Trần Nhân Tông

07/02/1258-16/12/1308 Tiểu sử Trần Nhân Tông ( chữ Hán : 陳仁宗; 7 tháng 12 , 1258 – 16 tháng 12 , 1308 ), là vị hoàng đế thứ 3 của nhà Trần trong lịch sử Việt Nam . Ông trị vì 15 năm ( 1278 – 1293 ) và làm Thái thượng hoàng 15 năm. Ông được sử sách ca ngợi là một trong những vị hoàng đế nổi tiếng anh minh trong lịch sử Việt Nam , có vai trò lãnh đạo quan trọng trong Chiến tranh Nguyên Mông-Đại Việt lần 2 và lần 3 . Lúc này, quân đội Đại Việt dưới sự chỉ huy trực tiếp của Hưng Đạo đại vương Trần Quốc Tuấn đã đánh tan tác quân đội hùng mạnh của Nhà Nguyên , bảo vệ bờ cõi Đại Việt trước vó ngựa nổi tiếng vô địch của người Mông Cổ. Ngay sau khi dẹp yên quân giặc, ông cho giảm thuế , phát lương chẩn, tích cực khôi phục các công trình đã bị quân Nguyên hủy hoại, mau chóng sau đó quốc gia hồi phục, Đại Việt dần lấy lại sự hưng thịnh và phát triển cực thịnh thêm nữa. Năm 1293 , Nhân Tông thoái vị, nhường ngôi cho Thái tử Trần Thuyên (陳烇) kế vị, tức Anh Tông hoàng đế , ông lui về làm Thái thượng hoàng, chuyên tâm vào nghiên cứu Phật giáo . Ông là người đã thành lập Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử nổi tiếng. Sau khi nhường ngôi, ông thường hay lấy pháp hiệu là Đầu đà Giác Hoàng Điều ngự. Bên cạnh là một vị hoàng đế tài năng, Nhân Tông còn nổi tiếng là một nhà thơ xuất sắc của triều đại nhà Trần. Thơ ông có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa cảm quan triết học và cảm quan thế sự, có tinh thần lạc quan , yêu đời, tấm lòng vị tha của một nhân cách cỡ lớn và sự rung động tinh tế , lòng yêu tự do thích thảng của một nhà nghệ sĩ. Ở đấy cũng thể hiện sự hoà hợp khó chia tách giữa một ngòi bút vừa cung đình vừa giản dị, có cả những kiến thức sách vở uyên bác lẫn với sự từng trải lịch lãm. Trần Nhân Tông đã có các tác phẩm Trần Nhân Tông thi tập , Đại hương hải ấn thi tập , Tăng già toái sự , Thạch thất mỵ ngữ và bộ Trung hưng thực lục do ông sai văn thần biên soạn. Tuy nhiên, hiện chỉ còn tìm thấy 31 bài thơ, hai cặp câu thơ lẻ, một bài minh và một bài tán . Ngoài ra, trong sách Thiền tông bản hạnh còn có hai bài văn Nôm biền ngẫu ghi tên ông là tác giả. Ngay từ khi sinh ra, ông được tả là được tinh anh thánh nhân, thuần túy đạo mạo, sắc thái như vàng, thể chất hoàn hảo, thần khí tươi sáng , và cha mẹ ông gọi ông là Kim Tiên đồng tử (金仙童子).Ông tên thật là Trần Khâm (陳昑), là con trai trưởng của Thánh Tông Tuyên Hiếu hoàng đế, mẹ là Nguyên Thánh Thiên Cảm hoàng hậu Trần Thiều, sinh ngày 11 tháng 11 âm lịch năm Mậu Ngọ, niên hiệu Thiệu Long năm thứ 1 (tức 7 tháng 12 năm 1258). Cai trị Ngày 22 tháng 10 âm lịch, năm Mậu Dần (tức 8 tháng 11 năm 1278), ông được Thánh Tông hoàng đế nhường ngôi, tự xưng là Hiếu Hoàng. Ông ở ngôi 14 năm, nhường ngôi 5 năm, xuất gia 8 năm, thọ 51 tuổi, qua đời ở am Ngoạ Vân núi Yên Tử, đưa về táng ở Đức Lăng (nay thuộc tỉnh Thái Bình). Đức Lăng - Lăng mộ vua Trần Nhân Tông ở Thái Bình Chống quân nhà Nguyên Năm 1258, quân Mông Cổ từng thất bại ở Đại Việt trong việc tìm cách mở một hướng từ phía Nam để đánh vào lãnh thổ Nam Tống. Năm 1279, Nam Tống hoàn toàn bị Đại Nguyên thôn tính. Tháng 8 năm này, hoàng đế nhà Nguyên là Hốt Tất Liệt ra lệnh đóng thuyền chiến chuẩn bị đánh Đại Việt và Nhật Bản. Bấy giờ nhà Nguyên sai sứ sang hạch điều này, trách điều nọ, triều đình cũng có nhiều việc bối rối. Nhưng nhờ có Thượng hoàng Thánh Tông còn coi mọi việc và các quan trong triều nhiều người có tài trí, Nhân Tông lại là một vị vua thông minh và quả quyết, mà trong nước từ vua quan đến dân chúng đều một lòng cả, nên từ năm 1285 đến 1287, Nguyên Mông hai lần sang đánh Đại Việt nhưng bị đập tan. Ngoài ra, quân Ai Lao thường hay quấy nhiễu biên giới, bởi vậy năm 1290 nhà vua phải thân chinh đi đánh dẹp. Năm 1293, ông nhường ngôi cho con trưởng là Trần Thuyên để làm Thái thượng hoàng, tôn hiệu là Hiến Nghiêu Quang Thánh Thái Thượng Hoàng Đế , lui về phủ Thiên Trường theo lệ truyền thống của các Thượng hoàng. Trần Thuyên lên ngôi tức Trần Anh Tông. Cứng rắn với con cái Bấy giờ Anh Tông còn mê rượu chè, một hôm vua uống rượu say khướt. Lúc đó Thượng hoàng từ phủ Thiên Trường trở về kinh sư, các quan trong triều không ai biết. Thượng hoàng không thấy Anh Tông, bèn hỏi. Cung nhân vào trong nội đánh thức, nhưng không tỉnh. Thượng hoàng giận lắm, lập tức trở về Thiên Trường, xuống chiếu cho các quan ngay ngày mai đều phải tới phủ Thiên Trường để điểm danh, ai trái lệnh sẽ bị xử tội. Anh Tông tỉnh rượu sợ hãi, may nhờ được học trò Đoàn Nhữ Hài soạn tờ biểu tạ tội, đi gấp tới phủ Thiên Trường, dâng biểu tạ tội. Sau một lúc lâu Nhân Tông nhận biểu để xem, thấy lời lẽ khẩn thiết cho gọi Anh Tông vào răn bảo và tha tội. Xuất gia Năm 1293, ngày 9 tháng 3, Nhân Tông hoàng đế nhường ngôi cho Hoàng thái tử Trần Thuyên, tức Trần Anh Tông. Hoàng đế đổi niên hiệu là Hưng Long, đại xá, tự xưng là Anh Hoàng, tôn Thượng hoàng làm Hiến Nghiêu Quang Thánh Thái Thượng hoàng đế. Sau khi nhượng vị, Thượng hoàng Trần Nhân Tông xuất gia tu hành tại hành cung Vũ Lâm, Ninh Bình. Đến năm 1299, Nhân Tông thượng hoàng rời đến Yên Tử (Quảng Ninh), ngự tại am Ngự Dực, tu hành khổ hạnh và thành lập Thiền phái Trúc Lâm, còn gọi là Trúc Lâm Yên Tử hay Trúc Lâm Tam tổ. Thượng hoàng lấy đạo hiệu là Trúc Lâm đại sĩ, là tổ thứ nhất của dòng Thiền Việt Nam này, đệ tử là Pháp Loa chính là vị Thiền sư kế vị dòng thiền. Về sau ông được gọi cung kính là Phật Hoàng nhờ những việc này. Năm Mậu Thân, Hưng Long năm thứ 16, ngày 3 tháng 11 âm lịch (tức 16 tháng 12 năm 1308), Nhân Tông thượng hoàng băng tại am Ngọa Vân núi Yên Tử, được an táng ở Quy Đức lăng, phủ Long Hưng, xá lỵ cất ở bảo tháp am Ngọa Vân. Ông được dâng miếu hiệu là Nhân Tông, tên thụy là Pháp Thiên Sùng Đạo Ứng Thế Hóa Dân Long Từ Hiển Hiệu Thánh Văn Thần Võ Nguyên Minh Duệ Hiếu Hoàng Đế. Tác phẩm Tác phẩm của Trần Nhân Tông có: - Thiền lâm thiết chủy ngữ lục (Ngữ lục về trùng độc thiết chủy trong rừng Thiền) - Tăng già toái sự (Chuyện vụn vặt của sư tăng) - Thạch thất mỵ ngữ (Lời nói mê trong nhà đá) - Đại hương hải ấn thi tập (Tập thơ ấn chứng của biển lớn nước thơm) - Trần Nhân Tông thi tập (Tập thơ Trần Nhân Tông) - Trung Hưng thực lục (2 quyển): chép việc bình quân Nguyên xâm lược. Các phẩm trên đều đã thất lạc, chỉ còn lại 25 bài thơ chép trong Việt âm thi tập và Toàn Việt thi lục . Giới thiệu thi phẩm Trần Nhân Tông còn là một nhà thơ Thiền xuất sắc trong dòng thơ thời Lý-Trần. Xuân hiểu Thụy khởi khải song phi Bất tri xuân dĩ quy Nhất song bạch hồ điệp Phách phách sấn hoa phi Buổi sớm mùa xuân - (Dịch thơ Ngô Tất Tố) Ngủ dậy ngỏ song mây Xuân về vẫn chửa hay , Song song đôi bướm trắng , Phất phới sấn hoa bay . Vũ Lâm thu vãn Hoạ kiều đảo ảnh trám khê hoành , Nhất mạt tà dương thuỷ ngoại minh . Tịch tịch thiên sơn hồng diệp lạc , Thấp vân hoà lộ tống chung thanh . Chiều thu ở Vũ Lâm - (Hạt Cát dịch thơ) Suối khe lồng bóng cầu treo , Long lanh ngấn nước nắng chiều nghiêng soi . Núi non quạnh quẽ lá rơi , Phôi pha sương khói mây trôi chuông rền . Hạnh Thiên Trường hành cung Cảnh thanh u vật diệc thanh u Thập nhất tiên châu thử nhất châu. Bách bộ sinh ca, cầm bách thiệt, Thiên hàng nô bộc, quất thiên đầu Nguyệt vô sự chiếu nhân vô sự Thủy hữu thu hàm thiên hữu thu. Tứ hải dĩ thanh, trần dĩ tĩnh Kim niên du thắng tích niên du. Dạo chơi hành cung Thiên Trường -(Bản dịch Khuyết danh) Cảnh thanh u vật cũng thanh u Mười mấy châu tiên ấy một châu. Trăm tiếng đàn chim, dàn nhạc hát Nghìn hàng đám quýt, đám quân hầu Trăng vô sự chiếu người vô sự Nước có thu lồng trời có thu. Vừa bốn bể trong, vừa bụi lặng Độ xưa so với độ nay thua. Cư trần lạc đạo phú Cư trần lạc đạo thả tùy duyên Cơ tắc xan hề khốn tắc miên Gia trung hữu bảo hưu tầm mịch Đối cảnh vô tâm mạc vấn thiền. [4] Dịch nghĩa: Sống giữa phàm trần, hãy tùy duyên mà vui với đạo Đói thì ăn, mệt thì ngủ Trong nhà sẵn của báu, đừng tìm đâu khác Đối diện với cảnh mà vô tâm, thì không cần hỏi thiền nữa. Cảnh thanh u vật cũng thanh u [5] Gia quyến - Cha: Thánh Tông Tuyên Hiếu hoàng đế Trần Hoảng. - Mẹ: Nguyên Thánh Thiên Cảm hoàng hậu Trần thị ? - 1287), húy là Thiều, con gái của Khâm Minh Đại vương - Trần Liễu. - Hậu phi: Khâm Từ hoàng hậu Trần thị (? - 1293), húy Trinh, con gái trưởng của Hưng Đạo đại vương Trần Quốc Tuấn. Tuyên Từ hoàng hậu Trần thị (? - 1318), em gái của Khâm Từ hoàng hậu, mẹ là thị thiếp của Hưng Đạo đại vương. - Hậu duệ: Trần Thuyên, Anh Tông Nhân Hiếu hoàng đế, con của Khâm Từ hoàng hậu. Huệ Vũ đại vương Trần Quốc Chẩn , có thể mẹ là Tuyên Từ hoàng hậu. Thượng Trân công chúa, lấy Văn Huệ công Trần Quang Triều, cháu nội Trần Hưng Đạo. Thiên Trân công chúa (? - 1309), lấy Uy Túc công Trần Văn Bích, con Văn Túc vương Trần Đạo Tái, cháu nội Trần Quang Khải. Huyền Trân công chúa, lấy Jaya Sinhavarman III của Chiêm Thành. Nguồn: http://vi.wikipedia.org Tác phẩm tiêu biểu Xem thêm

07/02/1258-16/12/1308

Tiểu sử

Trần Nhân Tông (chữ Hán: 陳仁宗; 7 tháng 121258 – 16 tháng 121308), là vị hoàng đế thứ 3 của nhà Trần trong lịch sử Việt Nam. Ông trị vì 15 năm (1278 – 1293) và làm Thái thượng hoàng 15 năm.

Ông được sử sách ca ngợi là một trong những vị hoàng đế nổi tiếng anh minh trong lịch sử Việt Nam, có vai trò lãnh đạo quan trọng trong Chiến tranh Nguyên Mông-Đại Việt lần 2 và lần 3. Lúc này, quân đội Đại Việt dưới sự chỉ huy trực tiếp của Hưng Đạo đại vương Trần Quốc Tuấn đã đánh tan tác quân đội hùng mạnh của Nhà Nguyên, bảo vệ bờ cõi Đại Việt trước vó ngựa nổi tiếng vô địch của người Mông Cổ. Ngay sau khi dẹp yên quân giặc, ông cho giảm thuế, phát lương chẩn, tích cực khôi phục các công trình đã bị quân Nguyên hủy hoại, mau chóng sau đó quốc gia hồi phục, Đại Việt dần lấy lại sự hưng thịnh và phát triển cực thịnh thêm nữa.

Năm 1293, Nhân Tông thoái vị, nhường ngôi cho Thái tử Trần Thuyên (陳烇) kế vị, tức Anh Tông hoàng đế, ông lui về làm Thái thượng hoàng, chuyên tâm vào nghiên cứu Phật giáo. Ông là người đã thành lập Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử nổi tiếng. Sau khi nhường ngôi, ông thường hay lấy pháp hiệu là Đầu đà Giác Hoàng Điều ngự.

Bên cạnh là một vị hoàng đế tài năng, Nhân Tông còn nổi tiếng là một nhà thơ xuất sắc của triều đại nhà Trần. Thơ ông có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa cảm quan triết học và cảm quan thế sự, có tinh thần lạc quan, yêu đời, tấm lòng vị tha của một nhân cách cỡ lớn và sự rung động tinh tế, lòng yêu tự do thích thảng của một nhà nghệ sĩ. Ở đấy cũng thể hiện sự hoà hợp khó chia tách giữa một ngòi bút vừa cung đình vừa giản dị, có cả những kiến thức sách vở uyên bác lẫn với sự từng trải lịch lãm.

Trần Nhân Tông đã có các tác phẩm Trần Nhân Tông thi tậpĐại hương hải ấn thi tậpTăng già toái sựThạch thất mỵ ngữ và bộTrung hưng thực lục do ông sai văn thần biên soạn. Tuy nhiên, hiện chỉ còn tìm thấy 31 bài thơ, hai cặp câu thơ lẻ, một bài minh và một bài tán. Ngoài ra, trong sách Thiền tông bản hạnh còn có hai bài văn Nôm biền ngẫu ghi tên ông là tác giả.

Ngay từ khi sinh ra, ông được tả là được tinh anh thánh nhân, thuần túy đạo mạo, sắc thái như vàng, thể chất hoàn hảo, thần khí tươi sáng, và cha mẹ ông gọi ông là Kim Tiên đồng tử (金仙童子).Ông tên thật là Trần Khâm (陳昑), là con trai trưởng của Thánh Tông Tuyên Hiếu hoàng đế, mẹ là Nguyên Thánh Thiên Cảm hoàng hậu Trần Thiều, sinh ngày 11 tháng 11 âm lịch năm Mậu Ngọ, niên hiệu Thiệu Long năm thứ 1 (tức 7 tháng 12 năm 1258).

Cai trị

Ngày 22 tháng 10 âm lịch, năm Mậu Dần (tức 8 tháng 11 năm 1278), ông được Thánh Tông hoàng đế nhường ngôi, tự xưng là Hiếu Hoàng. Ông ở ngôi 14 năm, nhường ngôi 5 năm, xuất gia 8 năm, thọ 51 tuổi, qua đời ở am Ngoạ Vân núi Yên Tử, đưa về táng ở Đức Lăng (nay thuộc tỉnh Thái Bình).

                               

Đức Lăng - Lăng mộ vua Trần Nhân Tông ở Thái Bình

Chống quân nhà Nguyên

Năm 1258, quân Mông Cổ từng thất bại ở Đại Việt trong việc tìm cách mở một hướng từ phía Nam để đánh vào lãnh thổ Nam Tống.

Năm 1279, Nam Tống hoàn toàn bị Đại Nguyên thôn tính. Tháng 8 năm này, hoàng đế nhà Nguyên là Hốt Tất Liệt ra lệnh đóng thuyền chiến chuẩn bị đánh Đại Việt và Nhật Bản.

Bấy giờ nhà Nguyên sai sứ sang hạch điều này, trách điều nọ, triều đình cũng có nhiều việc bối rối. Nhưng nhờ có Thượng hoàng Thánh Tông còn coi mọi việc và các quan trong triều nhiều người có tài trí, Nhân Tông lại là một vị vua thông minh và quả quyết, mà trong nước từ vua quan đến dân chúng đều một lòng cả, nên từ năm 1285 đến 1287, Nguyên Mông hai lần sang đánh Đại Việt nhưng bị đập tan.

Ngoài ra, quân Ai Lao thường hay quấy nhiễu biên giới, bởi vậy năm 1290 nhà vua phải thân chinh đi đánh dẹp.

Năm 1293, ông nhường ngôi cho con trưởng là Trần Thuyên để làm Thái thượng hoàng, tôn hiệu là Hiến Nghiêu Quang Thánh Thái Thượng Hoàng Đế, lui về phủ Thiên Trường theo lệ truyền thống của các Thượng hoàng. Trần Thuyên lên ngôi tức Trần Anh Tông.

Cứng rắn với con cái

Bấy giờ Anh Tông còn mê rượu chè, một hôm vua uống rượu say khướt. Lúc đó Thượng hoàng từ phủ Thiên Trường trở về kinh sư, các quan trong triều không ai biết.

Thượng hoàng không thấy Anh Tông, bèn hỏi. Cung nhân vào trong nội đánh thức, nhưng không tỉnh. Thượng hoàng giận lắm, lập tức trở về Thiên Trường, xuống chiếu cho các quan ngay ngày mai đều phải tới phủ Thiên Trường để điểm danh, ai trái lệnh sẽ bị xử tội.

Anh Tông tỉnh rượu sợ hãi, may nhờ được học trò Đoàn Nhữ Hài soạn tờ biểu tạ tội, đi gấp tới phủ Thiên Trường, dâng biểu tạ tội. Sau một lúc lâu Nhân Tông nhận biểu để xem, thấy lời lẽ khẩn thiết cho gọi Anh Tông vào răn bảo và tha tội.

Xuất gia

Năm 1293, ngày 9 tháng 3, Nhân Tông hoàng đế nhường ngôi cho Hoàng thái tử Trần Thuyên, tức Trần Anh Tông. Hoàng đế đổi niên hiệu là Hưng Long, đại xá, tự xưng là Anh Hoàng, tôn Thượng hoàng làm Hiến Nghiêu Quang Thánh Thái Thượng hoàng đế.

Sau khi nhượng vị, Thượng hoàng Trần Nhân Tông xuất gia tu hành tại hành cung Vũ Lâm, Ninh Bình. Đến năm 1299, Nhân Tông thượng hoàng rời đến Yên Tử (Quảng Ninh), ngự tại am Ngự Dực, tu hành khổ hạnh và thành lập Thiền phái Trúc Lâm, còn gọi là Trúc Lâm Yên Tử hay Trúc Lâm Tam tổ. Thượng hoàng lấy đạo hiệu là Trúc Lâm đại sĩ, là tổ thứ nhất của dòng Thiền Việt Nam này, đệ tử là Pháp Loa chính là vị Thiền sư kế vị dòng thiền. Về sau ông được gọi cung kính là Phật Hoàng nhờ những việc này.

Năm Mậu Thân, Hưng Long năm thứ 16, ngày 3 tháng 11 âm lịch (tức 16 tháng 12 năm 1308), Nhân Tông thượng hoàng băng tại am Ngọa Vân núi Yên Tử, được an táng ở Quy Đức lăng, phủ Long Hưng, xá lỵ cất ở bảo tháp am Ngọa Vân. Ông được dâng miếu hiệu là Nhân Tông, tên thụy là Pháp Thiên Sùng Đạo Ứng Thế Hóa Dân Long Từ Hiển Hiệu Thánh Văn Thần Võ Nguyên Minh Duệ Hiếu Hoàng Đế.

Tác phẩm

Tác phẩm của Trần Nhân Tông có:

         - Thiền lâm thiết chủy ngữ lục (Ngữ lục về trùng độc thiết chủy trong rừng Thiền)

         - Tăng già toái sự (Chuyện vụn vặt của sư tăng)

         - Thạch thất mỵ ngữ (Lời nói mê trong nhà đá)

         - Đại hương hải ấn thi tập (Tập thơ ấn chứng của biển lớn nước thơm)

         - Trần Nhân Tông thi tập (Tập thơ Trần Nhân Tông)

         - Trung Hưng thực lục (2 quyển): chép việc bình quân Nguyên xâm lược.

Các phẩm trên đều đã thất lạc, chỉ còn lại 25 bài thơ chép trong Việt âm thi tậpToàn Việt thi lục.

Giới thiệu thi phẩm

Trần Nhân Tông còn là một nhà thơ Thiền xuất sắc trong dòng thơ thời Lý-Trần.

Xuân hiểu

Thụy khởi khải song phi

Bất tri xuân dĩ quy

Nhất song bạch hồ điệp

Phách phách sấn hoa phi

                                       Buổi sớm mùa xuân - (Dịch thơ Ngô Tất Tố)

                                                Ngủ dậy ngỏ song mây

                                              Xuân về vẫn chửa hay,

                                              Song song đôi bướm trắng,

                                              Phất phới sấn hoa bay.

Vũ Lâm thu vãn

Hoạ kiều đảo ảnh trám khê hoành,

Nhất mạt tà dương thuỷ ngoại minh.

Tịch tịch thiên sơn hồng diệp lạc,

Thấp vân hoà lộ tống chung thanh.

                       Chiều thu ở Vũ Lâm - (Hạt Cát dịch thơ)

                            Suối khe lồng bóng cầu treo,

                            Long lanh ngấn nước nắng chiều nghiêng soi.

                            Núi non quạnh quẽ lá rơi,

                             Phôi pha sương khói mây trôi chuông rền.

Hạnh Thiên Trường hành cung

Cảnh thanh u vật diệc thanh u

Thập nhất tiên châu thử nhất châu.                               

Bách bộ sinh ca, cầm bách thiệt,

Thiên hàng nô bộc, quất thiên đầu

Nguyệt vô sự chiếu nhân vô sự

Thủy hữu thu hàm thiên hữu thu.

Tứ hải dĩ thanh, trần dĩ tĩnh

Kim niên du thắng tích niên du.

 Dạo chơi hành cung Thiên Trường -(Bản dịch Khuyết danh)

Cảnh thanh u vật cũng thanh u

Mười mấy châu tiên ấy một châu.

Trăm tiếng đàn chim, dàn nhạc hát

Nghìn hàng đám quýt, đám quân hầu

Trăng vô sự chiếu người vô sự

Nước có thu lồng trời có thu.

Vừa bốn bể trong, vừa bụi lặng

Độ xưa so với độ nay thua.

Cư trần lạc đạo phú                                

Cư trần lạc đạo thả tùy duyên

Cơ tắc xan hề khốn tắc miên

Gia trung hữu bảo hưu tầm mịch

Đối cảnh vô tâm mạc vấn thiền.[4]

Dịch nghĩa:

Sống giữa phàm trần, hãy tùy duyên mà vui với đạo

Đói thì ăn, mệt thì ngủ

Trong nhà sẵn của báu, đừng tìm đâu khác

Đối diện với cảnh mà vô tâm, thì không cần hỏi thiền nữa.

Cảnh thanh u vật cũng thanh u[5]

Gia quyến

- Cha: Thánh Tông Tuyên Hiếu hoàng đế Trần Hoảng.

- Mẹ: Nguyên Thánh Thiên Cảm hoàng hậu Trần thị ? - 1287), húy là Thiều, con gái của Khâm Minh Đại vương - Trần Liễu.

- Hậu phi:

  1. Khâm Từ hoàng hậu Trần thị (? - 1293), húy Trinh, con gái trưởng của Hưng Đạo đại vương Trần Quốc Tuấn.
  2. Tuyên Từ hoàng hậu Trần thị (? - 1318), em gái của Khâm Từ hoàng hậu, mẹ là thị thiếp của Hưng Đạo đại vương.

- Hậu duệ:

  1. Trần Thuyên, Anh Tông Nhân Hiếu hoàng đế, con của Khâm Từ hoàng hậu.
  2. Huệ Vũ đại vương Trần Quốc Chẩn , có thể mẹ là Tuyên Từ hoàng hậu.
  3. Thượng Trân công chúa, lấy Văn Huệ công Trần Quang Triều, cháu nội Trần Hưng Đạo.
  4. Thiên Trân công chúa (? - 1309), lấy Uy Túc công Trần Văn Bích, con Văn Túc vương Trần Đạo Tái, cháu nội Trần Quang Khải.
  5. Huyền Trân công chúa, lấy Jaya Sinhavarman III của Chiêm Thành.

Nguồn: http://vi.wikipedia.org

Tác phẩm tiêu biểu Xem thêm

Bài liên quan

C. S. Lewis

29/11/1898 - 22/11/1963 Tiểu sử Clive Stales Lewis was one of the most influential writers of the 20th century. Born on 29th November 1898, he was widely known for his fictional work especially books such as The Chronicles of Narnia, The Space Trilogy and many others. His friends and family called ...

Đỗ Phủ

712-770 Tiểu sử Đỗ Phủ (712-770) tự Tử Mĩ, hiệu Thảo Đường, người đời sau gọi là Đỗ Thiếu Lăng, Đỗ Lăng Tẩu, Đỗ Công Bộ hay còn gọi là Lão Đỗ để phân biệt với Tiểu Đỗ Đỗ Mục. Ông sinh ra và lớn lên trong một gia đình quan lại lâu đời ở huyện Củng, nay thuộc tỉnh Hà Nam. Ông nội là Đỗ Thẩm Ngôn, một ...

Astrid Lindgren

14/11/1907 - 28/01/2002 Tiểu sử Astrid Lindgren is a Swedish born author. She was born as Astrid Anna Emilia Ericsson on 1907 in Vimmerby in the province of Smaland, in Southern Sweden where she grew up on a farm. Her early childhood was spent with cows and discovering hidden forest paths. Astrid ...

Virginia Woolf

25/01/1882 - 28/03/1941 Tiểu sử Virginia Woolf (tên thời con gái Stephen ) (sinh 25 tháng 1 , 1882 - mất 28 tháng 3 , 1941 ) là một tiểu thuyết gia và là một nhà văn tiểu luận người Anh, bà được coi là một trong những nhân vật văn học hiện đại lừng danh nhất thế kỉ 20. Trong suốt thời gian giữa ...

Brian Jacques

15/06/1939 - 05/05/2011 Tiểu sử An English novelist, Brian Jacques is extremely renowned for his Castaways of the Flying Dutchman and Redwall series. He was born in Liverpool, England on 15 June, 1939, however his roots lie in a number of Irish countries. His father was of French descent. To avoid ...

Arthur Miller 1

17/10/1915 - 10/02/2005 Tiểu sử Arthur Miller was born on October 17, 1915, in New York City, the son of Isidore and Augusta Miller. His father lost his wealth during the Great Depression of the 1920s and the family, like many others, suffered economic hardship and could not afford to send him to ...

Mikhail Bulgakov

15/05/1891 - 10/03/1940 Tiểu sử Mikhail Afanasyevich Bulgakov sinh ngày 15 tháng 5 năm 1891 tại thành phố Kiev , nay là thủ đô của Ukraina . Mikhail là con cả trong một gia đình có bố là một giáo sư về thần học dạy học ở một trường dòng và biết nhiều thứ tiếng; mẹ cũng là người có học và là con gái ...

F. Scott Fitzgerald

24/09/1896 - 21/12/1940 Tiểu sử Francis Scott Key Fitzgerald là một nhà văn Mỹ, nổi tiếng với các tác phẩm về "thời đại nhạc Jazz". Sinh ra trong một gia đình theo đạo Cơ đốc Ireland . Năm 1913 Fitzgerald vào Đại học Princeton nhưng sắp tốt nghiệp thì bỏ học vào lính. Thời gian phục vụ trong quân ...

Anton Chekhov

29/01/1960 - 15/07/1904 Tiểu sử Anton Pavlovich Chekhov (tiếng Nga: Антон Павлович Чехов; 1860–1904) là nhà viết kịch người Nga nổi tiếng và có ảnh hưởng lớn trên thế giới với thể loại truyện ngắn. Tiểu sử và sự nghiệp Chekhov sinh ngày 29 tháng 1 năm 1860 (lịch Julian: 17 tháng 1 năm 1860) ở thị ...

Rudyard Kipling

30/12/ 1865-18/01/ 1936 Tiểu sử Rudyard Kipling is one of the most favorite English writers of all times, amongst the first masters of English short stories and also the first to use Cockney dialect in serious poetry. His early stories about life in colonial India were highly appreciated by readers. ...

Mới nhất

THPT Đinh Tiên Hoàng

THPT Đinh Tiên Hoàng đang không ngừng nỗ lực phát triển trở thành một ngôi trường với chất lượng giảng dạy tốt nhất, tạo ra những thế hệ học sinh chất lượng

THPT Thực nghiệm

Trường THPT Thực Nghiệm trực thuộc Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam. Trường là cơ sở giáo dục đào tạo công lập trong hệ thống giáo dục quốc dân và trong hệ thống các trường phổ thông của thành phố Hà Nội. Trường dạy học theo chương trình giáo dục Trung học phổ thông của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Tiếp ...

THPT Đông Kinh

Khẩu hiệu hành động: “ Hãy đặt mình vào vị trí cha mẹ học sinh để giảng giải giáo dục và xử lý công việc ” “ Tất cả vì học sinh thân yêu ”

THPT Hà Nội Academy

Những rào cản còn tồn tại kể trên sẽ được vượt qua bởi những công dân toàn cầu tích cực với nhiệm vụ chung tay xây dựng một thế giới tốt đẹp hơn thông qua việc nghiên cứu và tìm kiếm giải pháp cho những vấn đề toàn cầu bao gồm, nhưng không giới hạn ở nhân quyền, đói nghèo và công bằng xã hội. Nhận ...

http://thptkimlien-hanoi.edu.vn/

Qua 40 năm nỗ lực phấn đấu trong các hoạt động giáo dục, vượt khó khăn, thiếu thốn về cơ sở vật chất, trường THPT Kim Liên đã tạo dựn được uy tín vững chắc, là 1 trong 5 trường THPT hàng đầu của Thủ đô có chất lượng giáo dục toàn diện không ngừng nâng cao và trở thành địa chỉ tin cậy của các bậc ...

THPT Tô Hiến Thành

Trường THPT Tô Hiến Thành được thành lập từ năm học 1995-1996, theo quyết định của Ủy Ban nhân dân tỉnh Thanh Hóa. Đến tháng 6/2010, trường chuyển đổi loại hình sang công lập. Suốt 20 năm phát triển, thầy, cô giáo, thế hệ học sinh đã phấn đấu vượt qua mọi khó khăn, gian khổ, từng bước phát triển ...

THPT Mai Hắc Đế

Trường THPT Mai Hắc Đế được thành lập năm 2009, sau gần 10 năm xây dựng và phát triển, Trường đã trở thành một địa chỉ tin cậy trong đào tạo bậc THPT trên địa bàn Hà Nội.

Trường Trung học phổ thông Nguyễn Gia Thiều

Nhìn lại chặng đường gần 60 năm xây dựng và trưởng thành , các thế hệ giáo viên và học sinh trường Nguyễn Gia Thiều có thể tự hào về truyền thống vẻ vang của trường ; tự hào vì trường đã đóng góp cho đất nước những Anh hùng , liệt sĩ , những người chiến sĩ , nhà khoa học , trí thức , những cán bộ ...

Trường Trung học phổ thông MV.Lô-mô-nô-xốp

Sứ mệnh Xây dựng Hệ thống giáo dục Lômônôxốp có môi trường học tập nền nếp, kỉ cương, chất lượng giáo dục cao; học sinh được giáo dục toàn diện, có cơ hội, điều kiện phát triển phẩm chất, năng lực và tư duy sáng tạo, tự tin hội nhập.

Trường Trung học phổ thông Quốc tế Việt Úc Hà Nội

Trường thực hiện việc giảng dạy và học tập theo chương trình do Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành, thực hiện thời gian học tập theo biên chế năm học do Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định. Song song với chương trình này là chương trình học bằng tiếng Anh được giảng dạy bởi đội ngũ giáo viên bản ngữ giàu ...