộng được cấp khá nhiều lại được cấp cả điền nô để cày cấy. Chùa nào cũng rất đông tăng đồ. Thiền sư Đa Bảo ở chùa Kiến Sơ có hàng trăm người. Chùa Trùng Quang ở núi Tiên Du, chỗ Thiền sư Thiền Lão trụ trì học trò có hàng trăm ngàn người, chỗ ở của sư thành ra một nơi tăng lâm sầm uất. Sư Tịnh Không ở chùa Khai Quốc phủ Thiên Đức được các nơi đem tiền bạc lễ vật cung cấp cho rất nhiều. Sư Hiện Quang nhận nhiều của quyên cúng của công chúa Hoa Dương.
Do đạo phật phát triển, đội ngũ thợ thủ công cũng được cuốn hút vào các công việc xây dựng chùa chiền, tô tượng, đúc chuông. Năm 1001 nhà nước thuê dựng tới 950 ngôi chùa ở hương ấp. Các nghề làm bia đá, mộc, đúc kim loại quanh năm làm không hết việc. Năm 1035 đúc chuông chùa Trùng Quang nặng 6 ngàn cân đồng. Năm 1041 nhà nước cấp 7500 cân đồng để đúc tượng Di Lặc đặt ở viện Thiên Phúc núi Tiên Du. Năm 1056 nhà nước lại cấp 12 ngàn cân đồng để đúc chuông chùa Sùng Khánh báo thiên.
Từ cuối thời Trần, đạo phật bị tấn công dữ dội. Đến thời Lê, Thái tổ đặt lệ thi tăng nhân, quy định nhà sư phải trên 50 tuổi, thông hiểu kinh phật, giữ gìn được giới hạn và phải qua kỳ khảo hạch mới được cấp giấy chứng nhận làm sư. Năm 1461 nhà Lê lại cấm các địa phương, quan lại quý tộc không được xây dựng chùa quán mới, không tự tiện đúc chuông, tô tượng. Nhà sư phạm tội uống rượu, ăn thịt phải hoàn tục hoặc xung quân; phạm tội tà dâm phải đi đầy và nhìn chung nhà sư bị hạn chế việc đi lại. Tuy nhiên nhà nước vẫn chú trọng tới việc tu sửa chùa chiền, ban thưởng áo tiền cho nhà sư.
Đạo Lão xuất hiện ở Tiên Sơn cũng rất sớm dưới các hình thức của đạo thần tiên, luyện phép tịch cốc và trường sinh. Các loại ma thuật, phương thuật này thích hợp với tôn giáo và tín ngưỡng nguyên thủy. Các sấm ngữ ở vùng Đình Bảng, Dương Lôi vào đầu thời Lý và đạo thần tiên bao quanh Nguyễn Đăng Đạo là biểu hiện của sự thâm nhập đạo lão ở địa phương. Hoa Tuấn đường ở Yên Lã thờ Quan Thánh đế quân là dấu vết của dạo này, đến nay vẫn còn.
Đạo Thiên chúa có mặt ở Tiên Sơn khoảng cuối thế kỷ 19. Theo sách Bắc Ninh tỉnh chí viết năm 1875 thì cả huyện Đông Ngàn chỉ có ở Cẩm Giang còn ở Tiên Du chỉ có ở thôn Chợ thuộc Dũng Vi, do các giám mục dòng Đa Minh truyền đến.
Đạo Nho với tư cách củng cố trật tự gia tộc và xã hội đã phát triển khá rực rỡ ở Tiên Du, Từ Sơn từ thời Lý – Trần. Khi nhà nước dựng văn miếu, lần lượt các địa phương có người đỗ đạt cao về nho học cũng có văn từ, văn chỉ để thờ Khổng Tử, Tứ phối, thất thập nhị hiền và các tiên hiền, tiên nho của làng xã, phủ huyện mình. Trong sách Lịch triều hiến chương loại chí, Phan Huy Chú cho biết: “Về khoa mục thì phủ này đứng đầu nhà nước. Năm huyện đều có người đỗ nhưng huyện Đông Ngàn nhiều hơn. Về những dòng họ nối đời hiển đạt như các họ ở làng Kim Đôi, Vĩnh Kiều, Vân Điềm, Vọng Nguyệt đều hơn cả một xứ. Làng Vĩnh Kiều ở huyện Đông Ngàn có họ Nguyễn từ Văn Huy đỗ năm Minh Đức đời nhà Mạc đến Đức Đôn là 8 người đỗ đạt cộng 9 người. Làng Vân Điềm ở Đông Ngàn có họ Nguyễn từ Tiết Trai bắt đầu thì đã đỗ đầu, đời Lê Trung Hưng càng đỗ nhiều, rồi con cháu nối nhau đỗ mãi, năm đời cộng có 6 người thi đỗ”.
Sách Bắc Ninh tỉnh chí cũng ghi: “Nền văn hiến ở Từ Sơn xưa có huyện Đông Ngàn là hơn cả. Trong xóm làng đều có văn học nhưng tựu trung 7 tổng Phù Lưu, Tam Sơn, Nghĩa Lập, Mẫn Xá, Dục Tú, Hạ Dương, Hội Phụ là nhiều. Về văn học của Tiên Du thì hai tổng Nội Duệ, Phù Đổng”.
Suốt chặng đường 843 năm cử nghiệp Hán học, hai huyện Từ Sơn, Tiên Du có 186 vị đỗ đại khoa, trong đó có 6 trạng nguyên.
Bằng nhiều con đường đào luyện, Tiên Du, Từ Sơn thời nào cũng cung cấp cho đất nước và dân tộc một đội ngũ trí thức tài đức, hiểu rộng biết nhiều, có nhãn quan chính trị – xã hội tinh tế và bén nhậy đặc biệt. Kể từ Nguyễn Quán Quang thời Trần đến Nguyễn Thiên Tích, Nguyễn Thực, Nguyễn Đức Vọng, Nguyễn Đương Hồ, Nguyễn Công Hãng thời Lê; Nguyễn Tư Giản, Hoàng Văn Hòe thời Nguyễn… tất cả đều một lòng tận trung với nước, tận hiếu với dân.
Tiên Du, Từ Sơn đã cung cấp cho nhà nước 27 nhà ngoại giao lỗi lạc bén nhậy đã làm rạng rỡ dân tộc Việt Nam. Nguyễn Thiên Tích – nhà ngoại giao đầu tiên trong đội ngũ cử nghiệp Tiên Sơn, ba lần đi sứ đều đem lại vẻ vang cho vua tôi. Quách Hữu Nghiêm nổi trội như một nhân tài thời tam đại. Nguyễn Nghi có đức nghiệp, danh vọng về ngoại giao người đời ai cũng ngưỡng mộ. Nguyễn Đăng Cảo đã khiến cho người phương Bắc phải khen là Nam quốc văn khúc tinh. Nguyễn Đăng Đạo định lại được biên giới vùng Tuyên Quang. Nguyễn Công Hãng phá lệ cống người vàng, nước giếng Cổ Loa. Ngoài ra còn phải kể đến những đóng góp của các sử bộ Dương Tông Hải, Dương Văn Đán, Nguyễn Húc, Nguyễn Đức Thận, Quách Điển, Nguyễn Văn Huy, Nguyễn Trọng Quýnh, Nguyễn Đạo Thế, Nguyễn Nhân Triện, Nguyễn Thực, Đồng Nhân Phái, Đặng Công Chất, Nguyễn Đức Vọng, Đào Quốc Hiển, Nguyễn Bá Tông, Ngô Thế Tri, Nguyễn Tư Giản.
Có lẽ cũng phải kể đến đội ngũ cử nhân đông đảo của Đông Ngàn, Tiên Du vào thời Nguyễn: có 115 cử nhân trên tổng số 301 vị của cả tỉnh. Nhiều làng có tỷ lệ đỗ cao như Dục Tú 14 vị với tên tuổi của cử nhân Nguyễn Án; Nội Duệ 12 vị với cử nhân Nguyễn Văn Đảng (Cử Đưởng), Phù Lưu có 8 vị… Bên cạnh các làng có truyền thống hiếu học đã kể ở trên ta thấy xuất hiện thêm nhiều làng khác như Đông Ngàn, Hạ Dương, Hòa Đình, Lộc Hà, Long Khánh, Lực Canh, Nội Viên, Phú Lộc, Song Tháp, Thiết Bình, Uy Nỗ có người giành được học vị cử nhân.
Nơi đây là cả một bầu trời đầy sao khuê rực sáng. Đội ngũ cử nhân đông đảo kể trên, ngoài việc bổ sung cho đội ngũ các tiến sĩ (Dương Danh Lập, Nguyễn Tư Giản, Hoàng Văn Hòe, Nguyễn Thiện Kế…) còn cung cấp cho đất nước nhiều nhà quản lý, nhà chính trị có tài từ Đốc học, Giáo thụ, Huấn đạo, Tri huyện, Tri phủ đến Tổng đốc, Bố chánh, Tuần phủ, Án sát, Ngự sử. Nhiều cử nhân không bước theo con đường hoạn lộ, lại trở thành các nhà giáo nổi tiếng, các chí sĩ yêu nước trong phong trào văn thân, Đông Kinh nghĩa thục, thực sự đem cái học của mình giúp ích cho đời.
Truyền thống hiếu học và thông qua con đường cử nghiệp đã khiến cho Tiên Du, Từ Sơn từ nhiều thế kỷ qua trở thành một lò hun đúc nhân tài cho cả nước và dân tộc Việt Nam.
Tiên Du, Từ Sơn vừa là cái nôi vừa là địa bàn gốc sản sinh ra nền dân ca quan họ. Đến nay, dân ca quan họ đã trở thành một di sản quý báu của dân tộc Việt Nam.
Hát cửa đình ở Tiên Du, Từ Sơn – với hai trung tâm lớn là giáo phường Lỗ Khê và giáo phường Tiên Du đặt trên đất Nội Duệ, thực sự là món ăn tinh thần của nhân dân. Thời Lê, gọi là giáo phường Ty, do đó còn gọi là hát nhà tơ bên cạnh các tên gọi ca trù (hát theo từng thẻ có thưởng), hát ả đào (lối hát do một phụ nữ họ Đào nghĩ ra), hát cô đầu (người đào hát đứng đầu các danh ca).
Hát cửa đình là một khái niệm để chỉ một lối hát của dân gian phục vụ việc tế tự trước cửa đình (nếu ở đền thì gọi là hát cửa đền) làm tăng thêm sự trang nghiêm thành kính đối với việc thờ thành hoàng.
Hát cửa đình phục vụ cho các hội đầu xuân tổ chức ở đình làng. Các đào kép của hai giáo phường Lỗ Khê, Tiên Du đem đàn phách tới đó hát lệ, hát khoán, hết hội lại trở về cấy cày, dệt vải, ươm tơ. Đây là một lối hát có quá trình trình diễn phức tạp và nghiêm túc, phục vụ từ lúc phù giá đến lễ tạ mới vào cuộc hát. Lúc hát, ả đào vừa hát vừa múa theo nhịp chủ tế với 9 vũ khúc khác nhau. Lúc đốt văn tế, ả đào lại múa xen xung quanh. Một trù hát cửa đình kéo dài suốt từ 8 giờ đến tối, đào kép thay nhau hát không lúc nào ngừng.
Hát cửa đình là một loại hình nghệ thuật tổng hợp rất đáng trân trọng.
Trên mảnh đất này còn chứa đựng nhiều loại hình dân ca khác như chèo nhà phật, chèo chái hê và hát chèo. Nghệ thuật hát và diễn tuồng cũng bám rễ vào các làng Đình Bảng, Tam Lư, Đồng Kị, Dục Tú, Yên Lã, Công Đình, Phù Lưu để phát triển. Hát trống quân có mặt ở Đình Cả (Nội Duệ). Múa rối nước còn lại trong di tích nhà rối ở Phù Đổng, Đình Bảng, Nội Duệ, Tam Tảo. Các hoạt động nghệ thuật kể trên đã được sách Bắc Ninh tỉnh chí ghi nhận: “Đất Lỗ Khê, Trịnh Xá, Lại Đà sản sinh ra các ở đào hát. Các làng Phù Lưu, Đình Bảng, Đồng Kị, Yên Lã, Đông Nai, Công Đình, Hà Vĩ có phường diễn trò”.
Từ Sơn, Tiên Du còn là mảnh đất lưu giữ dấu vết của nền văn minh cổ.
Thời đại sơ kỳ đồng thau (cách ngày nay +3500 năm), nhiều lớp cư dân đã có mặt tại vùng Ó Chè, Ó Chợ, Đường Phố, Bãi Tự, Phù Lưu… sinh sống bằng nghề trồng lúa nước, săn bắt, câu và đánh cá, dệt vải, làm đồ gốm, chế tác đồ trang sức bằng đá ngọc, dùng thuyền trước theo sông nước đi trao đổi sản phẩm. Nhiều đồ dùng và vật phẩm của họ như rìu đá, doi xe chỉ, lưỡi câu, chì lưới, nồi vò bằng đất nung, vòng đá nhẫn đá… đã được tìm thấy dưới các lớp đất canh tác ở các địa điểm kể trên. Khi đồ đồng thau bước vào thời kỳ cực thịnh (cách ngày nay +2500 năm), diện cư trú đã mở rộng sang Đình Bảng, Tam Sơn, Phù Chẩn, Trang Liệt. Di vật tìm thấy phong phú hơn. Ngoài đồ đá, đồ gốm còn tìm thấy đồ đồng, đồ sắt. Nghề rèn đúc kim loại đạt tới trình độ tinh tế đã cung cấp cho nhu cầu xã hội đủ loại hình công cụ (rìu, giáo, mũi tên, lưỡi cuốc và trống đồng), góp phần thúc đẩy sự phát triển của sản xuất nông nghiệp lúa nước thời đại Hùng Vương.
Trong thời Bắc thuộc, lòng đất nơi đây còn lưu giữ nhiều mộ Hán – Đường ở vùng Phật Tích, Nghi Vệ. Các ngôi mộ được xây cuốn bằng nhiều loại gạch. Trong những ngôi mộ này, có hàng loạt vò lọ, tượng và đồ dùng bằng sắt, các mô hình dinh thự nhà cửa, chứng tỏ sự phát triển liên tục của một số nghề thủ công ra đời từ hồi Văn Lang – Âu Lạc.
Thời Lý, kinh tế nông nghiệp và các ngành kinh tế khác, trong đó có thủ công nghiệp của địa phương vẫn tiếp tục đi lên. Nhờ đó, năm 1057 tại sườn phía nam Lạn Kha Sơn, ngôi chùa Phật Tích (Vạn Phúc tự) với nhiều tòa ngang dãy dọc cung son điện vẽ san sát trong núi đã được dựng đặt. Đây là công trình kiến trúc – điêu khắc đồ sộ nhất, tinh xảo nhất bởi các cấp điện nghiễm nhiên như ngọc lưu lư, điện ấy rộng mà to, sáng vậy mà lớn, thềm bậc có tạc giống thú bầy đằng trước gồm 10 thứ, ao rồng quanh đằng sau, gác đối vẽ phượng sáng sao ngư sao đẩu, lần núi tay rồng với tới sao trời. Người dân Tiên Sơn thời Lý đã góp vào tổ hợp kiến trúc – điêu khắc những gạch ngói có độ nung cao, các pho tượng A di đà, Hộ pháp, Kim Cương, đầu người mình chim bằng đá hết sức tinh tế, tạo nên một phong cách riêng cho nền văn minh Đại Việt. Cũng cần kể thêm một số di tích của thời Lý hiện vẫn còn trên đất Tiên Sơn như chùa Vĩnh Phúc (Linh Quang tự) xây dựng năm 1100, chùa Tiêu (Trường Liêu tự).
Di tích đáng kể nhất của thời Trần trên đất Tiên Du, Từ Sơn là ngôi chùa Tam Sơn (Cảm Ứng tự) và Bách Môn (Linh Cảm tự). Cả hai ngôi chùa đều bố cục theo hình vuông một đằng có trăm gian (Tam Sơn), một đằng có trăm cửa (Bách Môn) với nhiều lầu gác lớn, chuông trống, khánh mõ và tượng phạt có giá trị.
Dưới thời Lê, vùng Tiên Du, Từ Sơn nổi trội về xây dựng đình làng và lăng mộ. Đình làng Phù Lưu, đình làng Hồi Quan và đình làng Đình Bảng được dựng đặt vào đầu thế kỷ XVIII, tiêu biểu về kiến trúc và điêu khắc đẹp. Đây là những công trình sinh hoạt văn hóa công cộng, được xây bó bằng gạch đỏ, chống giữ bằng hàng chục dãy cột lim đồ sộ và trang trí nhiều họa tiết trạm khắc tinh vi.
Khu lăng Đỗ Nguyễn Thụy ở Đình Cả (1734) và Nguyễn Đình Diễn trên núi Hồng Vân có quy mô lớn, bố cục theo lối đường trục xuyên từ ngoài vào trong cùng các tượng tròn và các kiến trúc phụ được xếp đặt hài hòa, đăng đối.
Các di tích kể trên là một minh chứng cho tài năng của người Tiên Du, Từ Sơn trên một chặng dài lịch sử hàng ngàn năm. Nó đã góp phần làm cho nền văn hóa, nghệ thuật của dân tộc Việt Nam thêm phong phú và đa dạng.
Từ Sơn, Tiên Du là một khu vực cấu thành bộ Vũ Ninh trong nhà nước Văn Lang – Âu Lạc. Đây vừa là trung tâm chính trị, vừa là trung tâm kinh tế có nội lực cuốn hút mạnh mẽ vì ở vào vị trí cửa ngõ Bạch Hạc – Việt Trì kể từ phái biển và đồng bằng. Thời đó, nước ta có đủ loại kẻ thù như giặc Man, giặc Mũi Đỏ, giặc Ân nhòm ngó vùng đất này để khống chế toàn bộ vùng cao.
Tục truyền vào đời Hùng Vương thứ sáu, giặc Ân từ phương Bắc tràn vào Vũ Ninh đe dọa vận mệnh nhà nước Văn Lang. Chúng tàn sát, đốt phá và thi hành tất cả các thủ đoạn bạo ngược để tìm cách hủy diệt và đồng hóa các dân tộc ta. Ngoài người anh hùng làng Dóng còn có Thiên Cương ở Đồng Kỵ đánh tan giặc Mũi Đỏ, giữ yên bình nhà nước Văn Lang. Mấy trăm năm sau, với niềm tự hào quốc đô Cổ Loa của nhà nước Âu Lạc nằm trên đất mình, nhân dân địa phương đã sát cánh với An Dương Vương đánh bại cuộc xâm lược lần thứ nhất của nhà nước cát cứ Nam Việt. Sách Đại Việt sử ký toàn thư ghi:
“Tần Thủy Hoàng mất ở Sa Khâu, Nhâm Ngao và Triệu Đà đem quân sang lấn (Âu Lạc). Đà đóng quân ở núi Tiên Du trấn Bắc Giang đánh nhau với vua, vua đem nỏ thần ra bắn, Đà thua chạy. Bấy giờ Ngao đem quân đóng ở Đô Hồ phạm thổ thần nên bị bệnh rút về, bảo Đà rằng: – Nhà Tần sẽ mất nước thôi, nên dùng mưu kế đánh Thục Phán, có thể dựng nước được! Đà biết vua có nỏ thần không thể địch nổi lui giữ núi Vũ Ninh sai sứ sang giảng hòa… Đà sai con là Trọng Thủy vào hầu để túc vệ, cầu hôn con gái vua là Mỵ Châu. Vua bằng lòng gả. Trọng Thủy dỗ Mỵ Châu để xem trộm nỏ thần, rồi ngầm lấy lẫy nỏ rồi đổi cái khác, giả vờ về Bắc thăm mẹ”.
An Dương Vương đã không biết phát huy đại thắng núi Tiên Du để quét sạch kẻ thù ra khỏi Âu Lạc, lại để lộ bí mật về Nỏ thần và hệ thống bố phòng ở Cổ Loa. Đó là bài học đau đớn làm cho sức mạnh Âu Lạc bị suy giảm không đủ sức chống đỡ cuộc xâm lấn lần thứ 2 của kẻ thù vào năm 179 trước CN.
Dưới ách thống trị của kẻ thù phương Bắc, khi cuộc khởi nghĩa Mê Linh do Hai Bà Trưng lãnh đạo nổ ra mạnh mẽ ở Mê Linh, người dân địa phương cùng với nữ tướng Liễu Giáp ở trang Liêm Sơn (Lũng Giang – Vân Tương), Diệu Tiên, Pháp Hải, Quảng Khánh ở Xuân Thụ (Đồng Nguyên), võ tướng Tam Quang (Hồi Quan), Tam Ngọ (Bính Hạ), Nguyễn Tam Trinh (Mai Động) vợ chồng Đào Kỳ – Phương Dung (Cối Giang), Vĩnh Huy (Vân Điềm), Thủy Hải, Đăng Giang, Khổng Chúng (Hà Vĩ), Đông Bảng (Cổ Loa), Chiêu Nương (Đình Bảng)… tiến đánh kẻ thù tại các hang ổ Cổ Loa, Long Biên, Luy Lâu giành được nhiều thắng lợi lớn lao.
Trong những thế kỷ tiếp theo, nhân dân địa phương còn hăng hái đứng trong đội ngũ của Lý Thoát – Lý Dịch chống lại ách thống trị của nhà Tấn. Tháng 6 năm 441 họ đã từng tấn công vào Long Biên trong đội ngũ của Lư Tuần. Sách Đại Việt sử ký toàn thư và Tấn kỷ tư trị thông giám bổ đều cho biết: “Tuần đem quân đến bờ nam Long Biên, Tuệ Độ đem của riêng trong nhà ra ban thưởng cho quân lính, tự mình đi chiếc Quân hạm cao, cùng đánh nhau với Tuần”.
Năm 542, người dân địa phương lại có dịp tham gia vào cuộc khởi nghĩa của Lý Bí chống lại nền thống trị của nhà Lương.
Lý Bí quê ở ấp Thái Bình (Sơn Tây), theo thân mẫu đến Long Khám từ nhỏ. Đến tuổi tráng niên, ông lấy vợ người làng Đông Mai tên là Hứa Trinh Hòa rồi liên kết với hào trưởng các châu như Tinh Thiều, Triệu Túc, Phạm Tu, Lý Phục Man, Trương Hống, Trương Hát, Tuy Ông. Sau khi chiếm được lỵ sở Giao Châu, ông lên ngôi lấy hiệu là Lý Nam Đế, lập nước Vạn Xuân, đóng đô ở Long Biên, Đình Long Khám hiện còn bức đại tự Vạn Xuân đế quốc và thờ ông. Phụ mẫu của ông cũng có miếu thờ, 7 mẫu ruộng thờ cùng các bức đại tự Thánh mẫu Thánh Tử, Khải Thánh từ. Đình làng Đông Mai thờ bà Hứa Trịnh Hòa tức Dương Mai công chúa. Nghè Sài (Nội Duệ), đình Phù Lưu cùng nhiều làng khác ở Tiên Du, Từ Sơn dọc theo sông Ngũ Huyện, sông Tiêu Tương đều thờ Trương Hống – Trương Hát.
Đến giữa thế kỷ thứ X, đất nước ta đã giành lại nền độc lập tự chủ. Tuy nhiên đến năm 980 nhà Tống lại lăm lo thôn tính nước ta. Lê Đại Hành về Đông Ngàn đích thân chỉ huy việc xây dựng thành Bình Lỗ trên sông Cầu. Các địa danh Đồng Voi Tắm, Quan Đình (nơi vua dừng bước), Quan lộ (nơi bến đò vua qua) đã ghi lại thời kỳ sôi động ấy.
Quân xâm lược Tống đã dừng lại trước thành Bình Lỗ khi từ Ngân Đài (Việt Yên) tràn xuống. Các cánh quân bộ, quân thủy khác tràn được tới Hoa Bộ (tức Hoa Lâm) nhưng bị ghìm chân lại phải án binh bất động. Mãi đến tháng 4-981 chúng mới họp quân ở Đa La (Đa Hội – Đa Vạn) nhưng bị tập kích ở khắp nơi. Trần Khâm Tộ thua chạy ở Tây Kết, Hầu Nhân Bảo bị giết ở Bình Lỗ xác quăng xuống sông Cầu còn cánh quân Tôn Toàn Hưng – Lưu Trừng bị đánh bật khỏi Hoa Lâm, chết quá nửa, thây chết đầy đống, phải theo đường sông rút chạy ra biển.
Chưa đầy một thế kỷ sau, dưới triều nhà Lý, nhà Tống lại toan tính xâm lược Đại Việt lần thứ hai. Mùa đông năm 1076 Tống Thần Tông sai Quách Quỳ – Triệu Tiết đem 10 vạn bộ binh, một vạn ngựa, 20 vạn phu cùng một lực lượng thủy binh ồ ạt kéo vào nước ta. Chúng bị chặn lại trước phòng tuyến Như Nguyệt và cuộc chiến đấu sống còn diễn ra ngày một ác liệt trước cửa ngõ Thăng Long.
Trong những ngày khói lửa, người dân địa phương đã được huy động nhân tài vật lực để bảo vệ vùng đất thang mộc của nhà Lý. Lý Đạo Thành, vị phụ chính người làng Đình Bảng đã một lòng với hoàng gia, lo việc chính sự trong triều, kế hoạch ngoài biên. Lý Thường Kiệt đêm ngày xuôi ngược trên dòng Ngũ Huyện, Tiêu Tương đốc thúc binh lính Đại Việt chiến đấu quên mình.
Ở Xuân Ổ, Lý Nương cũng tập hợp được nhiều dân binh để bảo vệ xóm làng và tính mạng nhân dân. Châu Nương quê ở Đình Bảng đã cùng chồng là Đốc bộ Trần Thái Bảo lập công trên đất Hoan Châu. Năm 1288 kẻ thù sang lấn cướp nước ta lần thứ bam mặc dù chồng mới hy sinh nhưng Châu Nương vẫn chiến đấu bảo vệ kho tàng của triều đình ở Thăng Long đến hơi thở cuối cùng. Tại đến Giảng Võ vẫn còn đôi câu đối ghi nhận công lao của người con gái Đình Bảng dũng cảm:
“Giữ gìn tiền bạc đủ nuôi quân, chiếu thiên tử vời tận nơi khu Khổn.
Đã thác hồn trung còn đuổi giặc, tiếng thần thiêng vang dội chốn quần thoa”.
Đến giữa thế kỷ XIV, vua tôi nhà Trần chỉ lo hưởng thụ, trễ nải việc nước. Trần Dụ Tông còn biến cung động làm nơi chiêu tập các nhà giầu trong nước như làng Đình Bảng thuộc Bắc Giang, làng Nga Đính ở Quốc Oai vào trong cung đánh bạc cho vui, có tiếng bạc đặt gần 300 quan tiền, ba tiếng đã gần 1000 quan rồi. Cho nên khi quân Chiêm Thành kéo đến Thăng Long phải cho dựng rào trại ở Kinh thành, ngày đêm giữ gìn, Thượng hoàng ngự sang Đông Ngàn để tránh giực. Khi ấy có người học trò là Nguyễn Mộng Hoa, mặc áo mũ lội xuống nước kéo thuyền ngự lại, xin ở lại đánh giặc, Thượng hoàng không nghe. Đây cũng là thời kỳ nhà Minh nhòm ngó Đại Việt, nhất là khi nhà Hồ được thành lập thì âm mưu này được xúc tiến mạnh hơn.
Mùa xuân năm 1407, thành Đa Bang vỡ, nhà Hồ sụp đổ, đất nước rơi vào tay nhà Minh. Tiến sĩ Vũ Mộng Nguyên giữ vững tiết tháo, không hợp tác với giặc, lui về quê hương dạy học. Lịch triều hiến chương loại chí ghi nhận: “Buổi đầu nhà Lê cho ông là người ẩn dật còn sót lại, triệu ra làm Tư nghiệp Quốc Tử giám. Văn học, danh vọng của ông mọi người đều tôn phục, thời bấy giờ tôn xưng là Minh phủ (người tài giỏi sáng suốt)”.
Cũng trong cảnh nước mất nhà tan ấy, bên cạnh Nguyễn Thiên Tích gắng gỏi dùi mài kinh sử để sau giúp ích cho đời còn có Ngô Đễ – người làng Giới Tế (Rừng Mành) đã lặn lội vào tận Thanh Hóa gia nhập vào cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Đại Nam nhất thống chí cho biết: “Thời Lê Thái Tổ có nhiều chiến công, được cho họ Lê, phong công thần, Thống lãnh đại tướng quân. Khi mất phong làm phúc thần cấp cho ruộng thờ thế nghiệp. Các triều có phong tặng”.
Ở làng Hà Lỗ, Đinh Lễ và nghĩa quân Lam Sơn đã hạ trại nhiều ngày đêm, nay còn nhiều dấu tích ghi lại.
Đánh đuổi giặc Minh chưa tròn một thế kỷ, vua tôi nhà Lê lại đi vào con đường sa hoa, trụy lạc. Dưới thời Lê Uy Mục – phe ngoại thích họ hàng với thái hậu Nguyễn Thị Cẩn – quê ở Phù Ninh cùng bọn chuyên quyền ra tay giết hại công thần, trắng trợn cướp bóc của dân lành để làm giầu, xâm chiếm ruộng đất, buông tuồng chính sự lụt lội lại xảy ra liên tiếp gây ra nạn đói nghiêm trọng cho vùng Tiên Du, Từ Sơn, Yên Phong. Ở đâu cũng có cảnh người chết đói chồng chất lên nhau.
Đứng trước tình cảnh đó, tiến sĩ Thân Duy Nhạc (Đại Xuân – Quế Võ) vì chán ghét chính quyền mục nát, công phẫn trước sự bất công đã liên kết với một hào trưởng tên là Ngô Văn Tổng kêu gọi nhân dân 4 huyện Yên Phong (khi đó tên là Yên Phú), Tiên Du, Từ Sơn, Gia Lâm đứng dậy chống lại nhà Lê. Đại Việt sử ký toàn thư ghi: “Tháng 2 năm Tân Mùi (1511) bấy giờ Thân Duy Nhạc, Ngô Văn Tổng dấy quân ở các huyện Yên Phú, Đông Ngàn, Gia Lâm xứ Kinh Bắc. Có nho sinh ở huyện Yên Phú là Chư Thực báo với Lưu Thủ Đông Kinh Thụy quân công Ngô Bích và Kim nguyên bá Trịnh Bá Quát. Sai quân đánh tan bắt được Duy Nhạc, Văn Tổng giải về Kinh sư rồi đưa đến hành tại”.
Đây là cuộc khởi nghĩa đầu tiên trong phong trào đấu tranh chống lại nhà Lê. Đến năm 1516, nơi này lại chứng kiến cuộc khởi nghĩa do Trần Cảo lãnh đạo. Nghĩa quân từ Thủy Nguyên – Đông Triều tràn qua Quế Dương sang Đông Ngàn, Tiên Du đánh chiếm Thăng Long. Trải qua 6 năm tồn tại, phong trào Trần Cảo đã góp phần làm cho hệ thống đương quyền mau chóng sụp đổ.
Liền vào lúc đó, mùa hè năm 1522, Lương phú hầu Lê Bá Hiếu cùng Bảo Xuyên hầu Lê Khắc Cươ