18/06/2018, 16:19

Về Kỷ Hồng Bàng trong sử Việt

Đặng Thanh Bình Trước khi chúng ta tìm hiểu về thủa Hồng Bàng, thì cần thống nhất với nhau rằng: Kỷ này bao gồm khởi đầu từ Kinh Dương Vương đến Lạc Long Quân đến Hùng Vương cuối cùng kết thúc ở An Dương Vương Thục Phán. Sách Khâm định Việt sử thông giám cương mục do Quốc ...

trongdongNgocLu.jpg

Đặng Thanh Bình

 

Trước khi chúng ta tìm hiểu về thủa Hồng Bàng, thì cần thống nhất với nhau rằng: Kỷ này bao gồm khởi đầu từ Kinh Dương Vương đến Lạc Long Quân đến Hùng Vương cuối cùng kết thúc ở An Dương Vương Thục Phán.

Sách Khâm định Việt sử thông giám cương mục do Quốc sử quán triều Nguyễn soạn vào khoảng 1856 – 1884 đều có những ghi chép quan trọng về thủa Hồng Bàng như:

“Nguyên xưa, Đế Minh, cháu ba đời Viêm đế Thần Nông thị, đi tuần sang Nam, đến Ngũ Lĩnh, lấy Vụ tiên nữ, sinh con là Lộc Tục có đức tính hoàn toàn. [lược một đoạn] Phong Lộc Tục làm Kinh Dương Vương, thống trị phương Nam.

Kinh Dương Vương sinh con là Sùng Lãm, gọi là Lạc Long Quân. Lạc Long Quân lấy Âu Cơ, sinh trăm con trai. Ấy là tổ tiên của Bách Việt, suy tôn người trưởng lên làm Hùng Vương, nối ngôi vua, dựng nước gọi là nước Văn Lang, đóng đô ở Phong Châu; truyền nối mười tám đời đều gọi là Hùng Vương”.

“Thục vương Phán đem quân sang xâm. Hùng Vương nhảy xuống giếng chết. Nước Văn Lang mất. [lược một đoạn] Năm Giáp Thìn (267 TCN) (Thục An Dương Vương năm thứ 1; Chu Noãn vương năm thứ 58). Thục Vương đã lấy được nước Văn Lang, đổi tên nước là Âu Lạc, đóng đô ở Phong Khê. [lược một đoạn] Năm Bính Ngọ (255 TCN) (Thục An Dương Vương năm thứ 3; Chu Đông – chu quân năm thứ 1). Tháng ba, mùa xuân, đắp xong Loa thành. [lược một đoạn] Năm Quý Tỵ (208 TCN) (Thục An Dương Vương năm thứ 50; Tần Nhị thế năm thứ 2). Triệu Đà nhà Tần lại sang xâm lược. Vua Thục thua, chạy, chết. Nhà Thục mất”.

Tuy rằng sách Khâm định Việt sử thông giám cương mục chép khá chi tiết về kỷ Hồng Bàng song có 2 điểm chúng ta cần lưu ý: Thứ nhất, nguồn tham khảo của sách này khi viết về thời kỳ này chủ yếu là Đại Việt sử ký toàn thư của Ngô Sĩ Liên, ngoài ra còn có An Nam kỷ yếu của Cao Hùng Trưng và Thái Bình hoàn vũ ký của Nhạc Sử. Thứ hai, tuy rằng có dẫn sách nhưng Quốc sử quán triều Nguyễn vẫn bày tỏ sự nghi ngại về sự tồn tại của thời kỳ này. Chẳng hạn:

“Nhưng cách hồ Động Đình và đất Ba Thục còn xa lắm, thế mà Sử cũ chép nước Văn Lang phía tây giáp Ba Thục, phía bắc giáp Động Đình, chẳng cũng xa sự thực lắm dư! Này, Động Đình giáp hai tỉnh Hồ Nam và Hồ Bắc, thực ra ở về phía bắc Bách Việt; mà Ba Thục với Văn Lang còn cách Tuấn Điền (nay thuộc Vân Nam) không liền đất nhau. Chẳng qua Sử cũ chép quá khoa trương. Việc này với việc Thục Vương sau đây đều là hư truyền cả, mà chưa khảo cứu được. Vả lại, mười lăm bộ đã chia đó đều ở trong địa hạt Giao Chỉ và Chu Diên, chứ không có bộ nào ở về phương Bắc (Trung Quốc). Như thể đủ chứng tỏ là không đúng sự thực”.

“Sử cũ chép: Vua, họ Thục, húy Phán, người đất Ba Thục. Bấy giờ nhà vua đã lấy được Văn Lang, đổi quốc hiệu là Âu Lạc, đóng đô ở Phong Khê. Lời cẩn án – Nước Thục, từ năm thứ 5 đời Thận Tĩnh Vương nhà Chu (316 TCN) đã bị nhà Tần diệt rồi, làm gì còn có vua nữa? Huống chi từ Thục đến Văn Lang, còn có đất Kiện Vi (nay thuộc Vân Nam) đất Dạ Lang, đất Cùng, đất Tác và đất Nhiễm Mang (những đất này xưa là đất rợ mọi ở về phía tây và nam, nay thuộc Vân Nam), cách nhau hàng hai ba ngàn dặm, có lẽ nào Thục vượt qua được các nước ấy mà sang đánh lấy nước Văn Lang? Sử cũ đã chép “cháu Thục Vương là Phán”, lại chép “An Dương Vương họ Thục, húy Phán, người đất Ba Thục” hoặc giả ngoài cõi Tây Bắc giáp với nước Văn Lang, còn có họ Thục khác mà Sử cũ liền nhận là Thục Vương chăng? Chứ nếu bảo Thục Vương đây lại là người ở Ba Thục thì không phải”.

“Lời cẩn án – Sử cũ phần Ngoại kỷ chép Hồng Bàng thị bắt đầu từ Kinh Dương Vương thụ phong năm Nhâm Tuất (2879 TCN) cùng thời với Đế Nghi, truyền đến Hùng Vương đời cuối cùng là năm Quý Mão (258 TCN), tức năm thứ năm mươi bảy đời Noãn Vương nhà Chu thì mất nước, tất cả là hai nghìn sáu trăm hai mươi hai năm. Sự đó không biết Sử cũ khảo cứu ở đâu, bây giờ cũng hãy cứ chép lại để phòng khi tra xét”.

Nguồn tham khảo chính của Khâm định Việt sử thông giám cương mục là Đại Việt sử ký toàn thư của Ngô Sĩ Liên được soạn năm 1479 cũng chép khá đầy đủ và chi tiết về kỷ Hồng Bàng, chặng hạn:

“Nhâm Tuất, năm thứ 1. Xưa cháu ba đời của Viêm Đế họ Thần Nông là Đế Minh sinh ra Đế Nghi, sau Đế Minh nhân đi tuần phương Nam, đến Ngũ Lĩnh lấy con gái Vụ Tiên, sinh ra vua [Kinh Dương Vương]. Vua là bậc thánh trí thông minh [lược một đoạn] phong cho vua làm Kinh Dương Vương, cai quản phương Nam, gọi là nước Xích Quỷ. Vua lấy con gái Động Đình Quân tên là Thần Long sinh ra Lạc Long Quân”’

“Lạc Long Quân tên húy là Sùng Lãm, con của Kinh Dương Vương. Vua lấy con gái của Đế Lai là Âu Cơ, sinh ra trăm con trai (tục truyền sinh trăm trứng), là tổ của Bách Việt. Một hôm, vua bảo Âu Cơ rằng: “Ta là giống rồng, nàng là giống tiên, thủy hỏa khắc nhau, chung hợp thật khó”. Bèn từ biệt nhau, chia 50 con theo mẹ về núi, 50 con theo cha về ở miền Nam (có bản chép là về Nam Hải) phong cho con trưởng làm Hùng Vương, nối ngôi vua”.

“Hùng Vương là con Lạc Long Quân (không rõ tên húy) đóng đô ở Phong Châu (nay là huyện Bạch Hạc). Hùng Vương lên ngôi, đặt quốc hiệu là Văn Lang [lược một đoạn] đời đời cha truyền con nối”.

“Cuối thời Hùng Vương, vua có con gái gọi là Mị Nương, nhan sắc xinh đẹp. Thục Vương nghe tiếng, đến cầu hôn. Vua muốn gả, nhưng Hùng hầu can rằng: “Họ muốn chiếm nước ta, chỉ lấy việc hôn nhân làm cớ mà thôi”. Thục Vương vì chuyện ấy để bụng oán giận [lược một đoạn] dặn lại con cháu phải diệt Văn Lang mà chiếm lấy nước. Đến đời cháu là Thục Phán có dũng lược, bèn đánh lấy nước”.

“An Dương Vương họ Thục, tên húy là Phán, người Ba Thục, ở ngôi 50 năm, đóng đô ở Phong Khê (nay là thành Cổ Loa). Giáp Thìn, năm thứ 1 [257 TCN] (Chu Noãn Vương năm thứ 58). [lược một đoạn] Vua đã thôn tính được nước Văn Lang, đổi quốc hiệu là Âu Lạc”

“Quý Tỵ, năm thứ 50 [208 TCN] (Tần Nhị Thế Hồ Hợi, năm thứ 2) [lược một đoạn] Ngao lấy Đà thay mình [lược một đoạn] Đà đem quân đến đánh vua [lược một đoạn] vua không biết lẫy nỏ đã mất [lược một đoạn] quân của Đà tiến sát đến nơi, vua giương nỏ thì lẫy đã gãy rồi. [lược một đoạn] Vua thua chạy”.

Ngoài những cấu trúc cơ bản của lịch sử thời kỳ này, sách Đại Việt sử ký toàn thư còn chép thêm những truyền thuyết như chuyện về Phù Đổng Thiên vương Thánh Gióng, Sơn Tinh và Thuỷ Tinh, chuyện về thành Cổ Loa và nỏ thần cũng như truyền thuyết Mỵ Châu Trọng Thuỷ.

Chúng ta cũng cần lưu ý 2 điểm trong Đại Việt sử ký toàn thư, đó là:

Thứ nhất, Ngô Sĩ Liêm cũng có sự e dè đối với những câu chuyện truyền thuyết. Chẳng hạn:

“Sử thần Ngô Sĩ Liên nói: Thời Hùng Vương đặt chư hầu để làm phên giậu, chia nước làm 15 bộ. Ở 15 bộ ấy đều có trưởng và tá. Vua theo thứ bậc cắt đặt các con thứ để cai trị. Nói 50 con theo mẹ về núi, làm sao biết không phải là như thế? Vì mẹ làm quân trưởng, các con đều làm chúa một phương. Cứ xem như tù trưởng người man ngày nay xưng là nam phụ đạo, nữ phụ đạo. Còn như việc Sơn Tinh, Thủy Tinh thì rất là quái đản, tin sách chẳng bằng không có sách, hãy tạm thuật lại chuyện cũ để truyền lại sự nghi ngờ thôi”.

Thứ hai, Ngô Sĩ Liên có biết tới Liễu Nghị truyện của Lý Triều Uy đời Đường, thật vậy:

“Xét: Đường kỷ chép: thời Kinh Dương có người đàn bà chăn dê, tự xưng là con gái út của Động Đình Quân, lấy con thứ của Kinh Xuyên, bị bỏ, viết thư nhờ Liễu Nghị tâu với Động Đình Quân. Thế thì Kinh Xuyên và Động Đình đời đời làm thông gia với nhau đã từ lâu rồi”.

Việt sử lược soạn vào thời nhà Trần khoảng năm 1377 cũng có ghi chép về kỷ Hồng Bàng song không chi tiết lắm. Việt sử lược chép:

“Xưa, Hoàng Đế dựng nên muôn nước, thấy Giao Chỉ xa xôi, ở ngoài cõi Bách Việt, không thể thống thuộc được, bèn phân giới hạn ở góc tây nam, có 15 bộ lạc. Những bộ lạc này đều không thấy đề cập đến trong thiên Vũ cống. Đến đời Thành Vương nhà Chu Việt Thường Thị mới đem dâng chim bạch trĩ, sách Xuân Thu gọi là khuyết địa, sách Đái ký gọi là Điêu đề. Đến đời Trang Vương nhà Chu (696-682 TCN) ở bộ Gia Ninh có người lạ, dùng ảo thuật qui phục được các bộ lạc, tự xưng là Hùng Vương đóng đô ở Văn Lang, đặt quốc hiệu là Văn Lang, phong tục thuần lương chơn chất, chính sự dùng lối thắt gút. Truyền được 18 đời đều xưng là Hùng Vương.

Việt Câu Tiễn (505-465 TCN) thường sai xứ sang dụ, Hùng Vương chống cự lại. Cuối đời nhà Chu, Hùng Vương bị con vua Thục là Phán đánh đuổi rồi lên thay. Phán đắp thành ở Việt Thường, lấy hiệu là An Dương Vương rồi không cùng với họ Chu thông hiếu nữa. Cuối đời nhà Tần, Triệu Đà chiếm cứ Uất Lâm, Nam Hải, Tượng quận rồi xưng vương đóng đô ở Phiên Ngung, đặt quốc hiệu là Việt, tự xưng là Võ Vương. Lúc bấy giờ An Dương Vương có thần nhân là Cao Lổ chế tạo được cái nỏ liễu bắn một phát ra mười mũi tên, dạy quân lính muôn người. Võ Hoàng biết vậy bèn sai con là Thủy xin sang làm con tin để thông hiếu. Sau nhà vua đãi Cao Lỗ hơi bạc bẽo. Cao Lỗ bỏ đi, con gái vua là Mỵ Châu lại cùng với Thủy tư thông. Thủy phỉnh Mỵ Châu mong được xem cái nỏ thần, nhân đó phá hư cái lẫy nỏ rồi sai người trình báo với Võ Hoàng. Võ Hoàng lại cất binh sang đánh. Quân kéo đến, vua An Dương Vương lại như xưa là dùng nỏ thần thì nỏ đã hư gẫy, quân lính đều tan rã. Võ Hoàng nhân đó mà đánh phá, nhà vua ngậm cái sừng tê đi xuống nước. Mặt nước cũng vì ngài mà rẽ ra. Đất nước vì thế mà thuộc nhà Triệu”.

Được soạn cùng thời với Việt sử lược sách An Nam chí lược của Lê Tắc cũng có những ghi chép về thủa Hồng Bàng này:

“Việt-Vương-Thành, tục gọi là thành Khả-Lũ, có một cái ao cổ, Quốc-vương mỗi năm lấy ngọc châu, dùng nước ao ấy rửa thì sắc ngọc tươi đẹp. Giao-Châu Ngoại-Vực-Ký chép: hồi xưa, chưa có quận huyện, thì Lạc-điền tuỳ theo thuỷ-triều lên xuống mà cày cấy. Người cày ruộng ấy gọi là Lạc-Dân, người cai-quản dân gọi là Lạc-Vương, người phó là Lạc-Tướng, đều có ấn bằng đồng và dải sắc xanh làm huy hiệu. Vua nước Thục, thường sai con đem ba vạn binh, đi chinh phục các Lạc-Tướng, nhân đó cử giữ đất Lạc mà tự xưng là An-Dương-Vương. Triệu-Đà cử binh sang đánh. Lúc ấy có một vị thần tên là Cao Thông xuống giúp An-Dương-Vương, làm ra cái nỏ thần, bắn một phát giết được muôn người. Triệu Đà biết địch không lại với An-Dương-Vương, nhân đó trú lại huyện Võ-Ninh, khiến Thái-Tử Thuỷ làm chước tá hàng để tính kế về sau. Lúc Cảo-Thông đi, nói với vua An-Dương-Vương rằng: “Hễ giữ được cái nỏ của ta, thì còn nước, không giữ được thì mất nước”. An-Dương-Vương có con gái tên là Mỵ-Châu, thấy Thái-Tử Thuỷ lấy làm đẹp lòng, rồi hai người lấy nhau. Mỵ-Châu lấy cái nỏ thần cho Thái-Tử Thuỷ xem, Thuỷ xem rồi lấy trộm cái lẩy nỏ mà đổi đi. Về sau Triệu-Đà kéo quân tới đánh thì An-Dương-Vương bại trận, cầm cái sừng tê vẹt được nước vào biển đi trốn, nên Triệu-Đà chiếm cả đất của An-Dương-Vương. Nay ở huyện Bình-Địa, dấu tích cung điện và thành trì của An-Dương-Vương hãy còn”.

Nhận xét:

– Như vậy là các bộ sử ở nước ta đều có ghi chép về thủa Hồng Bàng, tuy nhiên những bộ sự sau chép chi tiết hơn, trong khi những bộ sử sớm lại chỉ ghi chép sơ lược.

– Tác giả của những bộ sử sau có đặt những nghi vấn về kỷ Hồng Bàng, sách Đại Việt sử ký toàn thư của Ngô Sĩ Liên có ghi chép lại cả những truyền thuyết gợi ý cho chúng ta về những nguồn tài liệu văn – sử.

– Sách An Nam chí lược có dẫn sách Giao Châu ngoại vực ký. Một cuốn sách đã thất truyền được dẫn lại trong Thuỷ Kinh chú của Lịch Đạo Nguyên khoảng đầu thế kỷ 5, một tài liệu sớm nhất ghi chép về kỷ Hồng Bàng được biết đến.

Qua việc Đại Việt sử ký toàn thư của Ngô Sĩ Liên có ghi chép cả những truyền thuyết gợi ý cho chúng ta mở rộng sự khảo sát sang địa hạt văn – sử. Tác phẩm gây được sự chú ý nhất trong địa hạt này là Lĩnh Nam chích quái. Đây là tác phẩm cùng thời với Việt sử lược, được cho là của Trần Thế Pháp, tác phẩm theo thời gian được hiệu đính và bổ sung thêm. Theo Lĩnh Nam chích quái bình giải (do Nguyễn Hữu Vinh dịch từ bản Hán văn, Trần Đình Hoành bình) thì phần chính của tác phẩm gồm 22 truyện, phần bổ sung (tục biên) gồm 19 truyện. Kiểm kê 22 truyện trong phần chính thì nhận thấy rằng: truyện các số 1: truyện họ Hồng Bàng; truyện số 7: truyện Phù Đổng Thiên Vương; truyện số 8: truyện bánh chưng; truyện số 9: truyện dưa hấu; truyện số 10: truyện chim trĩ trắng; truyện số 11: truyện Lý Ông Trọng; truyện số 13: truyện rùa vàng; truyện số 15: truyện núi Tản Viên. Tất cả các truyện này đều kể về thời kỳ Hồng Bàng, đối chiếu nội dung trong Đại Việt sử ký toàn thư của Ngô Sĩ Liên với Lĩnh Nam chích quái thì nhận thấy có sự giống nhau, đặc biệt là các truyện: truyện họ Hồng Bàng, truyện chim trĩ trắng; truyện rùa vàng. Như vậy chúng ta có thể bước đầu xác lập mối quan hệ tham khảo giữa Đại Việt sử ký toàn thư và Lĩnh Nam chích quái.

Tác phẩm Việt điện u linh tập do Lý Tế Xuyên soạn vào những năm 1329 cũng có những ghi chép, hơn thế nữa còn dẫn lại các sách trước đó có ghi chép về thủa Hồng Bàng, tuy nhiên so với Lĩnh Nam chích quái thì Việt điện u linh tập ít hơn đáng kể, những truyện cần lưu ý là: truyện Sơn Tinh và Thuỷ Tinh, truyện Lý Ông Trọng, truyện Cao Lỗ. Tuy rằng 2 tác phẩm văn-sử này được viết cùng thời song chúng ta không thể có kết luận gì trong việc so sánh chúng.

Chúng ta tiếp tục mở rộng địa hạt khảo cứu. Hiện nay, có 3 cuốn Ngọc phả đáng chú ý ghi chép khá chi tiết về phả hệ của vua Hùng. Theo Nguyễn Xuân Đài thì bản “Nam Việt Hùng vương ngọc phả vĩnh truyền” được soạn vào năm Thiên Phúc nguyên niên (năm 986) cũng là bản cổ nhất, theo Nguyễn Khắc Xương thì bản sao được soạn năm Khải Định thứ 4 (năm 1919). Bản “Cổ Việt Hùng thị nhất thập bát thế thánh vương ngọc phả cổ truyện” được Nguyên Cố Phụng soạn vào năm Hồng Đức nguyên niên (năm 1470) bản sao được soạn vào năm Hoằng Đình nguyên niên (năm 1601). Hiên văn bản được lưu tại Bảo tàng Hùng Vương và được Ngô Đức Thọ dịch toàn văn. Bản “Hùng vương sự tích ngọc phả cổ truyện” được Nguyễn Bính soạn năm Hồng Phúc nguyên niên (năm 1572). Ngọc phả Hùng vương cung cấp cho chúng ta khá chi tiết về thủa Hồng Bàng, tuy nhiên những cuốn Ngọc phả này được soạn vào khoảng thời gian từ Lĩnh Nam chích quái tới Đại Việt sử ký toàn thư, Nam Việt Hùng vương ngọc phả vĩnh truyền được cho là soạn năm 986, nhưng hiện vẫn chưa có kết luận cuối cùng.

Tiểu kết: Chúng ta đã thấy tất cả những văn bản hiện còn được biết tới từ sử tới tác phẩm văn sử tới ngọc phả đều có những ghi chép về thời đại Hồng Bàng, tuy nhiên những văn bản này đều có niên đại gần đây (khoảng 1000 năm) cách quá xa so với thủa Hồng Bàng do đó không có cơ sở để khẳng định những ghi chép của các văn bản ấy là đúng sự thật.

Chúng ta bây giờ mở rộng tối đa địa hạt khảo cứu. Đó là những truyền thuyết tồn tại trong dân gian, đặc điểm của những truyền thuyết này là được truyền miệng từ người này sang người khác, từ thế hệ này sang thế hệ khác, từ nơi này sang nơi khác. Do đó có nhiều người tham gia vào câu chuyện vì thế dẫn đến sự biến đổi của truyền thuyết. Sự biến đổi này không đơn giản chỉ dừng lại ở từ ngữ mà ở cả cú pháp của câu, không chỉ dừng ở việc bỏ bớt các chi tiết truyện mà còn thêm các chi tiết truyện. Nó không chỉ bảo lưu những yếu tố văn hoá của xã hội cổ xưa mà còn được biến đổi để mang những yếu tố văn hoá đương thời. [chẳng hạn như: người Mân Việt, Tây Âu tiếp xúc sớm hơn và gần gũi hơn với người Hán về không gian nên họ bị ảnh hưởng trước và rộng hơn, trong khi đó người Chăm ở ngay sát người Việt – Mường, thời điểm trước công nguyên vẫn đang trong chế độ mẫu hệ, thêm vào đó: thời điểm khởi nghĩa Hai Bà, bản thân Hai Bà và các nữ tướng đều là nữ giới, do đó có thể nghĩ rằng: Thời điểm trước công nguyên người Việt – Mường vẫn ở chế độ mẫu hệ. Thế nhưng các văn bản và các truyền thuyết trong dân gian lại đều cho rằng: vua Hùng là nam giới. Điều này tạm thời (sẽ chứng minh ở phần tiếp theo) cho thấy đã có sự biến đổi truyền thuyết cho phù hợp với thời đại.

Tôi nghĩ rằng: chúng ta cần một giả thuyết quan trọng để có thể tiếp tục khảo cứu về thủa Hồng Bàng, thực ra nó nên được gọi là tiền đề thì đúng hơn. Nếu như thủa Hồng Bàng diễn ra trước công nguyên trong khi những ghi chép hiện còn được biết tới có niên đại khoảng 1000 năm sau công nguyên, vậy là có một khoảng trống thời gian quá lớn, trong khi đòi hỏi phải có một sự đảm bảo về tính liên tục của thông tin, trong trường hợp này, có lẽ lựa chọn duy nhất của chúng ta là: truyền thuyết dân gian! Đây là thứ duy nhất giữ được vai trò này! Hay nói cách khác, tất cả các văn bản mà chúng ta được biết đến thì hoặc là trực tiếp hoặc là gián tiếp sử dụng truyền thuyết dân gian làm nguồn tham khảo. Bản thân các văn bản cũng rất đa dạng trong việc sử dụng truyền thuyết dân gian làm tư liệu. Văn bản là sự cố định các truyền thuyết (truyền thuyết chết) trong khi truyền thuyết dân gian thì lại biến đổi (truyền thuyết sống). Hai loại truyền thuyết này không giống nhau hoàn toàn. Chúng ta đọc một truyền thuyết trên văn bản nào đó, nhưng chúng ta không thể nhớ hết được ngôn từ của văn bản đó, nên khi chúng ta kể lại thì chúng ta chỉ kể được nội dung truyền thuyết với ngôn từ của chúng ta. Chúng ta hiện bị ảnh hưởng bởi các truyền thuyết trong văn bản, mà không thể biết được các truyền thuyết ấy trước khi được cố định vào văn bản ra sao, chỉ có thể biết nội dung mà thôi. Những truyện trăm trứng, thánh gióng, mai an tiêm, sơn tinh thuỷ tinh, mỵ châu trọng thuỷ cách đây 2000 năm có nội dung tương tự với truyền thuyết trong các văn bản cách đây 500 năm. Bản thân những truyện trong Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam của Nguyễn Đổng Chi cũng là một văn bản, đã cố định những câu truyện cổ tích ở một dạng kể nào đó trong dân gian. Chúng ta đề cập tới vấn đề này để chắc chắn rằng: Việc xem xét đối chiếu văn bản là không thể, chúng ta chỉ có cách duy nhất là đối chiếu nội dung của truyền thuyết mà thôi. Thêm nữa, chúng ta không thể khăng khăng truyền thuyết xảy ra đúng như trong Lĩnh Nam chích quái, trên thực tế thì nó đơn giản hơn nhiều.

Bài viết: “Hồng Bàng truyện thị” như một truyền thống được kiến tạo của người Việt thời trung đại của Lê Minh Khải do Hoa Quốc Văn chuyển ngữ đã có những đánh giá khá thú vị về thời kỳ Hùng vương.

“Trong khi đó, toàn bộ câu chuyện này, phản chiếu một đoạn văn trong một văn bản sớm hơn, cuốn Hoa Dương quốc chí.

Cuốn Hoa Dương quốc chí, được viết vào thế kỉ IV sau CN và là cuốn sử hầu như về một khu vực mà ngày nay thuộc tỉnh Tứ Xuyên của Trung Hoa. Trong thiên niên kỉ đầu tiên trước CN, Tứ Xuyên được chia làm 2 nước Ba và Thục và Hoa Dương quốc chí quan tâm đến các nước này. Phần Thục chí bắt đầu bằng một đoạn văn khá giống với đoạn mở đầu trong Hồng Bàng thị truyện. Tuy nhiên, thay vì bắt đầu với Thần Nông, Thục chí lại bắt đầu với Nhân Hoàng, một thủ lĩnh được cho là sống trước Thần Ông, mà Thần Nông lại sống trước Hoàng Đế. Nhân Hoàng cũng được cho là đã chia thế giới được biết thành chín khu vực. Thục chí bắt đầu như sau:

“Nước Thục dựng nước bắt đầu từ Nhân Hoàng, ông đã đặt Thục ngang hàng với Ba. Thời Hoàng Đế, con ông là Chang Yi lấy con gái họ Thục Sơn, sinh ra một con trai tên là Cao Dương, trở thành Đế Cốc. Đế Cốc phong tước vị cho các thành viên của các chi bàng hệ trong gia tộc mình ở đất Thục, nơi họ đã phụng sự [vương quốc] qua nhiều thế hệ với tư cách là hầu tước và nam tước. Điều đó được tiếp nối qua các triều Hạ, Thương, Chu”.

Rõ ràng như mọng đợi, thông tin trong đoạn văn này rất giống với đoạn mở đầuHồng Bàng thị truyện của Liệt truyện”.

“Một truyện ngắn thời Đường có tên Liễu Nghị truyện của Lí Triều Uy vào thế kỉ VIII. Câu chuyện này xuất hiện đầu tiên trong một tập truyện chí quái triều Đường, tập Dị văn kí của Trần Hãn. Sau đó nó được đưa vào một bố tổng tập ở thế kỉ X là Thái Bình quảng kí ở một chương dành trọn cho những thông tin nói về rồng.

Câu chuyện về Liễu Nghị xảy ra trong thời Nghi Phụng (676-678) dưới sự trị vì của Đường Cao Tông. Nó kể về một học giả trẻ tên là Liễu Nghị người, sau khi thi trượt ở kinh đô, quyết đính đến thăm một người bạn ở quận Kinh Dương tỉnh Sơn Tây. Lưu ý rằng những chữ Kinh, Dương trong tên quận ở đây giống với chữ trong tên Kinh Dương Vương. Trên đường đi, Liễu Nghị gặp một cô gái chăn dê và phát hiện ra rằng cô gái là con của Long quân hồ Động Đình. Bố mẹ cô đã gả cô cho Kinh Xuyên quân ở Sơn Tây, nhưng ông ta đã đối xử tệ với cô và cuối cùng ruồng rẫy cô. Rồi cô nhờ cậy Liễu Nghi mang thư gửi cho cha mình, Long quân hồ Động Đình, và tóm lại, cuối cùng Liễu Nghị đã lấy cô con gái của Long quân.

Câu chuyện này rõ ràng là sự gợi ý cho cuộc hôn nhân giữa Kinh Dương Vương và Thần Long, con gái của Động Đình quân mà chúng ta thấy trong Liệt truyện và Toàn thư. Trên thực tế, nó là một mối liên hệ không phải không được lưu ý trong quá khứ, bởi nó được bình luận trong Toàn thư. Văn bản Toàn thư được đặt rải rác với những chú thích ngắn gọn. Không rõ là ai hoặc là Ngô Sĩ Liên hoặc là một học giả nào đó sau này đã viết những lời bình luận này. Dù thế nào, sau đoạn nói về cuộc hôn nhân này, Toàn thư cũng có một bình luận có phần khó hiểu sau đây:

“Theo Đường kỉ, Kinh Dương lúc bấy giờ có người phụ nữ chăn dê, xưng là con gái út của Động Đình quân, lấy con thứ hai của Kinh Xuyên, nhưng sau đó nàng bị bỏ. Cô giao một bức thư cho Liễu Nghị, người đệ trình một kỉ vật choi Động Đình quân. Thế thì, những cuộc hôn nhân qua nhiều thế hệ giữa Kinh Xuyên và Động Đìnhđã có một lịch sử lâu dài”.

Bất kể là ai viết bình luận này rõ ràng đều biết những thông tin trong Liễu Nghị truyện, mặc dù ông khẳng định rằng nó bắt nguồn từ Đường kỉ”.

Như vậy là Lê Minh Khải đã nhận định kỷ Hồng Bàng chỉ là sự sáng tạo của người Việt thời trung đại trên cơ sở văn hoá Trung Hoa.

Trong bài: Một vài nhận xét về mối quan hệ Mường Việt và quá trình phân hoá giữa tộc Mường và tộc Việt của Trần Quốc Vượng, Nguyễn Dương Bình cho viết:

“J.Cuisinier còn sưu tầm được một truyện phản ánh nguồn gốc người Mường, truyện này có lẽ là một bài mo, được kể trong những dịp tang lễ ở một số nhà lang họ Quách, họ Đinh. Truyện kể rằng nàng Ngu Cơ (Âu Cơ của Việt) vốn là một con hươu sao đã kết duyên cùng Long Vương (Lạc Long Quân của Việt) vốn là một con cá. Ngu Cơ đẻ được trăm trứng và nở thành 50 con gái, 50 con trai. Sau Ngu Cơ và Long Vương cũng chia con, 50 theo cha ra miền bể lập nên dòng vua áo vàng (người Mường thường nói “vua Táo áo vàng”, Táo hay Đáo là tiếng người Mường gọi người Việt), còn Ngu Cơ dẫn 50 con lên vùng đồi núi lập nên dòng vua áo đen. Theo ý chúng tôi, truyền thuyết ấy của người Mường còn giữ được nhiều nét “cổ” hơn truyền thuyết Việt: “Chim Ay, cái Úa”, Hươu sao Ngu Cơ, cá Long Vương có thể xem là những tổ tiên tô tem giáo của người Mường và người Việt. Cả hai truyền thuyết Mường và Việt đều phản ánh nguồn gốc chung của tộc Mường và tộc Việt và sự tách rời nhau của hai tộc ấy ở một thời kỳ lịch sử nào đó”

Những nhà ngôn ngữ học cho rằng người Việt và người Mường có chung nguồn gốc, vì thế mà sự giống nhau về truyền thuyết của 2 tộc người này, làm ta đặt câu hỏi: Truyền thuyết của 2 tộc người này có từ khi 2 tộc người này tách ra hay là do sự tiếp thu văn hoá của nhau? Theo các nhà ngôn ngữ thì thời điểm chia tách Việt – Mường diễn ra từ thế kỷ 7 tới thế kỷ 12. Nên nếu như truyền thuyết của 2 tộc người này có từ trước khi phân tách (trước thế kỷ 12) thì Hồng Bàng truyện không phải là một kiến tạo của người Việt thời trung đại như Lê Minh Khải nhận định, nhưng nếu là tiếp thu văn hoá của nhau thì truyền thuyết phải xuất hiện sau khi phân tách (sau thế kỷ 12) thì Hồng Bàng truyện có khả năng là một kiến tạo.

Nếu như truyền thuyết của 2 tộc người này có từ trước khi chia tách, thì sau khi chia tách, truyền thuyết của người Việt nhanh chóng bị Hán hoá, còn của người Mường thì cổ hơn. Nhưng cũng không loại trừ trường hợp người Việt kiến tạo nên truyền thuyết của mình sau đó người Mường tiếp thu, từ đó sửa đổi cho phù hợp với không gian văn hoá. Nếu căn cứ vào chi tiết dòng vua áo vàng (người Việt) và dòng vua áo đen (người Mường) để nhận định truyền thuyết của người Mường phải ra đời sau khi 2 tộc người này phân tách thì cũng không chắc chắn vì truyền thuyết luôn bị biến đổi cho phù hợp với thực tế đương thời.

Kết luận: Như chúng ta đã thấy, các manh mối mà chúng ta lần theo để có thông tin ghi chép gần nhất với thủa Hồng Bàng đã không thể tiếp tục. Thứ duy nhất còn lại truyền thuyết dân gian, tuy nhiên nếu như truyền thuyết này có từ trước khi 2 tộc Việt – Mường phân tách thì nó đúng là sợi dây duy nhất để kết nối chúng ta với thời đại Hùng vương. Nhưng nếu nó chẳng qua chỉ là sự kiến tạo ở thời điểm kết thúc thời bắc thuộc thì chúng ta không còn có yếu tố nào có thể kết nối với thủa Hồng Bàng nghĩa là có sự đứt quãng thông tin tới cả 1000 năm, nếu như vậy thì chúng ta không có cơ sở để khẳng định thủa Hồng Bàng tồn tại. Một điểm khá thú vị ở đây là: ngay cả khi truyền thuyết có trước khi 2 tộc Việt – Mường chia tách thì truyền thuyết của người Việt không thể nào là truyền thuyết nguyên bản chung của 2 tộc người trước khi phân tách. Nghĩa là trước khi chia tách, 2 tộc người này có chung một truyền thuyết nhưng truyền thuyết ấy không giống với truyền thuyết của người Việt! Nó có thể giống với truyền thuyết của người Mường hơn. Việc truyền thuyết của người Việt (được ghi nhận trong các văn bản và trong dân gian chịu sự ảnh hưởng của các văn bản) có những tương thích với các yếu tố văn hoá phương bắc thời Đường cho thấy sự Hán hoá mạnh mẽ văn hoá Việt, cũng xác nhận những truyền thuyết của người Việt xuất hiện (có hình hài như đã thấy trong các văn bản) khoảng cuối thời Đường (thế kỷ thứ 9, thế kỷ thứ 10) hoặc có thể muộn hơn dưới sự ảnh hưởng của văn hoá phương bắc. Hay trước đó người Việt – Mường có chung truyền thuyết, người Mường đã hình thành theo văn hoá riêng có, còn người Việt mang những yếu tố Hán vào truyền thuyết hình thành nên một hướng khác. Do những thông tin về kỷ Hồng Bàng là những yếu tố vay mượn từ văn hoá phương bắc nên không có cơ sở để khẳng định thủa Hồng Bàng là khởi nguyên của tộc Việt [Một ghi chú nhỏ nữa là: theo các nhà ngôn ngữ người Việt và người Mường có nguồn gốc chung, thế nhưng trong văn hoá của người Mường lại không có dấu vết của thủa Hồng Bàng, trong khi đó người Mường lại giữ được yếu tố văn hoá gốc hơn người Việt. Một thông tin nữa không thể không nhắc đến đó là đoạn văn trong Nam Việt chí được cho là của Thân Hoài Viễn thế kỷ thứ 5 được dẫn lại trong Thái Bình Quảng ký soạn khoảng năm 977 – 978 có chép: “Đất Giao Chỉ khá là phì nhiêu. Cư dân sống ở đó, và cho đến khi [những cư dân gốc] học cách trồng trọt bằng cách gieo hạt. Đất trồng ở đó đen và màu mỡ và khí rất mạnh [hùng]. Vì vậy, ruộng đất ở đó nay được gọi là ruộng Hùng và người dân, được gọi là dân Hùng. Có những người cầm đầu được gọi là Hùng vương. Có những người hầu cận được gọi là Hùng hầu, và đất đai được chia cho các Hùng tướng”. Đoạn văn này có nhắc tới Hùng Vương, tuy nhiên có rất nhiều ý kiến tranh luận về chữ Hùng này, nhưng dù nó có nghĩa là gì thì cũng không ảnh hưởng nhiều tới kết luận của chúng ta (tôi sẽ đề cập ở phần sau)].

Kế đến chúng ta tìm hiểu thêm về nhân vật Thục Phán An Dương Vương. Khác với Kinh Dương Vương, Lạc Long Quân, Hùng Vương, đối với Thục Phán An Dương Vương chúng ta có thông tin có thể tiến gần hơn với thời đại của nhân vật này.

Khâm định Việt sử thông giám cương mục chép: “Theo sách Thái bình hoàn vũ ký, phần Nam Việt chí, của Nhạc Sử nhà Tống, An Dương Vương cai trị Giao Châu, Úy Đà đem quân sang đánh. An Dương Vương có thần nhân là Cao Thông giúp đỡ, chế ra cái nỏ, bắn một phát giết chết quân Việt hàng vạn người, bắn ba phát giết đến ba vạn. Triệu Đà biết rõ duyên cớ, liền lui về đóng ở Vũ Ninh, rồi cho con là Trọng Thủy sang làm tin, xin hòa hảo với nhau. Về sau, An Dương đối xử với Cao Thông không được hậu, Cao Thông bỏ đi. An Dương Vương có người con gái là Mị Châu, thấy Trọng Thủy đẹp trai, liền phải lòng. Về sau, Trọng Thủy dụ dỗ Mị Châu đòi xem nỏ thần, Mị Châu đem cho xem. Trọng Thủy nhân đấy bẻ hỏng cái lẫy nỏ, rồi lập tức sai người ruổi về báo tin cho Triệu Đà. Triệu Đà lại đem quân sang đánh úp. Khi quân Triệu kéo đến, An Dương Vương đem nỏ ra bắn như trước, nhưng nỏ hỏng rồi! Quân Thục chạy tan tác. Triệu Đà phá được Thục”.

An Nam chí lược chép: “Giao-Châu Ngoại-Vực-Ký chép: hồi xưa, chưa có quận huyện, thì Lạc-điền tuỳ theo thuỷ-triều lên xuống mà cày cấy. Người cày ruộng ấy gọi là Lạc-Dân, người cai-quản dân gọi là Lạc-Vương, người phó là Lạc-Tướng, đều có ấn bằng đồng và dải sắc xanh làm huy hiệu. Vua nước Thục, thường sai con đem ba vạn binh, đi chinh phục các Lạc-Tướng, nhân đó cử giữ đất Lạc mà tự xưng là An-Dương-Vương. Triệu-Đà cử binh sang đánh. Lúc ấy có một vị thần tên là Cao Thông xuống giúp An-Dương-Vương, làm ra cái nỏ thần, bắn một phát giết được muôn người. Triệu Đà biết địch không lại với An-Dương-Vương, nhân đó trú lại huyện Võ-Ninh, khiến Thái-Tử Thuỷ làm chước tá hàng để tính kế về sau. Lúc Cảo-Thông đi, nói với vua An-Dương-Vương rằng: “Hễ giữ được cái nỏ của ta, thì còn nước, không giữ được thì mất nước”. An-Dương-Vương có con gái tên là Mỵ-Châu, thấy Thái-Tử Thuỷ lấy làm đẹp lòng, rồi hai người lấy nhau. Mỵ-Châu lấy cái nỏ thần cho Thái-Tử Thuỷ xem, Thuỷ xem rồi lấy trộm cái lẩy nỏ mà đổi đi. Về sau Triệu-Đà kéo quân tới đánh thì An-Dương-Vương bại trận, cầm cái sừng tê vẹt được nước vào biển đi trốn, nên Triệu-Đà chiếm cả đất của An-Dương-Vương. Nay ở huyện Bình-Địa, dấu tích cung điện và thành trì của An-Dương-Vương hãy còn”.

Trong sách Thuỷ Kính chú của Lịch Đạo Nguyên soạn thế kỷ thứ 6 có đoạn: “Giao Châu ngoại vực kí viết: Giao Chỉ xưa khi chưa có quận huyện, đất đai có ruộng gọi là Lạc điền. Ruộng đó theo nước triều lên xuống. Dân khai khẩn trên ruộng đó lấy lương thực, do đó mà gọi là Lạc dân. Đặt ra Lạc vương, Lạc hầu, làm chủ các quận huyện. Huyện phần nhiều là các Lạc tướng. Lạc tướng mang ấn đồng đai xanh. Sau đó con Thục Vương đem 3 vạn quân đánh Lạc vương, Lạc hầu, thu phục Lạc tướng. Con Thục vương nhân đó mới xưng là An Dương Vương. Sau Nam Việt vương Úy Đà đem quân đánh An Dương Vương. An Dương Vương có thần nhân, tên là Cao Thông là thủ hạ phụ tá, làm cho An Dương Vương một cái nỏ thần, bắn một phát giết 300 người. Nam Việt vương biết không thể đánh thắng. Mới cho quân đóng ở huyện Vũ Ninh. [Theo Tấn Thái Khang kí huyện thuộc Giao Chỉ]. Việt (vương) sai Thái tử tên là Thủy hàng phục An Dương Vương, xưng bề tôi mà thờ. An Dương Vương không biết (Cao) Thông là thần nhân, đối đãi không có đạo lí, (Cao) Thông mới bỏ đi, mà nói với vua rằng: “có thể giữ đuợc nỏ đó thì làm vua thiên hạ, nếu không giữ được nỏ thì mất thiên hạ”. Thông đi, An Dương vương có con gái tên là Mỵ Châu, thấy Thủy là người đoan chính, Châu với Thủy thông giao. Thủy mới hỏi Châu muốn xem nỏ của cha. Thủy thấy nỏ, trộm lấy mà cưa nỏ, rồi trốn về báo với Việt vương. Nam Việt tiến binh đánh, An Dương vương đem nỏ bắn, nỏ gãy, bị thua trận. An Dương Vương xuống thuyền, chạy trốn ra biển. Nay ở hậu vương cung thành huyện Bình Đạo còn thấy nền cũ”.

Như vậy từ những ghi chép của sử Tàu chúng ta có thể tiến đến gần nhất với thời đại của An Dương Vương thông qua Giao Châu ngoại vực ký (hiện đã mất) nhưng cũng vẫn còn khoảng cách 400 năm.

Nguồn tài liệu nữa cũng có ghi chép về Thục Phán An Dương Vương là: Truyền thuyết Thần Cung Bảo Kiếm của người Choang và Truyền thuyết Chín Chúa Tranh Vua của người Tày – Nùng.

Nội dung của truyền thuyết Thần cung bảo kiếm

Thời xưa, vua Nam Việt Triệu Đà được Hoàng đế Trung Hoa gởi tặng cho một thanh bảo kiếm, bèn dùng châu báu ngọc ngà chạm lên trên và còn khắc bốn chữ “Hoà Tập Bách Việt”, đêm đến thanh kiếm phát quang chói loà, đúng là một bảo vật. Nhà vua lại mang thanh bảo kiếm nầy gởi tặng lại nước Tây Ấu, vua nước Tây Ấu lại sai hoàng tử mang đến tặng cho nước Lạc Việt. Mục đích của họ là mong muốn có sự giao hảo thân thiện với nhau để giữ vững dâu lài nền hoà bình đang có.

Hoàng tử nước Tây Ấu mang thanh bảo kiếm đến nước Lạc Việt. Tới ngày khi chàng đã đến bên bờ tường kinh thành nước Lạc Việt thì chàng nghe thấy tiếng cuời nói huyên náo vọng ra từ nội thành. Vị hoàng tử bèn leo ngồi lên trên bờ tường quan sát thì thấy vị công chúa của vua Lạc Việt đang luyện bắn cung, bắn đâu trúng đó nên đã gây nên tiếng reo hò vang dậy.

Trong những năm gần đây nước Lạc Việt gặp nạn bị một thuỷ quái quấy phá, làm nước biển nhiều khi vô cớ tràn dâng ngập lụt, cuốn trôi vô số nhà cửa hoa màu và gia súc, dân chúng  mất cửa mất nhà, ly tán khổ sở. Vua Lạc Việt chẳng biết làm sao nên mời thầy pháp lại làm bùa làm phép. Con thuỷ quái bỗng từ dưới nước phóng lên nói rằng trừ phi vua Lạc Việt gã công chúa cho nó nếu không thì nó sẽ dấy binh tiêu diệt nước Lạc Việt. Vua Lạc Việt không biết phải làm cáchnào đành phải hứa gã công chúa cho nó, nhưng ngài lại yêu cầu con thuỷ quái phải đích thân đến cung đình cầuhôn. Nhưng đến ngày con thuỷ quái tới cung đình cầu hôn mọi người ai nấy đều thấy con yêu tinh hiện nguyên hình: đầu rắn, thấp lùn, lưng mang vỏ rùa. Nàng công chúa trông thấy, lòng ngập tràn oán hận, không một chút do dự rút kiếm ra chém “phựt” một cái bay đứt cổ con yêu tinh và nó ngã lăn ra chết.

Người ta đồn đại là con yêu quái nầy có nanh vuốt rất linh, nếu nanh vuốt nầy vẫn còn, chẳng bao lâu thì con yêu quái nầy sẽ hồi sinh trở lại nguyên hình. Dođó, công chúa bèn chặt đứt bốn chân con yêu ra, thẻo nanh vuốt nầy ra, dùng làm bán súng cho cái nỏ. Từ đó về sau, tài nghệ thiện xạ của nàng công chúa ngày càng khởi sắc, bắn đâu trúng đấy. Nhờ thế tiếng vang lan khắp mọi nơi, ai ai cũng đều biết nàng công chúa có một cây nỏ thần, và rất nhiều bộ lạc lớn nhỏ khắp nơi về quy phục nước Lạc Việt. Chính cũng vì thế, công chúa lạ càng trở nên kiêu hãnh, mỗi lần nàng tập luyện bắn cung, chỉ cho người xem hoan hô khen chứ không cho phê phán ồn ào.

Hôm đó, khi nàng đang luyện bắn cung tên trong vườn thành nội, cái đích một cành liễu cột lũng lẵng một xâu lá trầu, và nàng nhất quyết sẽ bắn trúng cành liễu và sẽ làm cái xâu lá trầu rơi xuống đất.

Hoàng tử nước Tây Ấu đang ngồi trên bờ tường đang ngắm nhìn nàng công chúa bắn nỏ. Chàng chỉ thoáng thấy nàng công chúa giơ cây nỏ lên, kéo dây cung rồi bung ra, mũi tên phóng vụt đến cành liễu, đường tên bay không hề bị xê dịch đâm phụp đúng vào cành liễu có treo xâu lá trầu. Hoàng tử bất giác vỗ tay hoan hô ầm ĩ.

Chính vì thế làm nàng công chúa nổi giận lên tự hỏi không biết ai cho phép người nầy nhìn trộm nàng bắn nỏ? To gan thật! Nàng một tay vừa cài tên giương nỏ, mắt vừa quay qua liếc nhìn về phía bờ tường thì trông thấy một chàng trai ngồi đó đang giương đôi mắt nhìn ngắm nàng. Công chúa giận quá, nàng buông dây cung, mũi tên liền bật ra hướngvề tầm ngực của chàng trai phóng vụt đến. Chỉ trong chớp nhoáng, chỉ thấy chàng trai ung dung rút thanh kiếm ra chờ mũi tên bay tới rồi gạt ngang một cái, mũi tên chợt trông giống như một chú chim xìu cánh rơi rụng ngay xuống đất.

Nàng công chúa liền giương nỏ bắn liền ba phát, chàng hoàng tử đều vung kiếm gạt phắt hết ba mũi tên. Nàng công chúa cảm thấy kỳ lạ, nhận ra thanh kiếm của hoàng tử có thần lực, bèn kêu chàng trai mang đến nàng xem nhưng chàng trù trừ không lại. Côngchúa hỏi chàng trai từ đâu đến? Tới kinh thành để làm gì? Chàng trai trả lời cho biết mình là hoàng tử nước Tây Ấu, đến kinh đô nước Lạc Việt là để giao hảo đôi bên. Chàng yêu cầu công chúa dẫn chàng đi gặp vua Lạc Việt.

Công chúa nghĩ thầm nếu để hoàng tử mang bảo kiếm vào gặp phụ vương rũi chàng ta rút kiếm ra chém vua cha thì chắc nước chết, nàng liền đưa ra hai điều kiện: một là chàng hoàng tử không được mang thanh kiếm trên người đến diện kiến nhà vua, chàng phải trao thanh kiếm cho nàng giữ; hai là nếu chàng nhất định phải đeo kiếm thì chàng phải chịu bị trói cột lại mới được gặp vua cha. Chàng Hoàng tử đồng ý chịu để cho nàng trói lại, không chịu để kiếm rời thân.

Thế là hoàng tử chịu trói lại để đi đến gặp Vua Lạc Việt. Khi gặp nhàvua, hoàng tử bèn dâng tặng vị vua nầy thanh kiếm có khắc bốn chữ “Hoà Tập Bách Việt”, nói là chàng thay mặt cho phụ vương đến giao hảo hoà bình với Vua Lạc Việt.

Vua Lạc Việt thấy hoàng tử khôi ngô tuấn tú, phẩm đức đều tốt, có ý muốn nhận chàng làm phò mã, nhưng lại e ngại công chúa lại không chịu nên nhà vua bèn hỏi ý kiến cô công chúa. Thực ra trong thâm tâm nàng công chúa đã sinh ra lòng ái mộ, nhận thấy việc hoàng tử chịu trói để được diện kiến vua cha chứ không chịu trao gửi thanh kiếm cho nàng giữ là hànhvi bất khuất anh hào. Nghe thấy vua cha hỏi ý kiến mình, nàng bất chợt không khỏi thẹn ửng má đào, nàng nói:

— Tuỳ ý phụ vương định đoạt!

Sau khi hoàng tử cùng công chúa kết hôn, hai người thương yêu nhau thắm thiết, như trầu với cau.

Chẳng bao lâu sau, hoàng tử nhận được tin Vua Tây Ấu lâm trọng bịnh, chàng bèn từ biệt Vua Lạc Việt và công chúa để về nước thăm vua cha. Nàng công chúa sợ đường xá xa xôi trắc trở, nàng bèn lấy thanh kiếm “Bảo Tập Bách Việt” trao cho hoàng tử đeo vào người. Hai người quyến luyến không nở rời nhau. Sau khi hoàng tử về nước rồi, công chúa cảm thấy cung thất lạnh lẽo làm sao, trong lòng trở nên sầu muộn, nàng đâm ra biếng lười luyện võ, cung nỏ cũng không buồn rớ tới. Có lúc nàng chợt tưởng có bóng dáng hoàng tử thấp thoáng ngoài sân, nhưng sao nàng đợi mãi mà chẳng thấy chàng đẩy cửa bước vào. Nàng ra mở tung song cửa sổ, nhưng nàng chỉ thấy một chú quạ kêu “yaya” rồi bay mất.

Vào một buổi sáng nọ, khi công chúa mớivừa mở cửa phòng đột nhiên trông thấy một người xông vào phòng. Nhìn kỷ lại thì ra là hoàng tử. Công chúa rất là vui mừng, chẳng kịp hỏi chàng từ đâu về là đã đưa chàng vào phòng. Cái anh chàng hoàng tử nầy mới bước vào phòng là lập tức đưa mắt ngó ngay về hướng nơi có treo chiếc nỏ thần, mắt ngó láo liên. Công chúa cảm thấy kỳ quặc liền nói:

— Mới có đi xa mấy ngày, bộ chàng không nhận ra chỗ ở nữa à?

Chàng hoàng tử nói:

— Sao trên kia lắm bụi bặm vậy?

Công chúa nói:

— Từ ngày chàng về nước đến giờ, thiếp cô đơn một mình, nào còn tâm trí gì đâu để tập luyện bắn cung?

Hoàng tử lấy ngay cung nỏ xuống. Công chúa nhận thấy cử chỉ này có điều dị thường liền chạy tới ngăn cản. Hoàng tử nói:

— Uy danh của công chúa dựa hết vào chiếc nỏ thần nầy. Giả như không có chiếc nỏ nầy, mình nghĩ là uy danh của nàng không lừng lẫy như bây giờ. Do đó mình yêu chiếc nỏ nầy chính là vì yêu công chúa đấy!

Vừa nói chàng vừa giương cung bắn tên ra ngoài khung cửa sổ, nhưng chỉ thấy khi mũi tên vừa lìa ra khỏi nỏ là bay trệch hướng đi, bay chẳng bao xa là rơi rớt ngay xuống đất.

Công chúa nói:

— Chiếc nỏ nầy nhờ có chiếc móng của con yêu quái dùng làm cò, không có nó là bắn không trúng đích đâu. Vợ chồng ăn ở với nhau bấy lâu nay, bộ chàng không còn nhớ việc nầy nữa chăng?

Hoàng tử nói:

— Đâu phải quên, tại công chúa quên đưa cho mình cái móng của yêutinh. Xin công chúa lấy ra cho mình xem nào, sẵn tiện luyện tập bắp tay một chút xem nào!

Công chúa tưởng thật bèn thò trong người lấy chiếc móng yêu tinh ra trao cho hoàng tử, cùng lúc nàng chợt nhận ra hoàng tử không đao thanh bảo kiểm trên người, nàng liền hỏi:

— Hoàng tử, sao chàng không mang thanh bảokiếm về lại?

Chàng hoàng tử nầy chợt nhiên cuống quýt lên, nói:

— Tại mình nhớ công chúa quá, một mình lén phụ vương trở về đây. Bây giờ để mình quay về lại lấy thanh kiếm.

Vừa nói xong, tay cầm chiếc nỏ thần và chiếc móng yêu tinh ngã nhào xuống đất, đột nhiên hoàng tử biến thành con quạ kêu “yaya” rồi bay mất.

Tin nầy truyền tới tai vua Lạc việt, ngài liền cho triệu tập quần thần lại thương nghị. Quần thần đều cho rằng đây là vận xấu của vua nước Tây âu, làm mất chiếc nỏ thần, chắc chắn thế nào cũng mang quân chinh phạt nước Lạc việt, thế thủ chi bằng thế công, hãy cho dấy binh tấn công nước Tây âu trước.

Lúc bấy giờ, vua Tây âu mới vừa mất, cả nước mới cử hành đám táng, hoàng tử nước nầy còn để tang, nghe  nói vua nước Lạc việt dấy quân sang đánh, cảm thấy mình khó lòng ứng chiến, bèn tính chuyện đơn thân độc mã đi hội kiến vua nước Lạc việt để hỏi ra cho rõ ngọn ngành. Do đó hoàng tử không thay áo giáp, đeo trên mình thanh bảo kiếm “Hoà Tập Bách Việt”, phóng mình lên ngựa phi mã chạy ra biên ải.

Khi hoàng tử đến nơi biên ải thì chao ơi! Binh mã của vua Lạc việt đã bố trí tràn đầy khắp nơi đen nghịt dày đặc. Mặt sông nước nơi binh lính họ lội qua, sủi bọt đen ngòm, tôm cá chết nổi lềnh bềnh khắp nơi. Binh lính tràn qua rừng núi đá là mọi thứ như đều đỗ ngã hết xuống, cỏ cây điêu tàn.

Một mình hoàng tử thì làm sao chống cự lại đước muôn vạn binh mã nước Lạc việt, đành phải nhắm ngay doanh trại vàng to lớn, chàng đoán đó là nơi vua Lạc việt hay là công chúa trú nghỉ.

Chàng hoàng tử nầy xem ra cũng rất lợi hại, thân một mình một ngựa, xông tới hàng rào doanh trại, làm đỗ gãy sụp nát hết dãy hàng rào. Vua Lạc việt đang ngồi trên mình ngựa trông thấy binh mã của mình hỗn loạn, bèn hạ lệnh cho hằng ngàn cung thủ giương cung tên nhắm về phía hoàng tử mà bắn. Hoàng tử mình đeo thanh bảo kiếm, chỉ thoáng thấy chàng rút ra hoa kiếm là hằng ngàn mũi tên rơi rụng như mưa, thân mình chàng thì chẳng chút hề hấn gì.

Vua Lạc việt trông thấy đâm ra hoảng kinh, mắng công chúa:

— Xem thằng chồng phụ bạc của mầy kia, nếu mầy không giết chết nó, đừng có về đây nữa gặp tao.

Nàng công chúa vừa xấu hổ vừa tức giận, vội vã cầm thương lên ngựa, nhắm ngực hoàng tử đâm tới. Hoàng tử vộivả né đông tránh tây, mấy lần lấy kiếm hất mũi giáo của công chúa ra, chàng nói:

— Công chúa sao lại phẩn nộ thế nầy? Bỗng nhiên mang quân xâm lấn bờ cõi, nay còn chính tay mình muốn giết chết chồng?

Công chúa nói:

— Nhà ngươi còn dám nói! Phụ vương có làm điều gì sai trái đối với ngươi? Ta đây có làm gì quấy đối với nhà ngươi đâu mà nhà ngươi đánh cắp chiếc nỏ thần quốc bảo, lại còn chuẩn bị dấy binh xâm lấn nước ta. Cái con người vô tâm bội bạc như nhà ngươi không giết chết cho rồi thì lấy gì để tạ lỗi nước nhà của ta đây, hả?

Hoàng tử nghe công chúa nói vậy bèn cảm thấy chưng hửng ra không biết biện bạch đối đáp thế nào. Nàng công chúa tưởng hoàng tử nhìn nhận chuyện nầy, liền thừa cơ phóng giáo đâm tới, ngờ đâu trên thân mình hoàng tử nhờ có đeo thanh bảo kiếm “Hoà Tập Bách Việt”, thanh kiếm nầy tự động hoá giải mọi thứ cứu hoàng tử khỏi trúng thương. Kẻn kẻn hai tiếng, ngọn giáo của công chúa bị cản lại và còn làm ngọn giáo gãy rụng đứt lìa.

Hoàng tử phóng người nhảy xuống ngựa, quỳ ngay trước mặt côngchúa, hai tay nâng thanh bảo kiếm “Hoà Tập Bách Việt”, khóc lóc mà nói:

— Nghĩ đến tình nghĩa phu thê bấy lâu nay, không làm điều gì sai trái cả. Chẳng qua thụ thân lâm trọng bịnh đành phải quay về nước, định thân phụ hết bệnh là trở về đoàn tụ với công chúa, nào ngờ đâu thân phụ băng hà. Giờ đây cả nước để tang, rôi lại thấy nước của nàng dấy binh sang đánh, mình đây vì sinh linh bá tánh, liều mình một thân một ngựa ra lâm trận. Nàng nếu quả muốn giết mình thì rất dễ thôi, chỉ tiếc là nàng bị trúng mưu kẻ gian. Làm gì có chuyện đánh cắp nỏ thần? Giờ đây để chứng tỏ tấm lòng của mình, xin dâng thanh bảo kiếm nầy, nàng muốn giết mình thì cứ xuống tay!”

Nói xong, hoàng tử hai tay nâng thanh kiếm lên.

Công chúa tiếp nhận thanh kiếm, nhớ lại cảnh tượng hoàng tử mưu mô đánh cắp chiếc nỏ thần, quả thục nàng cảm thấy cử chỉ của kẻ đó với vị hoàng tử nầy không giống nhau, nhưng công chúa lại e sợ để tình cảm lấn áp lại bị mắc mưu thêm lần nữa. Đang trong lúc công chúa còn trù trừ do dự bất quyết, vị vua Lạc việt đúng lúc ấy đang ở đằng sau nổi trận lôi đình, ngài ra lệnh:

— Tất cả nghe đây, ta hô lên đến tiếng thứ ba nếu mà công chúa vẫn chưa chịu xuống tay giết chết thằng chó chết đó, có nghĩa là công chúa vẫnc òn bị nó mê hoặc, quân bay cứ xả tên bắn chết cả hai đứa nó cho ta. Nếu mà ta hô đến tiếng thứ hai mà công chúa giết chết thằng giặc đó rồi thì chúng bay hãy thu hồi cung tên lại, quân bay có nghe chưa?

Lệnh vua đã ban xuống, quân sĩ cả đoàn bao vây vị hoàng tử và nàng công chúa lại, giương cung nhắm hai người, chuẩn bị buông cung.

Hoàng tử nói:

— Công chúa, xin hãy giết mình đi! Nàng khỏi bị vạ lây.

Công chúa suy ngẫm lại, chơt tỉnh ngộ biết rằng người đoạt chiếc nỏ thần trước đây là do yêu tinh giả dạng, nhưng khi phụ phân nàng không cho cơ hội giải thích tự sự, biết làm sao đây? Công chúa chẳng biết tính sao, nàng bật khóc tức tưởi.

Người ta chỉ nghe vua Lạc việt hô lên “một, hai”, khi chưa đếm đến ba thì vị hoàng tử lo ngại mình và nàng công chúa sẽ cùng chịu chung số phận bị nát thây dưới làn tên, bèn đua lưỡi liếm kề lên cổ cứa ngang, ngã lăn ra chết.

Công chúa trông thấy vội vả nhảy xuống ngựa, ôm lấy thi thể hoàng tử vào lòng, nằng phục trên người chàng khóc nức nở. Tướng sĩ nhìn thấy cảnh tượng, tay chân bủn rủn, buông rời cung tên, cho dù vua Lạc việt đã hô đến tiếng thứ ba

0