18/06/2018, 16:11

Trần Hữu Trang: Cuộc đời và tác phẩm

Soạn giả Trần Hữu Trang Hoàng Như Mai Trần Hữu Trang sinh năm 1906 tại xã Phú Kiết, huyện Chợ Gạo, tỉnh Mỹ Tho (nay thuộc tỉnh Tiền Giang) trong một gia đình nông dân. Ngay từ nhỏ ông đã say mê đàn hát. Lúc đầu ông đi theo các gánh làm thư ký chép vở, sau đó được Mười Giảng (tức ...

Soạn giả Trần Hữu Trang

Soạn giả Trần Hữu Trang

Hoàng Như Mai

Trần Hữu Trang sinh năm 1906 tại xã Phú Kiết, huyện Chợ Gạo, tỉnh Mỹ Tho (nay thuộc tỉnh Tiền Giang) trong một gia đình nông dân. Ngay từ nhỏ ông đã say mê đàn hát. Lúc đầu ông đi theo các gánh làm thư ký chép vở, sau đó được Mười Giảng (tức Đặng Công Danh) hướng dẫn, dần dần ông trở thành soạn giả cải lương. Ông cho ra mắt kịch bản đầu tay Lửa đỏ lòng son vào năm 1928.

Những năm 1930, ông nổi tiếng với hàng loạt sáng tác như Tô Ánh Nguyệt(1934), Lan và Điệp (1936), nhất là Đời cô Lựu (1937). Ông cộng tác với các gánh hát Trần Đắc, Năm Phỉ, Phụng Hảo, Năm Châu. Những sáng tác sau đóTìm hạnh phúc, Mộng Hoa vương, Chị chồng tôi, Tình luỵ, Khi người điên biết yêu– cộng tác với Năm Châu, Lê Hoài Nở – tiếp tục gây tiếng vang lớn.

Ông từng tham gia phong trào đấu tranh đòi thả Phan Bội Châu. Thời kỳ 1930-1931, 1935-1936, ông liên lạc với các cơ sở cách mạng. Sau Cách mạng Tháng Tám, ông hăng hái tham gia kháng chiến. Năm 1947, ông được kết nạp vào Đảng Cộng sản thuộc Ban Cán sự Văn hoá. Năm 1948, ông trở lại hoạt động tại Sài Gòn, cùng Năm Châu và Ba Vân thành lập Ban phụ trách đoàn Việt kịch Năm Châu, cơ sở kháng chiến đầu tiên của cách mạng trong ngành sân khấu thành phố. Năm 1960, ông là Uỷ viên Đoàn Chủ tịch Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam và được bầu làm Chủ tịch Hội Văn nghệ Giải phóng.

Ông hy sinh ngày 1/10/1966, tại suối Cây vùng Xa Mát (Tây Ninh) trong một trận bom oanh tạc của Mỹ.

Trần Hữu Trang đã được Nhà nước truy tặng Huân chương Thành đồng và Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học – Nghệ thuật đợt 1 (1996).

Tên tuổi của ông gắn liền với nhiều địa danh, nhiều tổ chức như Nhà hát Trần Hữu Trang, Giải thưởng Trần Hữu Trang, đường Trần Hữu Trang, trường Trần Hữu Trang, chợ Trần Hữu Trang…

Soạn giả cải lương Trần Hữu Trang quê ở xã Phú Kiết, tỉnh Tiền Giang (trước đây là tỉnh Mỹ Tho, trước nữa là tỉnh Định Tường).

Soạn giả là con một gia đình trung nông, sau bị phá sản vì chính sách bóc lột của thực dân Pháp. Đời ông nội, gia đình còn có căn nhà vào hạng khá. Đến đời cha, có thời đã phải mướn ruộng đất điền chủ.

Sau này khi viết về những người tá điền, soạn giả Trần Hữu Trang đã thể hiện cảnh ngộ và tâm trạng của họ rất sâu sắc.

Là người có học – thuở nhỏ Trần Hữu Trang cũng chỉ học chữ Nho và tiểu học ở trường làng, nhưng ông đọc sách, tự học được nhiều – có lẽ soạn giả cải lương lừng lẫy tiếng tăm sau này thấy không thể ở thế kỷ XX mà phải cam chịu kiếp nông nô như vậy nên sau khi lập gia đình, ông ra Tân Hiệp làm thợ hớt tóc.

Nhưng rồi không thể kiếm sống được bằng nghề hớt tóc, ông phải đổi sang làm nghề đạp ghe thuyền chở khách từ chợ Hương Điền lên chợ Bến Tre. Đạp ghe thuyền trên mặt nước cũng tựa như đạp xích lô trên bộ, nhưng còn nặng nhọc hơn nhiều khi thuyền ngược nước. “Trong xã hội cũ chỉ có người nghèo mới hiểu người nghèo, mới thiết tha đến vận mạng của người nghèo, bởi vậy những tác phẩm nhuộm đầy màu sắc xã hội của anh… bao giờ cũng được quần chúng đông đảo hoan nghênh…

Nhớ những gánh hát nghèo hết tiền hết gạo, sắp tan rã được anh đùm bọc, viết vở cho không để diễn. Chiếc áo bà ba rách vá một miếng trên vai, che tạm tấm thân mảnh khảnh không làm anh bạn bận bịu nỗi mình, mà luôn sẵn lòng đi lo cho người khác”. Đó là lời nghệ sĩ Nguyễn Phương Danh (Tám Danh), – “Người bạn già từ thuở hàn vi lang thang trên khắp nẻo đường đời”, đã nói trong lễ truy điệu Trần Hữu Trang tại Hà Nội (20/11/1966). Cuộc sống đổi bát mồ hôi lấy bát cơm đã cung cấp cho soạn giả một vốn hiểu biết, hơn thế, một vốn tình cảm, để sáng tác sau này.

Mẹ Nguyễn Thành Châu (nghệ sĩ Năm Châu) với mẹ Trần Hữu Trang là hai chị em. Nguyễn Thành Châu sớm bước vào sân khấu cải lương từ nhiều năm trước khi phong trào cải lương còn phôi thai và đã trở thành một “thầy tuồng” và “kép hát” có tiếng tăm. Năm 1929, Trần Đắc Nghĩa lập gánh Trần Đắc, mời Năm Châu cộng tác. Năm Châu giới thiệu Trần Hữu Trang vào làm chân bán vé và chép vở. Bước đầu, Trần Hữu Trang đến với sân khấu cải lương khiêm nhường như vậy.

Nhưng không phải hoàn toàn ngẫu nhiên mà Trần Hữu Trang trở thành soạn giả Tư Trang nổi tiếng sau này.

Mỹ Tho vốn là quê hương của cải lương. Người có công gầy dựng nghề hát cải lương ban đầu và đưa cải lương lên thành một loại hình sân khấu là Châu Văn Tú, thường được gọi là thầy Năm Tú. Rạp hát cải lương đầu tiên là do thầy Năm Tú dựng lên ở gần chợ Mỹ Tho. Những bài hát cải lương, những tuồng cải lương được ghi âm vào đĩa nhựa cũng là do công của thầy Năm Tú. Những đĩa hát này mở đầu bằng câu “Đây là gánh hát thầy Năm Tú tại Mỹ Tho ca trên đĩa Pathé nghe chơi”.

Các gánh cải lương lớn đầu tiên Đồng bào Nam, Nam Đồng ban, Tái Đồng ban, Huỳnh Kỳ… đều do các chủ nhân người Mỹ Tho sáng lập.

Mỹ Tho cũng là quê hương của nhiều nghệ sĩ cải lương, có tên tuổi: Hai Giỏi, Năm Châu, Bảy Nhiêu, Tư Chơi, Năm Phỉ, Phùng Há, Bảy Nam, Từ Anh, Hai Thông, Tám Cang, Tám Mẹo…

Gần gũi hơn, ngay nơi sinh trưởng của Trần Hữu Trang, phong trào cải lương cũng tìm được miếng đất màu mỡ trong quần chúng.

“Tại Tân Hiệp (Mỹ Tho), cũng có một nhóm người như các anh Hai Ngọc, Bộ Vang họp với một số anh chị em tài tử khác thành lập gánh hát nhỏ như nhóm hát ở xã Phú Kiết (Mỹ Tho). Một số anh chị em lại tổ chức thành những đoàn, những nhóm hát nhỏ đi diễn các chợ như Tân Hiệp, Nhật Tân, Bến Tranh, Củ Chi, Phú Mỹ… Hoạt động của các nhóm đó có tính cách văn nghệ nhân dân, biểu diễn để phục vụ đồng bào chứ chưa có tính cách kinh doanh”.

Như vậy, Trần Hữu Trang sinh trưởng trên dải đất của đờn ca, của phong trào cải lương. Bản thân soạn giả cũng là một “tài tử” trước khi thành soạn giả. Ông sở trường cây đàn kìm và có một vốn hiểu biết chắc chắn về nhạc dân tộc, nhất là các bài ca cải lương.

Khi ông hớt tóc ở Tân Hiệp, nhà ông thường là chỗ lui tới của nhiều tài tử ca nhạc. Họ đến đây để biểu diễn, thưởng thức, bàn luận về đàn ca. Một trong những khách siêng năng của phòng “khách thính” ấy là Nguyễn Công Mạnh. Vốn là một nghệ sĩ hát bội, sau chuyển sang viết các bài ca cải lương, Nguyễn Công Mạnh là người đã khiêu gợi ở Trần Hữu Trang ý hướng viết cải lương.

Khi Trần Hữu Trang đến với phong trào cải lương, với tư cách chuyên nghiệp chứ không phải “tài tử” nữa, thì phong trào cải lương đã ở vào thời kỳ phồn vinh nhất của nó. Các gánh lớn Tân Thinh, Tập Ích ban, Văn Hý ban, Tái Đồng ban, Phước Cương, Huỳnh Kỳ, Trần Đắc… đã gây tiếng vang trên các sân khấu từ Nam ra Bắc, cả ở ngoài nước nữa. Năm 1931, khán giả ở Pa-ri đã có dịp nhiệt liệt hoan nghênh nữ nghệ sĩ Năm Phỉ trong vở Xử án Bàng Quý phi – Báo chí Pháp ca ngợi với những lời lẽ trân trọng. Báo Không khoan nhượng (Intransigeant) viết: “Tôi thấy ở trường đấu xảo thuộc địa có một nữ nghệ sĩ Việt Nam mà nghệ thuật không thua bất kỳ một nữ nghệ sĩ nào của ta”. Báo Cô-mê-đi-a nhận định: “Người nữ diễn viên tài ba muốn dẫn chúng ta đi đến đâu cũng được”.

Nhiều vở cải lương đặc sắc được trình diễn, do các soạn giả có tài năng sáng tác.

Soạn giả đầu tiên của sân khấu cải lương Mạnh Tự Trương Duy Toản là một chí sĩ, đã tham gia phong trào Đông Kinh nghĩa thục và là chủ bút các báo Sài Thành, Trung lập báo. Khi bị quản thúc ở Phong Điền (Cần Thơ) ông đã viết nhiều bài ca cho ban nhạc tài tử Ái Nghĩa ca chơi trong thôn xóm. Rồi anh sang Sa Đéc soạn bài ca cho nhóm Sa Đéc Amis. Từ những bài đơn ca cho một người ca, ông dần dần có sáng kiến viết những bài liên ca cho nhiều người ca đối đáp. Đó là hình thức phôi thai của cải lương. Các vở của soạn giả Trương Duy Toản như Lục Vân Tiên, Kim Vân Kiều, Nhị độ mai đều nhằm đề cao đạo lý dân tộc.

Đào Châu là bút danh của soạn giả Đào Trí Phú, một trí thức Tây học cũng giỏi cả Nho học, làm đốc học. Viết vở cho Văn ký ban, ông đã “tung” cao cô đào Chín Thêu với vở Kỳ duyên phổ. Vở diễn thành công lớn đến nỗi khán giả đều gọi cô Chín Thêu bằng cái tên Tô Ngọc Diêu – tên nhân vật – và sau đó cô cũng lấy tên đó luôn. Đào Châu cũng là soạn giả vở Xử án Bàng Quý phi nổi tiếng.

Trần Phong Sắc là soạn giả của gánh Đồng bào Nam. Lớp khán giả đầu tiên của sân khấu cải lương khó quên được hai vở Bội thê thiên xửTham phú phụ bần. Trong vở Tham phú phụ bần, kép Hai Giỏi thể hiện vai thây thông ngôn Trần Trọng Nghĩa thật sâu sắc. Có lần anh bị ốm không ra sân khấu được, khán giả nhất định không cho thay người, gánh hát đành phải khiêng anh ra sân khấu để khán giả thấy rõ tận mắt mới chịu.

Mộc Quán Nguyễn Trọng Quyền là soạn giả viết nhiều vở về nhiều đề tài, thuộc nhiều loại tuồng: Giọt máu chung tình, Trần Hưng Đạo Bình Nguyên (tuồng lịch sử), Phụng Nghi đình, Hoa Mộc Lan tòng chinh (tuồng Tàu), Mã Hoa Nhi (tức Matahari tuồng gián điệp), Thành sầu bể khổ, Màn chót Huỳnh Kỳ (tuồng xã hội)…

Nguyễn Thành Châu (Năm Châu) là một học sinh trung học vì say mê cải lương mà đi vào nghệ thuật. Nghệ sĩ Năm Châu vừa là diễn viên tài năng vừa là soạn giả giỏi. Ông là người có công lớn đối với nghệ thuật cải lương. Ông soạn nhiều vở dựa theo các tích cũ như Thôi Tử thí Tề quân, Mộc Quế Anh dâng cây. Nhưng người ta nhớ đến soạn giả Năm Châu nhiều vì các vở phóng tác theo các tác phẩm phương Tây và các vở sáng tác về đề tài xã hội. Chúng ta có thể kể Giá trị danh dự (phỏng theo kịch Le Cid của Corneille), Tuý hoa vương nữ (phỏng theo kịch Marie Tudor của Victor Hugo)… Đáng chú ý hơn là các vở về đề tài xã hội:Tội của ai? Tiếng nói trái tim, Giấc mộng cô đào, Tư sinh tử (Con không cha hay Sư cụ hàm oan), Phũ phàng (Men rượu hương tình), Đêm dài vô tận (Đêm không ngày)…

Huỳnh Thủ Trung (Tư Chơi) cũng như Năm Châu, vừa là diễn viên vừa là soạn giả. Tư Chơi nguyên là một nhạc sĩ đàn đoản (đàn tứ) từ thời vọng cổ ca nhịp tư ở Tái Đồng ban. Vì một câu chuyện riêng, ông phẫn chí đi tìm thầy học chữ Nho để viết vở. Các vở về tích cũ của ông được nhiều người hâm mộ là Chung Vô Diệm phó hội kỳ bàn, Sơn hà xã tắc, Châu Văn Lễ thọ tam ban, Châu Văn Ngỡi thọ diễn. Về đề tài xã hội, ông có: Lỡ tay trót đã nhúng chàm, Ai bạn chung tình, Khúc oan vô lượng, Đầu xanh có tội, Đời cô Lý…

Và còn nhiều soạn giả khác có vị trí vững vàng như Ngô Vĩnh Khang với vở Tơ vương đến thác, Đặng Công Danh (Mười Giảng) với vở Tứ đổ tường, Lê Hoài Nở với vở Vó ngựa truy phong…

Điểm qua phong trào cải lương như trên, ta thấy Trần Hữu trang bước vào sân khấu cải lương có thuận lợi, đồng thời cũng có khó khăn: sân khấu cải lương đã có bề thế, có quy mô lớn, có truyền thống và được đông đảo khán giả nhiệt liệt ủng hộ. Nhưng tìm được chỗ đứng, đem được cái gì mới đánh dấu sự góp phần của mình vào sân khấu cải lương?

Trần Hữu Trang đi theo con đường nào? Những yếu tố gì đã tạo ra phong cách riêng của soạn giả?

Định Tường là một trong ba tỉnh miền Đông bị quân Pháp chiếm đóng trước tiên.

Sau trận “Bảo định hà lưu huyết”, Mỹ Tho bị mất vào tay quân giặc, nhưng chúng chỉ đóng được ở ba nơi là Gia Thạnh, Gò Công, Chợ Gạo, còn ở các nơi khác nghĩa quân vẫn tiếp tục kháng cự.

Lịch sử kháng chiến chống Pháp còn ghi thành tích vị anh hùng không biết tên thật là gì vẫn thường được gọi là Phủ Cậu. Phủ Cậu bị bán thân bất toại, nhưng quân giặc khiếp sợ oai ông đã tặng cho cái danh hiệu “Hùm xám”.

Trận đánh đồn Thuộc Nhiêu cách Mỹ Tho 20 cây số của Trương Định là một chiến công oanh liệt. Khi nghĩa quân đã lâm vào tình thế thất bại, người của Trương Định vẫn ra vào Mỹ Tho, dán bố cáo đóng dấu Bình Tây đại nguyên soái đàng hoàng.

Vùng này cũng là địa bàn hoạt động của nhiều vị anh hùng kháng Pháp, như Phan Liêm, Phan Tôn, Thân Văn Nhiếp, Trương Huệ…

Bến Tranh, Phú Kiết chính là quê hương của Thủ khoa Huân, vị sĩ phu kháng Pháp nổi tiếng, và cũng là nơi tuyệt mệnh của người chiến sĩ cương trực ấy. Vùng này còn truyền tụng, coi như một danh dự tối cao của địa phương, những giai thoại về Thủ khoa Huân. Ông bị bắt, không chịu đầu hàng, thực dân đày ông đi Côn Đảo rồi đưa sang đảo Re-uy-ni-ông (Réunion) theo kiểu “bán mọi bòn bon”. Khi lìa Tổ quốc, Thủ khoa Huân làm một bài thơ, trong đó có những câu:

Mấy hồi tên đạn ra tay thử

Ngàn dặm non sông dạo gót chơi

Chén rượu Tần đình nào luận tiệc

Vần thơ Cố quốc chẳng ra lời!

Được trả lại tự do, ông lại kéo cờ kháng Pháp. Bắt được ông lần này, chúng đem hành hình giữa chợ Thân Trong ở Phú Kiết để răn đe những người yêu nước. Trước lúc chết, ông để vợ con tế sống và khẳng khái ngâm một bài thơ tuyệt mệnh:

Ruổi rong vó ngựa trả thù chung

Binh bại cho nên mạng phải cùng

Tiết nghĩa vẫn lưu cùng vũ trụ

Hơn thua sá kể với anh hùng.

Nổi sung mất vía quân Hồ Lỗ

Quyết thác không hàng rạng núi sông

Tho Thuỷ ngày rày pha máu đỏ

Đảo Rồng hiu hắt ngọn thu phong.

Những câu chuyện ấy, những lời thơ ấy mãi mãi âm vang trong lòng những người dân Định Tường.

Khi nổi lên phong trào Đông Du do nhà chí sĩ Phan Bội Châu đề xướng, các thân hào, nhân sĩ Tiền Giang hưởng ứng mạnh mẽ. Trần Chánh Chiếu (tức Gilbert Chiếu) là một trong những người có công lớn trong việc cổ động và tổ chức học sinh xuất dương. Cơ sở hoạt động của ông ở Mỹ Tho chính là nhà hàng Minh Tân. Ca ra bộ dạng sơ khởi của cải lương – ra mắt khán giả đầu tiên ở nhà hàng này.

Trong phong trào “Hội kín Nam kỳ”, Tiền Giang đóng một vai trò quan trọng: Ở Mỹ Lợi có phong trào Nghĩa Hoà hội, ở Thái Sơn có Duy Tân hội, ở Long Hưng có Phục Hưng hội, ở Mỹ Tho có Thi Bình hội. Các nhóm chính trị khoác áo tôn giáo cũng có những tổ chức tại Mỹ Tho: thí dụ nhóm Nguyễn Văn Tiên ở làng Hiếu Đạo.

Sống ở nơi diễn ra nhiều sự kiện yêu nước như vậy và là người ham đọc sách, ưa suy nghĩ, Trần Hữu Trang sớm có tinh thần dân tộc sâu đậm. Ông Nguyễn Văn Trí thuật lại một số chuyện: trong cao trào yêu nước 1926-1928, Trần Hữu Trang là một trong số người hăng hái đấu tranh đòi thả Phan Bội Châu, hưởng ứng những buổi diễn thuyết của Phan Chu Trinh và để tang nhà chí sĩ. Có lần, một đồng chí cách mạng bị mật thám theo riết phải chạy vào hiệu hớt tóc của Trần Hữu Trang.

Ông bình tĩnh che giấu đồng chí ấy và đánh lạc hướng bọn mật khám. Khi đồng chí ấy đi, ông mở tủ: cả nhà còn 20 đồng bạc ông đưa tất cả cho làm lộ phí. Một người bạn tham gia phong trào chính trị bị bắt đày ra Côn Đảo 15 năm, người vợ ở nhà đi lấy chồng khác, Trần Hữu Trang rất phiền lòng về việc này, nhiều lần đến khuyên can, sau tha thiết đề nghị cho đem con người bạn về nuôi dạy (Trong câu chuyện này có những chi tiết giống như Đời cô Lựu Chị chồng tôi). Trong thời kỳ Trần Hữu Trang làm cho gánh Phụng Hảo, chiến sĩ cộng sản Nguyễn Chí Diểu đã từng đến gặp soạn giả để trao đổi về khuynh hướng “tả thực xã hội”.

Trong cuộc sống thường này, Trần Hữu Trang ưa sự giản dị. Khác với nhiều văn nghệ sĩ khác, hễ “có tài là có tật”, Trần Hữu Trang không mắc một thứ nghiện nào, ngay khi ông đã lừng lẫy tiếng tăm cũng vậy. Thực ra, soạn giả Tư Trang chưa bao giờ giàu, mặc dù vở của ông được các đoàn tranh nhau diễn. Hai hãng dĩa nhựa đã kiện nhau trước toà án Sài Gòn về việc thu thanh vở Tô Ánh Nguyệt.  Trên tờ báo Dân Nguyện (30 tháng 7 năm 1954), một ký giả đã tỏ ý bất bình khi thấy các gánh hát lợi dụng các vở diễn của Trần Hữu Trang để thu những món lợi nhuận lớn, trong khi ấy soạn giả sống túng thiếu giữa thành phố “Sài Gòn hoa lệ”: “Anh Trần Hữu Trang vốn ít nói, không bao giờ anh chịu nói cả. Nhưng tôi thấy phải nói. Tôi thấy phải nói vì tôi thấy anh Tư Trang mặc chiếc áo “chemise” màu trắng hoá ra màu ngà, cổ áo rách bươm, vai mạng vài chỗ. Tôi thấy tôi phải nói vì tôi hiểu rõ cách sống đạm bạc thanh bần của anh Tư Trang”.

Các gánh ít vốn đến nhờ giúp vở, soạn giả thường cho không lấy tiền.

Thường thường soạn giả ăn lót dạ buổi sáng mấy củ khoai, một trái bắp, hoặc một chút xôi, bữa cơm có món mặn thường là cá kho và rau. (Ông ưa rau lang vì có bệnh đau ruột già). Soạn giả rất khi đi ăn tiệm. Vui anh em rủ hoặc vì công việc thì đi, nhưng không bao giờ nhậu nhẹt đến mức say sưa cả. Quần áo thường dùng là một bộ bà ba trắng. Mặc âu phục thì áo sơ mi luôn giắt trong quần, đội mũ cối trắng, đi dép (xăng-đan) chỉ khi nào cần lịch sự thì mới  mặc vét-tông, thắt cà-vạt.

Soạn giả Trần Hữu Trang thích ngăn nắp, trật tự trong khi làm việc. Ông thường viết vở trong nhà hát. Nhiều soạn giả với tác phong gọi là “nghệ sĩ bạ đâu cũng đặt giấy viết: trên mặt một chiếc hòm hoặc một chiếc bàn để ngồi viết”. Ông viết chữ nghiêng rất cẩn thận, chú ý từng dấu chấm, phẩy, nét chữ rõ ràng, không viết tháu. Khi đã là soạn giả nổi tiếng, ông vẫn viết lại bản thảo chu đáo như khi còn là người thư ký chép vở bình thường. Ông viết chữ bằng bút chấm mực, ít dùng bút bi. Sau này có người cho một chiếc bút máy Parker thì ông giữ dùng mãi.

Ban ngày bận nhiều việc, ông viết vào buổi tối. Không khi nào thức quá 2 giờ sáng, ông giữ tác phong làm việc đều đặn, không tuỳ hứng.

Tính tình ông trầm tĩnh, chân chất, chan hoà với mọi người. Trong các đoàn, mọi người gọi ông bằng những cái tên thân mến: Anh Tư, thầy Tư. Người ta còn quen gọi ông là Tam Tạng vì tên Trần Hữu Trang và cũng vì tính nết ông rất hiền từ đôn hậu. Anh em có chuyện xích mích, luôn luôn ông là người hoà giải. Trong điếu văn đọc ở lễ truy điệu soạn giả, nghệ sĩ Tám Danh đã nói: “Tình đó, nghĩa đó, ai mà không phục. Bởi vậy khi có chuyện giận hờn xích mích nhau trong nội bộ mà vắng mặt anh, thì hai tiếng Tư Trang là khẩu hiệu tự nhiên nhắc nhở kép, đào, họa sĩ, nhạc công đoàn kết”.

Đối với bạn bè, soạn giả lấy sự trung tính làm gốc. Gặp ai có chút tương đắc, ông hỏi rõ địa chỉ, ghi lại cẩn thận để qua lại thăm viếng hoặc trao đổi thư tín. Vì thế, anh em còn thường gọi đùa ông là “Trần địa chỉ”. Đã là bạn thì dù thường ngày hay gặp nhau hoặc vì hoàn cảnh ít có dịp gần gũi, ông đều giữ mối giao tình đằm thắm… Trong cuốn sổ lưu niệm của nhà điêu khắc Diệp Minh Châu có những dòng viết của soạn giả Trần Hữu Trang:

Anh Châu

Một người bạn gặp anh rất nhiều, nói với anh rất ít và không khi nào anh nghe có tỏ ra nửa lời khen về anh. Nhưng, một tấm lòng vẫn quý trọng anh cũng như đã quý trọng bao nhiêu bậc có chân tài.

Ngoài ra, tôi lại còn ưa mến riêng anh về cái đức tính: vui vẻ, dễ dãi và hiền lành.

Năm năm trước, vào những đêm gió mưa rét mướt, chúng ta đã gặp nhau trong một gian nhà chật hẹp phố Mã Mây. Rồi khi đó, khi đây, thỉnh thoảng ta lại gặp nhau, bắt tay nhau cười mà không nói.

Sống và “sáng tạo”.

Chúng ta đã hiểu nhiều nhau bằng một tâm hồn.

Lòng thành gửi bạn Diệp Minh Châu, một họa sĩ có chân tài, biết yêu nghề, yêu đời và yêu người.

(Ký) Trang

Sài Gòn một ngày hạ tuần mùa đông Giáp Thân (9-2-1944)

Trần Hữu Trang – Phú Kiết – Mỹ Tho.

Trong cuốn sổ lưu niệm của Tiến sĩ Sử học Phan Lạc Tuyên cũng có một trang viết của Trần Hữu Trang:

Ghi lại mấy câu vọng cổ trong vở ca kịch Đời cô Lựu

Cảnh thứ ba

Lúc anh Hai Thành vượt Côn Đảo về gặp vợ chồng ông Hương lão, người cùng xóm với nhau, cùng nhau kể lại sự tình.

Tặng bạn Trường Giang để ghi nhớ một buổi sáng (5-1-64) giữa lúc Đại hội Mặt trận DTGPMNVN, nhân dịp chúng tôi ở cạnh nhà nhau, cùng nghe chuyện qua Đài Phát thanh Tiếng nói Việt Nam, thư của nhà soạn kịch Sĩ Tiến ở miền Bắc gởi thăm các bạn nghệ sĩ sân khấu miền Nam và tôi. Và anh Sĩ Tiến ngỏ ý muốn dựng lại vở Đời cô Lựu.

Ngày 8-2-64

(Ký tên) Trang

(Trần Hữu Trang)

Vài trang trong nhiều trang lưu niệm hoặc thư mà soạn giả Trần Hữu Trang gửi các bạn, đã nói lên khá đầy đủ cách đối xử chân tình của soạn giả với các bạn hữu. Ta đã hiểu vì sao trong nhiều vở của soạn giả có những mối tình bạn hết sức cao đẹp.

***

Con người bề ngoài điềm tĩnh ấy mang bên trong một bầu tình cảm sôi nổi đối với cuộc sống và nhất là đối với văn nghệ.

Ai mến phục soạn giả đưa vở hát hoặc thơ văn đến nhờ cho ý kiến phê bình giúp đỡ, soạn giả đều đáp ứng lại một cách nhiệt thành.

Trần Hữu Trang là một người đi vào văn nghệ có chủ đích rõ ràng. Bắt đầu viết vở cho gánh Trần Đắc rồi sang Đại Phước Cương qua Phụng Hảo rồi đi với gánh Con Tằm, sau đổi là gánh Năm Châu, rồi Việt kịch Năm Châu, soạn giả Trần Hữu Trang xây dựng cho mình một phong cách rõ rệt. Ông cũng viết chung với người khác một số vở. Dù viết chung, dấu ấn Tư Trang vẫn thấy rõ.

Tư Trang với Năm Châu vốn là anh em. Năm Châu là người dìu dắt Tư Trang vào sân khấu cải lương. Hai người lại cộng tác với nhau trong nhiều thời gian. Nhưng về quan niệm sáng tác, có những điểm Tư Trang không đồng ý với Năm Châu. Tư Trang thì thiên hẳn về quan niệm nghệ thuật vị nhân sinh mà Năm Châu thì còn nhiều vấn vương với quan niệm nghệ thuật vị nghệ thuật.

Tư Trang bao giờ cũng cố gắng viết cho dễ hiểu, gần với quảng đại quần chúng. Khi tiếng tăm đã lừng lẫy rồi, soạn giả viết vở vẫn thường đọc để xin ý kiến mọi người từ diễn viên đến nhạc công. Ai khen chê điều gì, soạn giả đều nghe cẩn thận, suy nghĩ kỹ để sửa chữa. Có những vở đã được dư luận đánh giá rất cao, mặc dù vậy soạn giả vẫn gia công sửa cho tốt hơn. Thí dụ vở Đời cô Lựu.

Như các khán giả đã được xem diễn về Đời cô Lựu những năm 1936-1939 còn nhớ, khi Hai Thành từ Côn Đảo vượt ngục trở về gặp Hương lão, anh kể lại những nông nỗi mà anh đã phải chịu đựng 19 năm qua:

“Bác ơi! Thân tội tù, từ ngày rời bỏ cố hương, dày dạn nắng sương, cháu những ngỡ đâu đã đành cam vùi gởi nắm xương ngoài Côn Lôn hải đảo.

Nào hay trời đất hãy còn thương, dầu trải bao nỗi gian lao, chịu bao nhiêu cực nhọc mưa gió đổi thay mấy độ, mà ngày hôm nay còn trông thấy được chốn quê nhà.

Trọn 19 năm, khi đầu ghềnh khi cuối bãi, một tấm thân thui thủi nào biết ai giải tỏ nỗi ức oan, giọt huyết lệ chỉ rưới chan với thảo mộc sơn hà. Bách chiết thiên ma, tấm thân tiều tụy, cái phong độ ngày xưa đâu còn nữa. Đến bác đây là người quen thuộc mà bác cũng còn không nhận được, có lẽ khi về, hình dạng cháu đã già”.

 Ngót 30 năm sau, soạn giả sửa lại như sau:

“Thưa bác,

Như cảnh ngộ của cháu đây,

Bỗng khi không phải vương lấy tội tù, mang một hận thù, rời bỏ cố hương, ngày đêm dày dạn nắng sương, cháu những tưởng đâu đã vùi gởi nắm xương ngoài Côn Lôn hải đảo.

Trải một khoảng thời gian chịu bao nỗi gian lao, nếm bao điều khổ nhục, mưa gió đổi thay mấy độ, những canh cánh bên lòng ngại lo cho hoàn cảnh của vợ con, cháu quyết tâm vượt muôn dặm trùng dương trở lại chốn quê nhà.

Bác ôi! Trọn 19 năm, khi biển cả mò nghêu khi rừng sâu đốn củi, một tấm thân thui thủi, nào biết cùng ai giải tỏ nỗi ức oan, giọt huyết lệ chỉ rưới chan với thảo mộc sơn hà.

Bách chiết thiên ma, tấm thân tiều tụy, cái phong độ ngày xưa đâu còn nữa. Đến bác đây là người quen thân nhứt mà bác còn không nhận được cháu, có lẽ vì hình dạng cháu hiện nay đã khô khan cằn cỗi trước tuổi già”.

So sánh hai đoạn trên, ta thấy soạn giả đã gia công sửa chữa cho ý rõ ràng hơn, lời trau chuốt hơn vì tính nhạc càng cao hơn.

Căn cứ vào tài liệu mà ông Nguyễn Văn Trí đã cung cấp, soạn giả Trần Hữu Trang và người chiến sĩ cộng sản Nguyễn Chí Diểu đã có dịp gặp nhau trao đổi về quan niệm sáng tác “tả thực xã hội”. Những cuộc trao đổi này đối với soạn giả rất bổ ích. Hầu hết các vở của Trần Hữu Trang đều có giá trị “tả thực xã hội” sâu sắc. Trong giới soạn giả cải lương, cũng có thể nói trong giới nhà văn trước Cách mạng Tháng Tám – Trần Hữu Trang là một nhà văn có công góp phần giương cao ngọn cờ “tả thực xã hội” và kiên trì với đường lối sáng tác này, không bị ngả nghiêng vì những đợt gió đổi chiều trong xã hội.

Một bằng chứng hùng hồn là sau này có lần soạn giả Trần Hữu Trang viết về đề tài tôn giáo. Ấy là thời kỳ soạn giả đi với gánh Phước Chung. Từ năm 1952 về sau, soạn giả hầu như không soạn vở mới. Công việc chính của Trần Hữu Trang trong thời gian này là động viên hướng dẫn giới nghệ sĩ sân khấu phục vụ công cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ.

Lần này, để cổ vũ phong trào Phật giáo yêu nước chống chế độ gia đình trị của anh em Ngô Đình, ông soạn giả viết vở Mục Liên Thanh Đề. Khác với các loại “tuồng Tiên tuồng Phật” như khán giả đã xem trên sân khấu cải lương trước nay, ngòi bút của Trần Hữu Trang vẫn giữ vững phương pháp tả thực xã hội nghiêm túc khi thể hiện tính cách tham lam độc ác của nhân vật Thanh Đề qua những quan hệ với những người vay nợ, với kẻ ăn người ở trong nhà cũng như với xóm giềng. Cách khai thác đề tài của soạn giả không bị nhuốm màu sắc thần bí dị đoan. Rất tiếc là vì quá bận, soạn giả chỉ mới viết được một màn. Khi người khác viết tiếp, vở kịch không theo được chủ đích của soạn giả nữa.

Là một người xuất thân là lao động chân tay, soạn giả Trần Hữu Trang đến với sân khấu cải lương không vì ham danh vụ lợi mà vì yêu mến nghệ thuật. Ông là một trong số soạn giả hiếm hoi không chịu uốn ngòi bút vì áp lực của bọn cầm quyền, vì sự cám dỗ của tiền bạc hay vì những lời khen chê của công chúng nông nổi. Ông theo đuổi sân khấu cải lương với ý thức xây dựng phát triển nó ngày càng tốt trong kho tàng nghệ thuật dân tộc.

Soạn giả khẳng định nguồn gốc lành mạnh của cải lương. Ra đời trong chế độ cũ, cải lương đã bị bọn thống trị cấm đoán, lợi dụng, xuyên tạc và bọn tài chủ lũng đoạn biến thành món hàng kinh doanh thu lãi.

Mặc dù vậy vẫn còn có những soạn giả tiến bộ ra sức phấn đấu để sân khấu cải lương có được những vở tốt, mang nội dung chống xâm lăng, lên án xã hội bất công đồi trụy.

Nhận định đúng đắn này là kim chỉ nam giúp cho soạn giả giữ vững hướng đi, không bị lạc ở những ngã ba, ngã bảy như nhiều cây bút khác trong thời kỳ trước năm 1945, cũng như trong các vùng bị tạm chiếm sau này.

Lịch sử sân khấu cải lương đã cho thấy: Khi phong trào cải lương phồn vinh, các soạn giả đua nhau chạy theo hình thức; ngược lại sân khấu cải lương lâm vào tình trạng khó khăn, thì nhiều soạn giả tìm phương cứu vãn bằng cách tăng cường mặt hình thức. Những việc làm này gây tác hại lớn cho cải lương. Trần Hữu Trang luôn luôn nắm vững nguyên lý phát hiện hình thức là để thể hiện tốt nội dung. Soạn giả chú trọng nội dung, đồng thời cũng nhấn mạnh tầm quan trọng của hình thức. Hai mặt này có quan hệ hữu cơ và tác động lẫn nhau. Soạn giả nhận định: “Cải lương cần thấy đặc điểm của mình là ca kịch, do đó không nên chỉ đi vào những sự kiện sôi nổi dồn dập từ đầu đến cuối, mà nên khai thác đi sâu vào tâm tình, những diễn biến nội tâm để diễn tả tình cảm một cách tế nhị hơn”.

Lời ca, nét nhạc là những yếu tố căn bản của cải lương. Viết cải lương, mà không hiểu sâu nắm vững ca nhạc cải lương thì không thể nào hay được. Soạn giả Trần Hữu Trang nghiên cứu kỹ vấn đề này. Soạn giả đã nêu một số ý kiến rất xác đáng: “Trong tình cảm và điệu đàn, nó còn có những cái tế nhị hơn, ví dụ: buồn, có buồn nhiều, buồn ít; vui có vui nhẹ nhàng, lâng lâng hay vui rộn rã; giận, cãi vã có dứt khoát hay trả treo… Điệu đàn lại có khi đàn xuân thì vui, đàn ai thì buồn. Vì vậy trong tình cảm cũng như trong điệu đàn, có trường hợp ban đầu tính chất rõ ràng, mà có trường hợp có bản đàn khó mà phân biệt ranh giới tình cảm của nó một cách khẳng định hay dứt khoát được. Chỉ cần có điều dứt khoát được là không bao giờ đem bản đàn thuộc loại nhạc buồn não nùng vào cảnh vui rộn rã hay ngược lại. Còn giữa các điều vui ít, vui nhiều, buồn ít buồn nhiều, hoặc vui lâng lâng hay buồn man mác thì tuỳ từng sự việc, nghe từng bản đàn một cách cụ thể mà sử dụng rộng rãi, không nên gò bó hay khẳng định. Nhưng cũng nên tránh quá sơ lược và qua loa. Cần nghiên cứu từng bản một để đặt vừa mức cho mỗi trường hợp. Có làm đúng như vậy mới bảo đảm được việc sử dụng bài ca một cách hợp cảnh hợp tình”.

Tính chất của cải lương là vừa truyền thống vừa hiện đại. Cải lương mang tính truyền thống vì xuất phát từ dân ca, ca nhạc cổ của dân tộc. Nó hiện đại vì nó mới ra đời và trưởng thành khoảng trên nửa thế kỷ nay, không lâu đời như tuồng, chèo. Xác định rõ tính chất của cải lương như vậy, cho nên để phát triển nghệ thuật ca kịch cải lương, soạn giả Trần Hữu Trang đề ra phương hướng kết hợp làm sao cho nó “chẳng những ngày càng phong phú mà còn làm cho nó có cái phong cách thuần nhất của nó nữa”.

Làm như thế nào? Soạn giả giải đáp: xác nhận ca nhạc cổ là nguồn gốc, là căn bản của bộ môn ca kịch cải lương; tất cả các điều khác muốn đưa vào đều phải nghiên cứu cải biên, nâng lên sao cho hỗn hợp làn điệu, đừng chỏi với ca nhạc cổ là dùng được. Sáng tác những bản nhạc làn điệu hoà hợp với nhạc cổ, làm nhạc nền cho một buổi diễn cải lương, theo soạn giả, là tốt.

Trước và đồng thời với soạn giả Trần Hữu Trang, có những soạn giả đã nhập cảng vào sân khấu cải lương nhiều bản nhạc Trung Quốc gọi là bài Quảng, bài Tiều, những bài hát lời Việt Nam điệu Tây (thí dụ: J’ai deux amours, Arthur, C’est poun mon papa), những bài hát Nhật (như Nuit chinoise, Tô Châu dạ khúc). Lại có những bản đàn ngắn mới sáng tác, thí dụ soạn giả Mộng Vân đã sáng tác những bài Giang tô, Thu phong nguyệt, Sương chiều, Tú Anh, Nặng tình xưa…Những tìm tòi này có ít nhiều thành công và có những kết quả đáng trách. Cái lối “ăn sống nuốt tươi” thiếu nghiên cứu, chọn lọc những bản nhạc ngoài làm cho sân khấu cải lương trở nên lai căng, hỗn tạp.

Soạn giả Trần Hữu Trang cũng có nghĩ đến việc làm cho những phương tiện biểu hiện của sân khấu cải lương phong phú hơn. “Khai thác được những tiềm năng nghệ thuật trong yếu tố thi, ca, nhạc là hoài bão lớn của tôi”. Soạn giả đã từng tâm sự với nghệ sĩ Ba Du như vậy. Cách làm của ông rất thận trọng. Thí dụ trong vở Lan và Điệp, soạn giả đã đưa điệu thơ mới vào. Đó là lúc Lan chôn hoa và xác bướm trong sân chùa. Soạn giả để Lan ngâm một đoạn thơ mới mở đầu cho bản Nam ai.

Than ôi! Cánh hoa rụng tả tơi vì gió dập

Xác bướm khô ôm ấp bởi tình yêu

Nhìn hoa lan ruột xót trăm chiều

Trông hồ điệp lệ dòng tuôn mấy lượt

Kìa những kẻ không cầu sao lại được

Tủi phận mình mong mỏi vậy mà sai

Chốn am mây chôn lấp mạch cảm hoài

Nghe kinh kệ phôi phai cơn sầu muộn

(ca Nam ai)

Hoa Lan xác bướm mảnh tơ lòng

Đành vùi chôn kiếp bướm hoa lỡ làng rồi…

***

Diễn viên ngâm đoạn thơ trên, nhưng không ngâm như điệu ngâm thơ ở miền Bắc hay điệu ngâm “Tao đàn” ở đài Sài Gòn mà vận dụng từ đài bằng cách nói theo làn điệu của nhạc cổ với câu chót rồi bắt qua đầu lớp Nam ai, thì người nghe thấy rất êm không chỏi với nhạc cổ chút nào.

Gần bốn chục năm làm nghệ thuật, soạn giả Trần Hữu Trang gặt hái được những thành công vững vàng và không vấp phải thất bại, ấy là do phương pháp làm việc khoa học, nghiêm túc. Sau này, soạn giả phát biểu về kinh nghiệm của mình: “Các bộ môn nghệ thuật phản ánh cuộc sống không thể đứng yên mà cần có sự phát triển, nhất là về hình thức để có thể bảo đảm thể hiện nội dung. Đây là công việc làm từ từ, đòi hỏi thời gian, không thể đứng yên mà cần có sự phát triển, nhất là về hình thức để có thể bảo đảm thể hiện nội dung. Đây là công việc làm từ từ, đòi hỏi thời gian, không thể nôn nóng, không thể có sự thay đổi nhanh chóng gò bó hoặc thúc ép trong một lúc tuỳ theo ý muốn chủ quan được”.

Trần Hữu Trang đã soạn trên dưới ba chục vở cải lương. Những vở này hầu hết được sáng tác từ khoảng 1930 đến 1952. Cuối đời, ông có bắt tay soạn một vở về người thợ điện anh hùng Nguyễn Văn Trỗi. Ông rất say sưa công việc này. Soạn giả đã viết hai màn và rất hài lòng. Những người được soạn giả đọc cho nghe đều đánh giá cao sáng tác mới này. Tiếc thay, soạn giả chưa kịp hoàn thành tác phẩm, thì đã hy sinh.

Sau Cách mạng Tháng Tám (1945), soạn giả ít viết vì do yêu cầu cách mạng, ông tham gia hoạt động chính trị nhiều hơn.

Trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp và sau Hiệp định Giơ-ne-vơ, Trần Hữu Trang được giao nhiệm vụ ở lại Sài Gòn làm công tác vận động trí thức, văn nghệ sĩ. Cùng với Năm Châu, Trần Hữu Trang tổ chức gánh Con Tằm, gánh Năm Châu rồi gánh Việt kịch Năm Châu. Về mặt công khai, gánh hát cố gắng tìm cách trình diễn những vở có nội dung yêu nước tiến bộ: Tuyết băng và bạo lực, Nợ dâu, Một tối tân hôn, Chiếc áo thiên nga, Tây Thi gái nước Việt… Nơi ấy cũng là cơ sở bí mật để tập hợp lực lượng hướng về  kháng chiến, là nơi liên lạc, cư trú của cán bộ. Trong điếu văn của Tám Danh có đoạn viết: “Hồi đầu kháng chiến, vì anh được đoàn thể phân công lại Sài Gòn công tác, giữ vững ngọn cờ yêu nước trên sân khấu thành đô, anh em mình phải tạm biệt chia tay. Năm 1949, cấp trên giao nhiệm vụ, tối có dịp tìm gặp anh ở Sài Gòn, nửa tháng trải qua bao lần nguy khốn, đều được anh bảo vệ, che chở giữa chỗ hang hùm miệng sói, giúp tôi làm tròn trọng trách, kết quả gấp mấy lần hơn mức yêu cầu. Những năm gian khổ ấy, sân khấu bưng biền Đồng Tháp mang nặng tình anh biết mấy…”.

Năm 1948, nhờ vào uy tín của soạn giả Trần Hữu Trang mà Hội Nghệ sĩ ái hữu được thành lập. Nữ nghệ sĩ Phùng Há, người giữ chức hội trưởng nhiều khoá, cộng lại tới 17 năm, có lần từ chối muốn để người khác làm, vì nữ nghệ sĩ cho rằng mình kém khả năng văn hoá và chính trị. Soạn giả Trần Hữu Trang thuyết phục: “Không được. Cô cứ phải trấn giữ chỗ này mới được”.

Soạn giả nói vậy, Nghệ sĩ Phùng Há hiểu và yên tâm làm việc. Đến năm 1957, Trần Hữu Trang lại vận động thành lập Nghiệp đoàn nghệ sĩ công nhân sân khấu. Nghiệp đoàn làm được một số việc để bảo vệ quyền lợi chính đáng của nghệ sĩ và công nhân như: ấn định nguyên tắc và giá biểu bản quyền, bồi thường cho đào kép hát thất nghiệp, đòi hỏi nghệ sĩ và công nhân quyền tham dự ban quản trị, phản đối bọn quyền hành địa phương áp chế nghệ sĩ…

Trần Hữu Trang ở lại công tác trong nội thành nhưng các con gái, con trai mình thì ông đều cho đi kháng chiến. Hai con gái của soạn giả là Đề và Đạm hoạt động trong phong trào phụ nữ Mỹ Tho. Con trai lớn của ông là Trần Hữu Thế đã chiến đấu và hy sinh ở Chiến khu Đ năm 1952. Người con trai út của soạn giả là Việt Thường sau này cũng hoạt động nội thành.

Sống dưới chế độ Mỹ Diệm, soạn giả rất đau xót và bất bình vì tình cảnh của các diễn viên, soạn giả sân khấu: “Ai cũng say sưa với nghề nghiệp, nhưng khổ nỗi hoàn cảnh luôn luôn đi ngược với hy vọng dầu là hy vọng nhỏ nhoi nhất”. Có đến bảy thứ thuế đè nặng trên đầu các đoàn hát. Biết bao nghệ sĩ và công nhân “chỉ lãnh lương cà phê cầm hơi hay hoàn toàn thất nghiệp khoanh tay ngồi ở đình Tân Kiều, Tân An”. Lại còn nạn “cọp” hoành hành nhiều khi gây thương tật hay chà đạp lên nhân cách các nghệ sĩ. Tư Trang thường nói: “Nghệ sĩ là kiếp con tằm dầu thác vẫn còn vương tơ”. Nhưng sự thật ở miền Nam hiện nay quá phũ phàng: “Tằm không có lá dâu”. Soạn giả từng thảo luận thâu đêm với các bạn về tương lai của sân khấu, về tiền đồ của nghệ sĩ.

Cuối năm 1960, cuộc kháng chiến quả quân dân miền Nam chuyển sang giai đoạn mới, quyết liệt hơn. Trần Hữu Trang bỏ Sài Gòn ra ngoài chiến khu để xây dựng lực lượng văn nghệ giải phóng. Khi ấy, soạn giả 55 tuổi, mắc bệnh đau ruột, công việc bận rộn và đời sống đạm bạc đã khiến cho sức khoẻ của ông giảm sút nhiều. Nhưng ông vẫn hăng hái làm nhiệm vụ mới. Với tư cách là Chủ tịch Hội Văn nghệ Giải phóng, Uỷ viên Uỷ ban Trung ương Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam, soạn giả cặm cụi làm việc dưới mái lán lợp lá trung quân, dưới ánh đèn chai leo lét trong rừng già, hăng hái xông pha – mặc dù chân bên trái bị đau nhiều – trên những con đường mòn đầy dây kim cương và cây mắc cỡ. “Văn nghệ của chúng ta chẳng những là vũ khí sắc bén không thể thiếu được để đánh địch mà còn có nhiệm vụ cao quý là thể hiện tính chất, phong cách của con người miền Nam ngoan cường, dũng cảm chiến đấu không ngừng với một niềm lạc quan tin tưởng nhất định thắng lợi”. Đích thân soạn giả đã thể hiện tính chất ấy, phong cách ấy.

Từ chỗ là một người lao động bình thường, trở nên một nhà văn, một soạn giả, vì tấm lòng yêu mến nghệ thuật dân tộc, yêu thương những người nghèo khổ bị áp bức đọa đày. Từ chỗ là một nghệ sĩ chiến đấu bằng ngòi bút tiến lên thành một nghệ sĩ chiến sĩ cách mạng đấu tranh giữ vững ngọn cờ văn nghệ yêu nước và xã hội chủ nghĩa, soạn giả Trần Hữu Trang đã sống trọn cuộc đời một nghệ sĩ chân chính. Thân thế, sự nghiệp ông là tiếng gọi, là niềm cổ vũ cho giới văn nghệ nói chung và đặc biệt đối với các nghệ sĩ sân khấu.

“Nay đồng chí Trần Hữu Trang không còn nữa. Nhưng những việc làm dở dang của đồng chí, những người làm cải lương chúng tôi nguyện tiếp tục phấn đấu, góp phần nhỏ của giới sân khấu, đánh thắng hoàn toàn giặc Mỹ cướp nước”.

Đó là điều tâm nguyện của nghệ sĩ Ba Du, người bạn cố tri đối với soạn giả Trần Hữu Trang.

Và đây là lời nghệ sĩ Kim Xuân, thuộc thế hệ đi sau: “Nhớ thương người nghệ sĩ lão thành, giới sân khấu cũng như anh chị em văn nghệ sĩ nguyện học tập tinh thần anh dũng bền bỉ chống đế quốc Mỹ, và tinh thần tận tụy yêu nước, yêu nghề của bác. Chúng cháu nguyện đem hết sức mình làm cho nghệ thuật nước nhà ngày càng phát triển xứng đáng là nền nghệ thuật ưu tú của một nước độc lập tự do”.

Tên tuổi soạn giả Trần Hữu Trang thật xứng đáng được ghi trân trọng trong lịch sử văn học và lịch sử nghệ thuật sân khấu Việt Nam.

Tư trang với đoàn Phước Chung(*)

Trong phong trào kháng chiến chống xâm lược Pháp của Nhân dân Nam Bộ, Trần Hữu Trang cùng với số đông nghệ sĩ cải lương khác đã tham gia đội ngũ hoạt động trên nhiều vị trí và địa bàn khác nhau: Năm Châu, Tư Trang, Tám Danh, Ba Du, Bảy Vân, Triệu An, Năm Thanh Hương, Ngọc Trai… vào chiến khu miền Đông, miền Trung, miền Tây Nam Bộ.

Để tạo được cơ sở hoạt động hợp pháp tại Sài Gòn và các vùng đô thị, các nghệ sĩ Năm Châu và Tư Trang đã thành lập ban “Việt kịch Năm Châu”, một kiểu đoàn hát cải lương không phải của tư nhân mà do tập thể quản lý, dần dà tạo được những cơ sở tập hợp và tương trợ trong giới cùng nghề nghiệp như Hội Nghệ sĩ, Ái hữu (1948) trụ sở tại đường Cô Bắc, Quận 1, Sài Gòn; khu nhà tập thể của diễn viên và công nhân sân khấu gồm hai dãy trại 14 căn tại dốc cầu Bông (Gia Định), từ năm 1956 thường gọi là trại Phước Chung. Toàn bộ những cơ sở trên đây đều là địa bàn hoạt động cách mạng của nghệ sĩ Năm Châu và soạn giả Trần Hữu Trang, nơi đào tạo và tiếp nhận một đội ngũ cán bộ kháng chiến trong giai đoạn chuyển tình thế sau này.

Với chương trình tiết mục khá phong phú, đặc sắc do hai soạn giả tài năng là Năm Châu và Tư Trang chủ biên: Tây Thi gái nước Việt, Người với người, Miếng thịt người, Thái tử Hàm – Lệ (Hamlet), Tìm hạnh phúc, Đời cô Lựu, Hậu chiến trường, Tấm lòng trinh… đoàn Việt kịch Năm Châu đã khêu gợi trong tâm tưởng công chúng thời bấy giờ ý thức dân tộc, lòng yêu nước, tinh thần đấu tranh chống áp bức bạo tàn, chống bất công.

Mặc dầu tồn tại và hoạt động trong những điều kiện không ít khó khăn, gian khổ, cuộc sống hằng ngày thường khi bữa đói bữa no, sáng xôi chiều cháo, thường xuyên diễn ở đình Phú Hoà, gánh Việt kịch Năm Châu dưới sự dẫn dắt của đồng chí Nguyễn Văn Hiếu (sau này Bộ trưởng Bộ Văn hoá và Thông tin) và của hai soạn giả cách mạng cũng những cơ sở nòng cốt khác vẫn chú trọng công tác giáo dục nội bộ, thực hiện tác phong sinh hoạt “đời sống mới” (ăn cơm dùng đũa hai đầu, không cờ bạc hút xách hoặc rượu chè be bét…).

Tất cả những cơ sở và điều kiện đặc biệt trên đây là tiền đề cho mỗi phong trào đấu tranh chính trị khá sôi nổi và đầy khí thế vào những năm 1955-1957 sau Hiệp định Giơ-ne-ve mà dư âm vang vọng của nó vẫn không dứt, vẫn tác động sâu sắc đặc biệt trong giới sân khấu cải lương ở miền Nam.

Tháng 7/1945, tiếng súng kháng chiến vừa dứt, thì ở Sài Gòn, cuộc chiến đấu mới đã tiếp diễn ngay trên các đường phố và trên sân khấu cải lương. Sự đột nhập về thành phố của một số đông cán bộ kháng chiến hoạt động văn hoá nghệ thuật đã tạo ra một khí thế ồ ạt. Khán giả Sài Gòn – Chợ Lớn được thưởng thức những chương trình ca múa, với các tiết điệu kháng chiến.

1955, tập thể gánh Việt kịch Năm Châu đã thực hiện đấu tranh với ngụy quyền chống thủ đoạn đốt nhà, đuổi dân chiếm đất ở Năng-xin. Và sau đó, vở cải lươngNgười mặt cháy từng trình diễn trên sân khấu “Chiến khu xanh”, lần đầu tiên ra mắt công chúng thành phố, liền bị chính quyền Ngô Đình Diệm chú ý. Có lần, chúng huy động lực lượng cơ giới bao vây rạp Nguyễn Văn Hảo khi ở đây một chương trình ca vũ của Việt kịch Năm Châu được khán giả hoan hô sôi nổi. Bọn thống trị vừa mới lên ngôi bắt giam và hăm dọa rúng ép nghệ sĩ Năm Châu và cha con người quản lý Trần Văn Kiết.

Tình hình đến mức khẩn trương, chi bộ Đảng Cộng sản, linh hồn của đoàn, gồm một số soạn giả, nghệ sĩ, cán bộ quản trị, bàn kế hoạch đối phó chống âm mưu của ngụy quyền. Sau khi dựng tiếp thêm vở Người nghèo trong khói lửa của Phạm Trần (tức Phi Vân, soạn giả, đảng viên Đảng Cộng sản, con rể đồng chí Tư Trang, hy sinh trong kháng chiến chống Mỹ ngày 19/6/1966), Nghệ sĩ Năm Châu buộc phải lánh mặt, rời đoàn và hoạt động trong phong trào hoà bình do các đồng chí Nguyễn Hữu Thọ, Nguyễn Văn Hiếu, Mã Thị Chu lãnh đạo. Đầu năm 1960, gánh Việt kịch Năm Châu, không có Năm Châu, ở vào một tình thế bức bách, trước hai con đường và hai phương án lựa chọn: hoặc là giải tán, chạy dài hoặc là đối đầu với khủng bố, gian nguy và tù tội. Trong một phiên họp do đồng chí Tư Trang chủ trì, đa số anh chị em cán bộ và nghệ sĩ chọn con đường hành động cách mạng vì sự nghiệp đấu tranh thống nhất đất nước, và tập thể quyết định đổi bảng hiệu Việt kịch Năm Châu thành Phước Chung.

Nhưng sau đó, do nội dung chính trị tư tưởng của các vở Người nghèo trong khói lửaNgười mẹ hiền, không bao giờ được chánh quyền Ngô Đình Diệm để yên cho diễn tại Sài Gòn, đoàn Phước Chung phải mở đường lưu diễn miền Trung.

Thời gian ấy, miền Trung gặp mưa lũ lớn, việc di chuyển đối với một gánh hát nhỏ thật là vất vả không kém những gian khổ thuở 9 năm chống Pháp. Nhưng với tinh thần tập thể chiến đấu, với tác phong của những con người chiến sĩ nghệ thuật được giác ngộ cách mạng ở mức độ nhứt định, Phước Chung đã gieo được những ấn tượng tình cảm tốt đẹp trong Nhân dân các vùng thị xã, thị trấn và đặc biệt là các vùng nông thôn kháng chiến cũ.

Năm 1957, Phước Chung lại ra mắt khán giả Sài Gòn với một loạt vở mới có nội dung tiến bộ được đông đảo công chúng ưa thích: Nhuỵ hoa lan, Bạo chú Huy Linh, Cây tương tư, Chị chồng tôi, Gió ngược chiều, Thủ cấp của ai, Giờ thức tỉnh. Vở Nhuỵ hoa lan của soạn giả Mai Quân (sau này là Phó Tổng thư ký Hội Sân khấu Thành phố Hồ Chí Minh) bị tên bồi bút của chính quyền Diệm là Vũ Bắc Tiến tấn công dữ dội bằng hàng loạt bài báo trên báo Sài Gòn. Để tránh sự khủng bố của địch xem Phước Chung là đội ngũ “Văn nghệ nằm vùng” của Cộng sản, đoàn đã né xuống miền Tây và trở ra miền Trung (Trung Bộ) lần nữa.

Trở lại Sài Gòn 1959, mặc dầu lúc này chánh quyền phát xít Ngô Đình Diệm phản kích điên cuồng phong trào cách mạng, với nữ diễn viên Lan Chi, người được giải Thanh Tâm 1959, Phước Chung lại tái diễn một màn của Nhuỵ hoa lan. Địch ra tay khủng bố tìm bắt soạn giả Trần Hữu Trang, giam giữ soạn giả Phạm Trần. Đi miền Trung lần thứ ba trong vòng hai năm, Phước Chung dựng liên tiếp những vở có nội dung nêu cao tinh thần yêu nước truyền thống dân tộc đậm nét hơn:Hồn thiêng sông núi, Vì tôi là người Việt, Lối về Nhựt Tảo (1962)…

Năm 1960, đồng chí Trần Hữu Trang, do yêu cầu của tình hình cá

0