25/05/2018, 14:25

Trần Dần

Chân dung tên thật là Trần Văn Dần (23 tháng 8 năm 1926-17 tháng 1 năm 1997), là một nhà thơ, nhà văn Việt Nam. Thời trẻ Nguyên quán thành phố Nam ...

Chân dung

tên thật là Trần Văn Dần (23 tháng 8 năm 1926-17 tháng 1 năm 1997), là một nhà thơ, nhà văn Việt Nam.

Thời trẻ

Nguyên quán thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định, cha là một viên chức kho bạc Nam Định. Ông học qua bậc Thành chung ở quê rồi lên Hà Nội học tiếp và đỗ Tú tài Triết.

Năm 1946, cùng Trần Mai Châu, Đinh Hùng, Vũ Hoàng Địch, Vũ Hoàng Chương thành lập nhóm thơ tượng trưng Dạ đài với tuyên ngôn 16-11-1946 với những câu: "Chúng tôi, một đoàn vong gia thất thổ, đã đầu thai nhằm lúc sao mờ...". Đến ngày 19-12-1946, ông cùng nhóm Dạ đài ra số báo Dạ Đài 2, khi Kháng chiến chống Pháp bùng nổ, ông trở về Nam Định tham gia công tác thông tin tuyên truyền ở huyện Vụ Bản rồi làm việc ở Sở Tuyên truyền Khu IV.

Năm 1948, ông tham gia Vệ quốc quân, ở Ban Chính trị Trung đoàn 148 Sơn La (nay thuộc Sư đoàn 316), làm công tác tuyên truyền cùng Vũ Khiêu, Vũ Hoàng Địch, sau đó làm báo ở mặt trận Tây Bắc và phụ trách văn công Trung đoàn 148 Sơn La. cùng Trần Thư, Hoài Niệm tham gia sáng lập nhóm văn nghệ quân đội đầu tiên - Nhóm Sông Đà. Thời gian này ông bắt đầu làm thơ bậc thang và vẽ tranh lập thể, bị cho là khó hiểu. Ông là đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam (lúc ấy có tên là Đảng Cộng sản Đông Dương) từ năm 1949.

Năm 1954, cùng với Đỗ Nhuận, Tô Ngọc Vân, tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ và viết truyện dài Người người lớp lớp. Chiến dịch kết thúc, ông được cử sang Trung Quốc viết thuyết minh phim Chiến thắng Điện Biên Phủ. Tuy nhiên do bất đồng với người cán bộ chính trị đi cùng nên ông "nhường" cho người này viết thuyết minh.

và vụ Nhân văn Giai phẩm

Năm 1955, viết đơn đề nghị được giải ngũ, ra khỏi Đảng và kết hôn với bà Bùi Thị Ngọc Khuê (gia đình bà Khuê có người di cư vào Nam, nên Đảng không cho phép đảng viên kết hôn vì lý lịch). Theo báo Nhân Dân, việc đòi ra Đảng đã làm cho một số người đi theo. Ông tham gia Phong trào Nhân văn-Giai phẩm, lên tiếng đòi tự do, đòi xuất bản các tác phẩm mang tính cách tân của mình, mặc dù đã bị Chính quyền lúc bấy giờ nhiều lần cảnh cáo nhưng ông vẫn giữ vững sáng tác, ông liên tiếp cho ra đời các tác phẩm phê phán như "Lão rồng" và chuyện "Anh Cò Lấm" phê phán cải cách ruộng đất để rồi sau đó bị bắt giam. Cũng theo báo Nhân Dân, trong tù ông dùng một lấy một lưỡi dao cạo râu kéo da cổ ra, cứa ngoài da, rồi "lu loa lên dọa tự tử". Ông phải đi lao động cải tạo ở nhiều nơi cho đến năm 1960.

Vài mốc chính của cuộc đời ông trong thời gian này có thể tóm tắt như sau:

Tháng 03/1955: Ông tham gia phê binh tập thơ Việt Bắc của nhà thơ Tố Hữu. nhận định tập thơ Tố Hữu nhỏ bé nhạt nhẽo trước cuộc sống vĩ đại và mắc một sai lầm nghiêm trọng là sùng bái cá nhân, thần thánh hoá lãnh tụ.

Tháng 04/1955: Ông cùng Đỗ Nhuận, Hoàng Tích Linh, Hoàng Cầm, Trúc Lâm, Tử Phác đệ trình Dự thảo đề nghị cho một chính sách văn hoá với các đề nghị yêu cầu tự do sáng tác, trả quyền lãnh đạo văn nghệ về tay văn nghệ sĩ, thủ tiêu hệ thống chính trị viên trong các đoàn văn công quân đội, sửa đổi chính sách văn nghệ trong quân đội. Ông cũng viết đơn xin giải ngũ và đơn xin ra khỏi Đảng, và quyết định kết hôn với bà Bùi Thị Ngọc Khuê bất chấp sự phản đối của các cấp lãnh đạo.

Từ ngày 13/6 đến 14/9 cùng năm: Ông bị giam theo quân kỷ để kiểm thảo cùng với Tử Phác ở đơn vị. Trong thời gian này bà Bùi Thị Ngọc Khuê bắt đầu ốm nghén người con đầu lòng của hai người, chị Trần Thị Băng Kha. Nhà văn Hoàng Cầm trong bài viết về trên báo Nhân Văn số 1 có vài dòng nói về giai đoạn này: "Người yêu anh bỗng thấy anh không về nhà nữa. Nhưng trận ốm nghén đầu tiên đã quật chị xuống như một con bệnh nặng. Mặt choắt lại, người chỉ còn da với xương. Một mình ở một căn nhà bừa bộn với một con chó gầy còm, không cha mẹ, không anh em , không bạn bè, chỉ có bà hàng xóm bán guốc thỉnh thoảng chạy đi chạy lại nấu cho bát cháo. Tôi đến gặp chị mếu máo, trông già đi hàng chục tuổi. Chị hỏi:

“Sao anh Dần không về với tôi nữa hở anh?”

Tôi giải thích: “Anh ấy bận công tác ít lâu thôi. Chị đang ốm, có cần gì, chúng tôi sẽ giúp chị.”

Chị oà lên khóc:

“Bộ đội có cho tôi lấy anh ấy không?”

Tôi lại khuyên nhủ:

“Có chứ! Ai cấm đâu!”

Chị bỗng khóc to hơn:

“Phải rồi, không ai cấm tôi và anh ấy lấy nhau. Bộ đội người ta không cấm nhưng anh Dần bỏ tôi rồi! Tôi bụng mang dạ chửa thế này, anh ấy bỏ tôi trốn rồi!”

Rồi chị gào lên:

“Bạc như vôi ấy giời ơi! Anh ấy không muốn ăn ở với tôi nữa thì cứ bảo tôi biết, việc gì phải lấy cớ công tác này công tác nọ.”

Tôi thấy chua chát lạ lùng, nhưng chỉ nói tránh đi:

“Anh ấy bận công tác thật đấy mà!”

Chị vẫn một mực:

“Anh ấy nói dối! Cả anh nữa cũng nói dối. Thôi tôi chết đi! Tôi chết đi cho anh ấy đỡ bận! Mà đỡ phiền cả các anh…”

Một số bạn thân của phải cắt nhau đến canh ở đấy, giải thích an ủi, giúp đỡ một người con gái mới yêu lần đầu mà đã bị dao cắt ruột gan."

Từ 2/11 đến giữa tháng 2/1956, được "phân công" đi tham quan cải cách ruộng đất đợt 5 tại Bắc Ninh. Trong thời gian này ở Hà Nội Hoàng Cầm cho đăng bài thơ Nhất định thắng trong Giai Phẩm Mùa Xuân. Tờ tạp chí bị tịch thu.

Tháng 2/1956: trở về Hà Nội. Hội Văn Nghệ tổ chức hội nghị phê bình bài thơ Nhất định thắng với 150 văn nghệ sĩ tham dự. Ông bị kết án là đồ đệ của Hồ Phong, mất lập trường giai cấp và đi ngược lại đường lối của Đảng và bị giam 3 tháng tại nhà tù Hoả Lò, Hà Nội.

Ngày mùng 7 tháng 3/1956: báo Văn Nghệ số 110 có đăng bài Vạch trần tính chất phản động trong bài thơ "Nhất định thắng" của do Hoài Thanh viết.

- dùng dao cạo cứa cổ định tự tử trong tù.

- Trần Thị Băng Kha, con gái đầu lòng của ra đời.

Tháng 9/1956: báo Nhân Văn ra đời, do Phan Khôi làm chủ nhiệm, Trần Duy làm thư ký toà soạn, Minh Đức xuất bản, ban biên tập gồm Nguyễn Hữu Đang, Trần Duy, Lê Đạt, Hoàng Cầm. Trong số 1 có đăng bài Con người - Tiến đến việc xét lại một vụ án văn học: của Hoàng Cầm.

Ngày 15 tháng 12/1956: Ủy ban hành chính Hà Nội ra thông báo đóng cửa báo Nhân Văn. Vỏn vẹn báo in được 5 số.

Cuối tháng 2/1957: Đại Hội văn nghệ toàn quốc lần thứ 2 tại Hà Nội với gần 500 đại biểu. Tổng bí thư Trường Chinh nói chuyện, kêu gọi đấu tranh đập nát luận điệu phản động Nhân Văn-Giai Phẩm.

Tháng 3-4/1958: Ông tham dự lớp học "đấu tranh tư tưởng" tại Thái Hà Ấp với 304 cán bộ văn hoá văn nghệ tham dự.

Đầu tháng 6/1958: Hội nghị ban chấp hành Hội Liên Hiệp VHNTVN họp tổng kết cuộc đấu tranh chống Nhân Văn-Giai Phẩm. Hơn 800 văn nghệ sĩ hoan nghênh kết quả thắng lợi của cuộc đấu tranh.

Tháng 7 cùng năm: Cùng với các nghệ sĩ tham gia Nhân Văn-Giai Phẩm khác, ông nhận kết quả kỷ luật. bị khai trừ khỏi Hội Nhà Văn và đình chỉ xuất bản trong thời hạn 3 năm.

Từ 22/8 đến 2/1959, đi lao động cải tạo tại nông trường Chí Linh cùng với Lê Đạt, Đặng Đình Hưng, Tử Phác.

Tháng 11/1959: Ông được phân công dịch tại ga-ra Hội Nhà Văn cùng với Lê Đạt, Phùng Cung, Nguyễn Khắc Dực.

Năm 1960: Có hai lần đi cải tạo lao động tại khu gang thép Thái Nguyên. Đến tháng 8 thì ốm nặng về Hà Nội.Từ đó sống âm thầm tại Hà Nội bằng nghề dịch sách và tô ảnh màu, đứng ngoài mọi sinh hoạt văn nghệ chính thống.

... Năm 1988: , Lê Đạt, Hoàng Cầm,... được mời tham gia sinh hoạt văn học trở lại. Tháng 5, vào Huế gặp gỡ đồng nghiệp và bạn đọc.

Sau 1960

Năm 1961 ông trở về Hà Nội và từ đó đến năm 1986, kiếm sống bằng nghề dịch sách, tô màu ảnh, vẽ tranh, không tham gia đời sống văn học chính thống. Trong hồi ức của các con ông, ít khi buồn, không có một phàn nàn và không bao giờ kể chuyện đời mình.

Ông vẫn thầm lặng sáng tác, từ năm 1954 đến 1989 vẫn đều đặn viết nhật ký, những số đầu tiên có tựa là Ghi vặt, từ năm 1973 thành Sổ thơ và từ năm 1979 thành Sổ bụi Nhận xét về giai đoạn này, ông có nói: Mình ngồi ba chục năm quen rồi. Ngồi mà vẫn đi, vẫn ngao du. Mình có cuốn sổ “bụi”, sổ “ngao du”. Mình đi chơi lang thang trong cuốn sổ này. Đây là sổ để ghi tất cả những gì mới nghĩ ra. Có khi ngoài cả ý thức. Đó là cách đi của mình.

Ông vẫn kiên trì công cuộc cách tân thơ của mình. Ở Sổ bụi 1988 khi nói về Thơ mini ông có viết: tôi thích viết cái chưa biết, mặc các ông viết cái đã biết. 90 có hoàn thành không? có thành công không để mà đốt đi? Tôi đã đốt tôi đi không phải chỉ đôi lần…cái chưa biết- cái khó - thậm chí cái bất khả thu hút và đắm đuối tôi. Sổ bụi cuối cùng viết năm 1989, trước khi những năm cuối cuộc đời bệnh tật đã cướp đi của ông trí nhỡ và sự minh mẫn. (Di chứng của những lần xuất huyết não, lần đầu tiên ông bị là vào năm 1983)

Đặc biệt, không bao giờ mất lòng tin đến một ngày tác phẩm của mình được xuất bản trở lại. Sau khi ông mất, trong di cảo của ông, các con ông đã tìm thấy một tập bản thảo có ghi " tự xuất bản", hay tập thơ "Bao giờ em đi lấy chồng" mà ông đã tự trình bày và minh họa sẵn cách đấy 35 năm.

Đến thời kỳ Đổi mới, bước vào giai đoạn tác giả có thể bỏ tiền tự in, tự phát hành với sự cấp giấy phép của Nhà xuất bản, vài tác phẩm của ông được xuất bản trở lại như Trường ca "Bài thơ Việt Bắc" năm 1990 (cho dù chương 12 của bản Trường ca là toàn bộ bài thơ Nhất định thắng phải bỏ) và tập thơ tiểu thuyết Cổng tình năm 1994, tác phẩm sau này đã đoạt giải thưởng của Hội nhà văn. Ông mất tại Hà Nội năm 1997.

Di cảo

Sau khi ông mất, người con trai thứ hai, nhà quay phim Trần Trọng Văn đã bỏ ra nhiều thời gian sắp xếp lại kho tàng di cảo mà để lại. Đến đầu năm 2008, Công ty Nhã Nam và Nhà xuất bản Đà Nẵng đã cho phát hành cuốn -Thơ, được coi là công trình đồ sộ nhất từng được xuất bản về . (Xem thêm Vụ thơ )

Ông được truy tặng Giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật năm 2007.

Được đánh giá là người cách tân trong thơ cả về hình thức (với lối thơ bậc thang) lẫn tư tưởng (đa diện, triết lý...) và về thơ có nhiều ý kiến trái ngược nhau. Ngay sau Phong trào Thơ mới, đã chủ trương làm thơ theo trường phái tượng trưng cùng với nhóm Dạ đài. Theo nhà thơ Dương Tường: "Thơ đương nhiên là khó hiểu. Nhưng chính ông ấy cũng nói về sự khó hiểu một cách hết sức giản dị: “Tất cả mọi giá trị chân thiện mỹ đều là khó hiểu”." Cũng theo nhà thơ Dương Tường, nếu đánh giá đúng Nhân văn - Giai phẩm và , có thể chúng ta phải viết lại sách giáo khoa văn học, và viết lại một chương trong lịch sử văn học Việt Nam giai đoạn 1955-1956, đây có thể là mốc thứ hai (sau Thơ mới) trên tiến trình hiện đại hóa Thi ca Việt Nam. Mặc dù suốt 30 năm thơ ông không được xuất bản nhưng ông vẫn miệt mài sáng tác theo con đường nghệ thuật mà mình suốt đời theo đuổi. Trong đám tang , hai câu thơ này của ông đã được viết trên một tấm băng lớn treo ở tang phòng:

Tôi khóc những

chân trời

không

người bay

Lại khóc những người bay

không có

chân trời

Chiều mưa trước cửa (Thơ - 1943)

Hồn xanh dị kỳ (Thơ - 1944)

Người người lớp lớp (Truyện dài-1954)

Nhất định thắng (Thơ-1956)

Cách mạng tháng Tám (1956)

Đêm núm sen (Tiểu thuyết - 1961, chưa xuất bản)

Jờ Joạcx (Thơ - 1963, xuất bản di cảo)

Những ngã tư và những cột đèn (Tiểu thuyết - 1964, chưa xuất bản)

Một ngày cẩm phả (Tiểu thuyết - 1965, chưa xuất bản)

Con trắng (Thơ-hồi ký - 1967)

177 cảnh (Hùng ca lụa - 1968)

Động đất tâm thần (Nhật ký-thơ - 1974)

Thơ không lời - Mây không lời (Thơ-hoạ - 1978)

bộ tam Thiên Thanh - 77 - Ngày ngày (1979)

bộ tam 36 - Thở dài - Tư Mã zâng sao (1980)

Thơ mini (1988)

Bài thơ Việt Bắc (Trường ca - Viết năm 1957, xuất bản năm 1990)

Cổng tình (Thơ-tiểu thuyết - Viết năm 1959-1960, xuất bản năm 1994)

Mùa sạch (Thơ - Viết năm 1964, xuất bản năm 1998)

- Thơ (2008 - Giải Thành tựu trọn đời của Hội Nhà văn Hà Nội)

có ba người con, hai trai một gái:

Con gái: Trần Thị Băng Kha, giáo viên dạy toán

Con trai: Trần Trọng Văn, nhà quay phim

Con trai: Trần Trọng Vũ, họa sĩ

Con dâu ông (vợ của họa sĩ Trần Trọng Vũ) là nữ nhà văn Thuận (Đào Ánh Thuận)

0