18/06/2018, 16:45

Tổng luận về Bách Gia Chư Tử

Trần Văn Hải Minh 1. – Nguồn gốc Bách Gia Chư Tử Ở nước Trung Hoa, từ thời Chu, Tần, (trước Chúa giáng sinh) có rất nhiều học giả ra đời, mỗi nhà đều có viết sách, trình bày học thuyết của mình, với mục đích sửa đổi chế độ, mong đem lại hạnh phúc ấm no cho con người. Số ...

0Bs9Wj01.jpeg

Trần Văn Hải Minh

1. – Nguồn gốc Bách Gia Chư Tử

Ở nước Trung Hoa, từ thời Chu, Tần, (trước Chúa giáng sinh) có rất nhiều học giả ra đời, mỗi nhà đều có viết sách, trình bày học thuyết của mình, với mục đích sửa đổi chế độ, mong đem lại hạnh phúc ấm no cho con người.

Số học giả ấy không phải chỉ một vài người, và số tác phẩm viết ra không phải chỉ một vài cuốn, cho nên mới gọi là Bách Gia Chư Tử, hay gọi một cách giản dị hơn là Chư Tử.

Người xưa cũng gọi Chư Tử là các tác phẩm của những nhà học giả ấy viết ra. Danh từ này được thấy dùng đầu tiên trong pho sách Thất lược.

Dưới thời Tây Hán (206 trước T.L.) vua Thành Đế sai Lưu Hướng làm chức Hiệu Trung bí thơ, Lưu Hướng lo hiệu đính các loại sách Kinh, Truyện, Chư Tử, Thi Phú ; quan Bộ binh Hiệu úy Nhiệm Hoằng hiệu đính các sách Binh thơ ; quan Thái Sử Lịnh Doãn Hàm hiệu đính các sách Số thuật, quan Ngự y Lý Trụ Quốc hiệu đính các sách Y học.

Sau khi Lưu Hướng mất, vua Ai đế sai con Lưu Hướng là Lưu Hàm, lo hoàn thành công việc của cha còn bỏ dở.

Lưu Hàm liền tổng kết hết các loại sách làm pho Thất lược, gồm có Tập lược, Lục Nghệ lược, Chư Tử lược, Thi phí lược, Binh thơ lược, Số thuật lược, Phương Kỷ lược (sách về Y học).

Pho Tập lược là pho Tổng mục về tất cả các pho sách khác, còn lại 6 pho lược sau, thì chia cổ thơ ra làm 6 loại như đã kể.

Như thế thì Thất lược là một pho Cổ thơ của Trung quốc, gom góp tất cả các loại sách lại, phân chia ra thành từng loại, mà Chư Tử là một loại trong pho sách ấy.

Nguyên bản của pho Thất lược đã thất lạc, đến đời Đông Hán (25-214 T.L.) Ban Cố mới cố gắng gom góp lại những điểm trọng yếu để viết thành pho Hán thư Nghệ văn chí, nhờ đó mà mới có thể biết qua đại khái pho Thất lược như thế nào.

Kể từ đó trở đi, dưới thời nhà Tống (420-477 T.L.) có pho Thất chí của Vương Kiệm, bên trong có phần Chư Tử chí, rồi dưới thời nhà Lương (502-555 T.L.) có pho Thất Lục của Nguyễn Hiến Tự, bên trong có phần Tử Binh Lục, tức hợp Chư Tử và Binh thơ lại làm một.

Pho Kinh tịch chí dưới thời nhà Tuỳ (589-614 T.L.) và pho Tứ Khố toàn thư dưới thời nhà Thanh (1667-1911 T.L.) cũng đều có riêng một phần về Chư Tử.

Truy nguyên các sách kể trên đều bắt nguồn từ pho Thất lược, cho nên Chư Tử là tên gọi một loại sách Cổ thơ bắt đầu từ pho Thất lược.

Ông Nhiệm Hoằng, với chức Bộ Binh Hiệu Úy, sở trường về quân sự, cho nên hiệäu đính Binh thơ, Doãn Hàm với chức Thái Sử Lịnh, thì hiệu đính sách Số thuật, Lý Trụ Quốc là Ngự Y thì hiệu đính sách Y học.

Trong 3 loại sách này, đều có người chuyên môn hiệu đính, như thế là hợp lý, vì tính chất của mọi loại sách đều khác biệt nhau, và cũng vì thế mà phải phân ra từng loại riêng biệt.

Về các loại sách Lục Nghệ, Chư Tử, Thi Phú, đều do Lưu Hướng hiệu đính. Các loại sách này phải phân loại là vì tính chất và thể tài của mỗi loại cũng đều khác nhau.

Thi Phú khác với Lục Nghệ và Chư Tử, điều này rất dễ thấy, còn Lục Nghệ và Chư Tử sở dĩ phải phân làm 2 loại, chẳng những là vì Hán Nho tôn trọng loại sách kinh điển, mà cũng vì tích chất và thể tài của hai loại sách này cũng đều khác nhau.

Dưới thời Tây Hán gọi Lục Kinh : Dịch, Thơ, Thi, Lễ, Nhạc, Xuân Thu là Lục Nghệ (khác với Lục Nghệ trong sách Chu Lễ là Lễ, Nhạc, Xạ, Ngự, Thư, Số).

Thế nên trong pho Lục Nghệ lược, người ta ghi chép Lục kinh và các truyện ký như Luận ngữ, Hiếu kinh, và Tiểu Học, gồm tất cả 3 loại, nhưng 3 lo?i nầy chỉ đượïc xem như là phụ dung cho Lục Kinh mà thôi.

Trong pho Lục Kinh, chỉ có Nhạc là không có kinh sách (hay cũng có thể nói là Nhạc không có kinh sách riêng, mà chỉ phụ trong Kinh thi, hay cũng có kẻ nói Nhạc cũng có kinh sách, mà bị mất trong cuộc đốt sách dưới thời nhà Tần). Trong sách Lục Nghệ lược, chắc chắn nhứt là các phần : Dịch, Thơ, Thi, Lễ, Xuân Thu tổng cộng là 5 Kinh (Ngũ Kinh).

* Kinh Dịch lấy Quái từ, Hào từ làm kinh, do vua Văn Vương viết, (cũng có người nói Hào từ do Châu Công viết).

* Kinh Thơ do các Sử quan đời Hạ, Thương, Châu ghi chép những văn cáo được bảo tồn, truyền đến đời sau thành những sử liệu (thiên Tần thệ, thuộc thời kỳ sau cùng, đến thời Tần mục Công do Sử quan nhà Tần chép).

Phần Tụng trong Kinh Thi là những nhạc chương trong giao miếu dưới thời Châu, Thương và của nước Lỗ (thiên Thương Tụng, có người cho là tác phẩm dưới thời nhà Tống)

Về phần Phong trong Kinh Thi, đó là ca dao trong dân gian ở các nơi; về phần Nhã, thì đó là những bài thơ chê hay khen nền chánh trị đương thời.

Những phần kể trên do quan lại sưu tập, đưa đến cho quan Thái Sử phổ âm nhạc, vì thế mà cùng với phần Tụng trong Kinh Thi, do nhạc quan bảo tồn.

* Kinh Lễ có 17 thiên (tức là phần nghi lễ trong Thập tam kinh ngày nay) nguồn gốc là do Nghi chú mà ra, cũng do Lễ quan bảo tồn.

* Kinh Xuân Thu là sử nước Lỗ, do Sử quan nước Lỗ ghi chép và bảo tồn.

Vì thế, chúng ta có thể nói rằng, Ngũ Kinh đều là Quan thơ (sách của quan) đó là học thuyết của các nhà Kinh học cổ văn.

Các nhà Kinh học kim văn thì lại cho rằng Ngũ Kinh do Khổng Tử viết ra, phần Thoán truyện và Tượng truyện là do Khổng Tử thêm vô, phần Văn ngôn, Hệ từ, tuy chẳng phải tự tay Khổng Tử viết, nhưng đó cũng là của kẻ hậu học ghi thuật những lời nói của Khổng Tử, vì thế mà từ thuyết Thiên đạo đi lần đến Nhơn sự, và từ sách Bói toán, đi lần đến thành sách Triết học.

Kinh Thơ bắt đầu từ thiên Đế điển và chấm dứt ở thiên Tần thệ, toàn bộ quyển sách gồm 28 thiên.

Thời xưa, cổ thi có đến hơn 3000 thiên, có thuyết cho là Khổng Tử san định lại còn số 305 thiên. Mặc dù thuyết nầy không có gì đáng tin, nhưng chánh Nhạc là phải chánh Thi, làm cho các phần Nhã và Tụng đúng với vị trí và công dụng, đó là điều có thể tin được. Chính Khổng Tử cũng đã xác nhận điều đó (trong thiên Tử Hãn, sách Luận ngữ, Khổng Tử nói : ” Ta từ nước Vệ, trở về nước Lỗ rồi sau đó chính Nhạc, làm cho hai thiên Nhã và Tụng đúng chỗ… “)

Về phần luận về Thi, Khổng Tử cũng có những ý kiến độc đáo, như phân loại Thi thuộc về các thể : Hứng, Quan, Quần, Oán và Tư vô tà, v.v…

Về Lễ, thì Lễ quan chỉ bảo tồn được có 17 thiên, những thiên ấy thuộc về phần Sĩ Lễ, chỉ áp dụng cho các quan chức nhưng Khổng Tử dùng những điều ấy để dạy học trò.

Kinh Xuân Thu là sử nước Lỗ, Khổng Tử thêm bớt, phê phán, để làm thành những gương…những bài học, cho nên Mạnh Tử mới cho là Khổng Tử viết Kinh ấy (xem thiên Đằng văn Công trong sách Mạnh Tử).

Ngũ Kinh là sách do các quan chức thời ấy ghi chép và sưu tập, Khổng Tử sửa chữa và sắp xếp lại cho có thứ tự, vì thế ông mới bảo rằng : ” Thuật nhi bất tác ” (Thuật lại mà chẳng có viết gì) (xem trong thiên Thuật nhi sách, Luận ngữ).

Nhưng sau khi được Khổng Tử biên soạn lại, Ngũ Kinh lại có được những ý nghĩa mới và những giá trị mới, như thế là có thể nói : Khổng Tử ” thuật ” mà có ” sáng tác “…

Ngũ Kinh nguyên là Quan thơ (sách của quan lại biên soạn) còn sách của Chư Tử là sách sáng tác của tư nhân, khác hẳn với loại Quan thơ.

Khổng Tử đã san định Ngũ Kinh, lấy ” thuật ” làm sáng tác, nhưng kể cho đúng là phải nói ” thuật chớ không có sáng tác gì cả “.

Trong pho Lục Nghệ lược, có ghi chép những phần : Truyện, Ký, Thuyết, Cố sự, mặc dù đó là những trước thuật của tư nhân, nhưng đó cũng là những tác phẩm giải thích thêm Kinh, truyện cũ , cho nên cũng phải kể là ” thuật ” chớ không có ” sáng tác ” gì thêm.

Về phần sách của Chư Tử, thì mỗi người ghi chép ý kiến riêng của mình để lập thành một học thuyết riêng biệt, không cần dựa vào một tác phẩm sẵn có nào để ký thác tâm tư riêng của mình, vì thế phải gọi là sáng tác chớ không phải thuật, vì những tác phẩm ấy có những tính chất và thể tài riêng biệt khác hẳn với các loại cổ thơ. Đó là chỗ khác biệt giữa hai loại sách Lục Nghệ và Chư Tử vậy.

Tại sao các tác phẩm sáng tác ấy lại được gọi là của ông ” Tử ” này, ông ” Tử ” nọ ? Là vì thuở ấy học trò thường gọi thầy là ” Tử ” rồi thêm vào cái họ của thầy để phân biệt người này với người khác…ví dụ như Mặc Tử, Trang Tử, Mạnh Tử, Tuân Tử…v.v…

Đa số sách của Chư Tử, đều không phải do chính tay của người ấy viết mà chỉ do đệ tử hay kẻ hậu học ghi chép lại.

Ban đầu những lời ghi chép thật đơn giản, rồi sau đó lần lần được biên soạn thêm cho đầy đủ gom thành sách. Sau khi thành sách rồi, bất câu là do của ai ghi chép, chỉ noi theo những lời ấy của ai đã nói ra mà ghi tên người ấy lên đầu sách để biểu thị cuốn sách ấy nguyên do là của người ấy xướng xuất ra.

Như các sách của Trang Tử, Mặc Tử, v.v…đều do học trò ghi chép lại những lời của thầy, gom góp, sắp xếp lại thành sách và ghi lên trên tên của thầy.

Gom tất cả các loại sách ấy lại nói chung là Chư Tử vậy.

Chúng ta cũng nên tìm hiểu tại sao lúc ấy người ta dùng chữ Tử để gọi thầy. Uông Trung trong quyển Thuật học đã viết : ” Đời xưa các chức Khanh, Đại Phu đều gọi là Tử. Tử là tước ngũ đẳng… “

Gần đây, ông Chương Bính Lân trong sách Chư Tử lược khảo cũng có viết : ” Chư Tử cũng y như ngày nay chúng ta gọi là ” ông “.

Đệ tử ghi chép lời Khổng Tử, hay trước mặt thầy đều dùng chữ Tử, còn người khác khi đề cập đến Khổng Tử thì dùng từ ngữ ” Phu Tử ” (xem thiên thứ 10 trong sách Thượng luận…vấn đề nầy được phân biệt rất nghiêm minh).

Chữ ” Tử ” cũng như ngày nay chúng ta gọi ” Tiên sinh “, chữ ” Phu Tử ” cũng có nghĩa là ” Tiên sinh ấy “.

Cũng có thể vì các học giả ấy đã từng làm quan (thường là chức Tư khấu) nên mới gọi là Tử.

Khổng Tử đã từng giữ chức Tư khấu, sau đó, Mặc Tử làm Đại Phu nước Tống, Mạnh Tử làm chức Khanh ở Tề, cho nên đệ tử mới dùng chữ Tử để gọi.

Xưng hô như thế, đời nầy truyền sang đời nọ thành thói quen, cũng có khi một người nào đó chưa từng làm quan cũng được đệ tử gọi là Tử như trường hợp của Trang Tử.

Truy nguyên, chữ ” Tử ” thấy dùng đầu tiên ở môn phái Khổng Tử, rồi kế tiếp sau đó các phái khác dùng theo.

Đời sau cũng có người dùng từ ngữ Bách Gia Chư Tử, cũng đồng với ý nghĩa Chư Tử, nhưng sở dĩ dùng thêm Bách Gia là muốn nêu lên ý nghĩa số nhiều trong nền học thuật phong phú của thời đại ấy.

2. – Người mở đầu cho Chư Tử

Đệ tử gọi thầy là ” Tử ” ghi chép lời nói, việc làm, đạo đức của thầy. Sách sáng tác của tư nhân, bắt đầu từ môn phái của Khổng Tử như phần trên đã viết.

Tư nhân mở trường dạy học, tư nhân san định Quan thơ để thành tác phẩm của mình, cũng bắt đầu từ thời Khổng Tử, thành ra Khổng Tử là người mở đầu cho Giáo dục sử và Học thuật sử Trung Hoa, mà có lẽ luôn cho cả vùng Đông Phương, và cũng là người mở đầu cho Bách Gia Chư Tử thời Chu, Tần.

Trước thời Khổng Tử, chỉ có Quan học, mà chưa có thầy dạy học tư, chỉ có Quan thơ, mà chưa có sách do tư nhân trước thuật.

Trong số Chư Tử có Lão Tử đồng thời với Khổng Tử, nhưng lớn tuổi hơn Khổng Tử.

Quyển sách của Lão Tử, tương truyền ông viết ra trong khi đi ngang qua cửa ải vào miền Trung nguyên, điều nầy thấy có chép trong pho Sử Ký, ở phần Lão Tử truyện.

Học giả đời sau có kẻ cho Lão Tử là người mở đầu cho Chư Tử. Thật ra, xét kỹ, thì chuyện Lão Tử trong sách Sử Ký, có chỗ mơ hồ, không đáng tin…và Lão Tử là người như thế nào ? Đó còn là một nghi vấn.

Quyển sách của Lão Tử là do người đời sau góp nhặt, tác phẩm ấy do nhiều người và cũng trải qua một thời gian khá lâu mới hoàn thành. (Phần sau của sách này có trình bày rõ).

Hơn nữa Lão Tử cũng không có mở trường dạy học trò, nên họïc thuyết của ông không nhờ đó mà được môn đệ ghi chép lại, cũng y như tình hình của Hoàng Đế, Thần Nông, Y Doãn, Quản Trọng, sách chỉ do người đời sau lượm lặt hay nghe ngóng, truyền khẩu rồi chép lại.

Thế nên, trong Chư Tử chỉ có mình Khổng Tử là người đầu tiên mở đường cho học thuyết của Bách Gia, và quyển Luận Ngữ là quyển sách thứ nhứt đáng kể trong các tác phẩm của Chư Tử.

Tại sao trước thời Khổng Tử lại không có tư nhân viết sách và tư nhân mở trường dạy học ?

Điều nầy có thể do 2 nguyên nhân :

1) Dưới thời cổ đại văn minh vật chất chưa phát triển, giấy viết, bút mực chưa phát minh, mà sách vở chỉ mới bắt đầu có.

Lúc đó người ta dùng mai rùa, thẻ tre, có công dụng như giấy bây giờ, dùng dao khắc để thay cho viết mực. Sách là những thẻ tre có khắc chữ ghép lại, nhưng bắt đầu dùng những vật dụng ấy tự bao giờ thì cho đến ngày nay, chưa thấy sách vở nào ghi chép lại, nên không dám quyết định.

Trong thiên Đa sĩ kinh Thượng thơ có chép : ” Duy tiên nhân, nhà Ân có điển, có sách “. Chữ khắc trong mai rùa, (qui giáp) chữ ” sách ” tượng hình bó thẻ tre cột xâu (xem trong ” Ân khư thơ khế tiền biên ” quyển 5) còn chữ ” điền ” thì tượng hình hai bàn tay ôm gộp bó thẻ tre.

Chữ ” sách ” tượng hình sách vở làm bằng thẻ tre, chữ ” điển ” là chỉ sự tàng trữ sách vở.

Về văn tự trong qui giáp, một số học giả cho là văn tự dưới thời nhà Ân (1751 trước T.C.), như thế là dưới thời nhà Ân cũng đã có sách làm bằng thẻ tre. (Hình 1)

Dùng dao khắc, bôi sơn vào thành chữ, việc làm vụng về và khó khăn, xâu thanh tre thành sách phiền phức và bề bộn, cho nên tàng trữ sách đã khó khăn, mà viết ra sách lại càng khó khăn hơn, vì thế mà quan lại, chính quyền mới có được sách, còn tư nhân thì không đủ sức để làm ra sách và giữ sách.

bachgiachutua_vantuan Những chữ khắc trên xương thú và mai rùa phát hiện được ở gò nhà Ân. Đây là tài liệu về chữ viết và sách vở cổ nhứt của Trung Hoa. (Theo ” Ân khư thư khế Thanh Hoa “. Trích trong Trung Quốc Văn học sử của Trịnh chấn Đạc quyển 1 trang 28).

2) Chế độ chính trị, xã hội thời Cổ đại, giai tầng Bình dân và giai tầng Quí tộc rất cách biệt nhau.

Giai tầng Quí tộc thống trị về chính trị, trên phương diện kinh tế lại là những đại địa chủ, quan tước cha truyền con nối, điền thổ truyền từ đời nầy sang đời khác, và cũng hưởng một nền giáo dục khác biệt.

Giới Bình dân thuở ấy chỉ là nông nô của Quí tộc mà thôi. Trong quyển Đọc Thông giám luận, Vương Phù Chi đã viết ” Những quốc gia dưới thời Tam đại (Hạ, Thương, Chu) đất đai rất hẹp, chỉ bằng một huyện ngày nay mà thôi, kẻ làm quan chỉ ở trong vòng một trăm dặm, con cái của các quan cũng là quan (sĩ) mà người làm quan do cha truyền con nối thì cũng có thế điền do cha mẹ để lại “.

Lúc đó có Khanh, Đại Phu thì bây giờ cũng như thân hào ở hương lý mà thôi (làng xóm).

Đất đai cha truyền con nối, vì thế đời đời trông nom việc cày cấy, săn sóc bờ ao, và cai quản luôn số nông nô cũng đời đời cha truyền con nối làm nông nô.

Số nông nô nầy không có chút địa vị gì về phương diện kinh têá hay chính trị cả, mà cũng không có điều kiện gì để được học hành, sách vở thì chỉ nhà quan mới có, và tử đệ của lớp Quí tộc mới được đọc, lớp người Bình dân đâu có dịp nào để rờ đến quyển sách được.

Nếu số nông nô được bén mảng vào cung phủ của Quí tộc, là chỉ để phục dịch mà thôi, thế nên trong pho ” Thượng Thơ ” thiên Châu quan có viết :

” Học cổ nhập quan ” (muốn học người xưa thì phải vào nhà quan), thiên Khúc lễ trong sách Lễ ký cũng có viết : ” Học với nhà quan v.v… “

Nếu như bực thứ nhơn có được làm một việc gì dính liếu với nhà quan thì cũng chẳng khác gì lớp lao công hay tạp dịch ngày nay…Họ chỉ được học những điều hiểu biết sơ sài để làm được trách nhiệm mà thôi.

Những điều hiểu biết ấy rất nông cạn, không thể gọi là học thuật được. Ở lâu trong hoàn cảnh như thế, và chính họ, họ cũng thấy không cần phải học những điều cao thâm làm gì cho vô ích, vì thế học thuật không lan tới lớp Bình dân được.

Lớp Bình dân đã không sách vở, không học thức thì làm sao dạy người khác học, và làm sao viết sách được ?

Lớp Quí tộc có trí thức, nhưng vì phải làm việc chính nên đâu có thì giờ để dạy học trò, viết sách ; và đã là Quí tộc, họ đâu có chịu hạ mình, vì thế dù cho có thì giờ rỗi rảnh, họ cũng không bao giờ chịu tiếp xúc với giới Bình dân thành ra giới Bình dân dâu có điều kiện gần gũi với giới Quí tộc để được học hỏi.

Giới cầm quyền đã thực thi chánh lịnh một cách dễ dàng, thế nên các phép lịnh, điển chương cứ như thế mà truyền đến đời sau, và các sách vở ấy thành ra Quan thơ. Và chính giới cầm quyền, lúc ấy cũng không thấy cần thiết phải dạy thêm điều gì mới lạ để xướng minh học thuyết nào khác riêng biệt của mình.

Tình hình thời Cổ đại là như thế, cho nên chỉ có Quan thơ, mà không có sách của tư nhân trước thuật, chỉ có nền học của nhà quan mà không có thầy tư nhân dạy.

Trước đây, dưới thời nhà Thanh, Chương Học Thành đã viết : ” Từ thời Tam đại trở về trước, nền học thuật chỉ để phụng sự cho việc công, kẻ học giả làm quan, và người làm quan với thầy dạy học là một v.v…Đó là sự thật, một sự thật tất nhiên của thời ấy, chớ không thể gọi đó là một thời thạnh trị được.

Chế độ Quí tộc tồn tại, hưng thạnh và suy vi cùng đi một nhịp với chế độ phong kiến của thời ấy. Mà chế độ phong kiến là chế độ Bộ lạc của thời Thượng cổ biến thành chế độ Tù trưởng, Chư hầu.

Xét cho kỹ, các nước chư hầu của thời ấy chỉ là một hình thức biến tướng của Bộ lạc mà thôi.

Đến thời Xuân Thu (770-222 trước T.L.) các nước chư hầu nhỏ, bị các nước lớn thôn tính, và đó cũng là mở đầu cho việc tan rã của chế độ phong kiến, các nước nhỏ bị thôn tính, bị chia thành quận huyện dưới quyền cai trị của trung ương, hình thành lần lần chế độ tập quyền. Đến đời Tần Thuỷ Hoàng (221 trước T.L.) chế độ phong kiến bị chấm dứt, vì nhà Tần đã tóm thâu tất cả các nước chư hầu lớn nhỏ còn sót lại.

Tầng lớp Quí tộc suy vi, lớp Bình dân có cơ hội quật khởi, đó là diễn tiến tất nhiên của lịch sử, không một lực lượng nào có thể ngăn lại được.

Và cũng từ đó, vải lụa được lần lần thay thế cho thẻ tre trong việc ghi chép. Đây là một đặc điểm mới về văn hoá cuối thời Xuân Thu.

Trong sách Luận Ngữ có chép : ” Tử Trương viết ở dãi áo “. Mặc Tử cũng có nói : ” Viết ở thẻ tre và lụa “. Đó là những bằng chứng, vào thời ấy, người ta dùng vải lụa để viết, thay thế lần lần cho thẻ tre.

Truyền rằng người nước Tề là Tiết Tắc chế ra mực, người nước Tần là Mông Điểm chế ra bút, đều là những người dưới thời Chiến Quốc (222 trước T.L.)

Nhờ việc sáng chế bút mực, người ta khỏi phải dùng dao để khắc chữ và bôi sơn để viết lên tre hay mai rùa, và Khổng Tử đã may mắn sanh vào thời gian ấy.

Theo sách vở ghi chép thì Khổng Tử sanh trong gia đình một Quí tộc ở nước Tống, rồi dời sang nước Lỗ, và trở thành một gia đình trong giới bình dân.

Khổng Tử là người ham học, chịu khó tìm hiểu, học mà ít nhờ thầy, chỉ nhờ nỗ lực riêng của mình mà hiểu biết, cho nên mới trở thành một học giả xuất sắc.

Lúc còn nhỏ, ông sống trong giới bình dân, lớn lên có ra làm quan rồi sau đó mất địa vị chánh trị, vì thế không thực hiện được lý tưởng cứu đời của mình.

Đó là chỗ không may của Khổng Tử, mà cũng vì không được ở lâu trong chánh quyền, ông mới lo sang việc dạy học trò, viết sách, lập ra học thuyết để dẫn dắt cho đời sau.

Ông đã mở một kỷ nguyên mới cho lịch sử giáo dục và học thuật nước Trung Hoa. Ông cũng khơi nguồn cho Bách Gia Chư Tử sau này, đáng kể là một học giả đã mở đầu cho một thời đại sáng lạn của Trung Hoa.

Trong cái không may (không được làm quan lâu) Khổng Tử đã làm được một điều có thể nói là vĩ đại trong lịch sử.

Trong sách Tả truyện, đoạn Tương Công năm thứ 24 có viết : ” Bực thái thượng lập đức, kế đó là lập công và kế đó là lập ngôn ” (xây dựng học thuyết).

Lập đức, lập công, tức Trang Tử gọi là đại nghiệp của Nội Thánh, Ngoại Vương. Nếu không lập công được thì bất đắc dĩ phải viết sách, dạy người ; lập ngôn là để lại cho hậu thế được nhờ.

Khổng Tử biên soạn Kinh Thơ, củ chánh Kinh Thi, san định Kinh Lễ, là chỉ làm việc chỉnh lý lại các sách ấy. Còn việc san định Kinh Dịch, sửa Kinh Xuân Thu thì lại có công làm cho những pho sách cổ ấy có những ý nghĩa mới và có những giá trị mới, tức là đã biến Quan thơ thành ra tác phẩm của tư nhân. Với câu ” Thuật mà không sáng tác ” thật ra là lấy việc thuật làm việc sáng tác, cũng như đoạn trên đã nói.

Sự việc, và cách hành văn trong Kinh Dịch và Xuân Thu mường tượng như quyển sử nước Lỗ, nội dung của Thi, Thơ, Lễ không có gì thay đổi, vì thế đứng trên phương diện nội dung và thể tài mà xét, thì những sách kể trên là Kinh truyện chớ không phải là Chư Tử, thế nên mặc dù đó là mở đầu cho việc tư nhân sáng tác, nhưng phải liệt những tác phẩm ấy vào pho Lục Nghệ lược.

Sách Luận Ngữ là do môn đệ của Khổng Tử ghi chép lời của thầy, đầy đủ điều kiện để thành lý thuyết của một môn phái riêng biệt, và cũng nhận thấy đầu đủ tính chất, thể tài riêng biệt của học thuyết Khổng Tử ở trong sách ấy, khác hẳn với Kinh truyện.

Vì sách Luận Ngữ chỉ ghi ngôn ngữ của Khổng Tử, và có ghi kèm theo lời nói của các Đại đệ tử, cho nên mới đặt tên thành một quyển sách riêng biệt.

Đệ tử, môn nhơn ghi những lời nói của Thầy, thành một tác phẩm riêng biệt của tư nhân bắt đầu từ đó.

Kế tiếp, Mạnh Tử đã tự nguyện học theo Khổng Tử, trong sách Mạnh Tử gồm 7 thiên, những lời nói Khổng Tử cũng do đệ tử ghi chép, nên toàn bộ sách này cũng phỏng theo lề lối của Luận Ngữ.

Tính chất và thể tài của hai quyển Luận Ngữ và Mạnh Tử hoàn toàn giống nhau.

Trong pho Hán chí, Mạnh Tử được liệt kê vào phái Nho gia, trong Chư Tử lược, còn sách Luận Ngữ thì lại được ghép vào Lục Nghệ lược chỉ với ý nghĩa là muốn độc tôn Khổng Tử.

Xét trên thực tế, ghép pho Luận Ngữ vào Lục Nghệ lược thấy không thoả đáng bằng cách đặt pho sách nầy lên hàng đầu của Bách Gia Chư Tử.

Thân thế Chư Tử là bắt đầu từ Khổng Tử, còn sách Luận Ngữ cũng là pho sách mở đầu cho Chư Tử nên trong phần lược khảo về tác phẩm, chúng tôi cũng bắt đầu từ pho Luận Ngữ.

3. – Các môn phái trong bách gia chư tử

Từ Khổng Tử trở về sau, việc tư nhân dạy học, tư nhân sáng tác đã trở thành một phong trào, và nền học vấn của vua quan cũng lan lần trong dân gian.

Kẻ hiền tài, bực nhân sĩ, nhìn thấy cuộc đời thay đổi, muốn đem sở học của mình ra để cứu nguy thời thế, để dạy dỗ hướng dẫn người sau, vì thế mà phong trào học tập sôi nổi, phong trào sáng tác cũng tiến lên mạnh mẽ, sách vở lần lượt ra đời rất nhiều. Nhờ thế mà Bách Gia Chư Tử xuất hiện, hình thành một thời đại vàng son trong ngành học thuật nước Trung Hoa.

Thật ra Bách Gia Chư Tử thật có nhiều, nhưng chúng ta không thể nào biết được một cách chính xác về nhân vật và học thuyết của những nhà ấy như thế nào.

Chúng ta chỉ đành tìm hiểu được trong một phạm vi có hạn nào đó thôi, và mỗi người tùy theo khả năng và sở thích của mình mà tìm hiểu chỗ mình muốn.

Sở dĩ như thế là vì tài liệu lưu truyền cho đến ngày nay bị thất lạc rất nhiều, và lúc ấy, các Môn phái cũng nhiều và cũng phức tạp.

Về tài liệu ghi chép các Môn phái trong Bách Gia Chư Tử, trước tiên thấy có trong sách Trang Tử ở thiên Thiên hạ.

Trong thiên này, Trang Tử đã sắp ” Các kẻ sĩ của nước Trâu, Lỗ ” vào phần tổng luận, mà kẻ sĩ của Trâu, Lỗ, người đời sau gọi là Nho gia vậy.

Kế đó lại viết ” Nền đạo thuật bị phân chia ” đó là muốn nói đến Chư Tử.

Trong thiên Thiên hạ, Trang Tử đã cho rằng Khổng Tử là người mở đường cho Bách Gia Chư Tử. (Nên chú ý : thời ấy viết Trâu Lỗ chí sĩ là nói đến Khổng Tử, còn Mạnh Tử thì gọi là Lỗ Trâu, nên phân biệt rõ).

Khi bình luận Chư Tử, Trang Tử đã sắp Mặc Định và Cầm hoạt Ly vào một phái, tức gọi là Mặc gia, Tống Hình và Doãn Văn cũng làm một phái, phái nầy tiếp cận với Mặc gia. (Sách Hán chí kể Tống Tử vào phái Tiểu thuyết gia).

Trang Tử cũng sắp Doãn Văn, vào phái Danh gia, mà Lưu Hàm thì lại cho rằng Doãn Văn lại gần với Hoàng Lão hơn. Có người lại sắp Tống Hình với Doãn Văn nằm trung gian ở giữa hai phái Đạo gia và Mặc gia.

Về phần Bành Mông, Điền Biền và Thận Đáo thì sắp thành một phái, học thuyết gần với Đạo gia. (Về Bành Mông thì không thấy tài liệu nào nói rõ, theo sách Hán chí thì Đạo gia có Điền Tử, Pháp gia có Thận Tử, nhưng trong thiên Giải Tế, sách của Tuân Tử thì lại nói Thận Đáo học theo thuật của Hoàng Lão).

Huệ thi là một phái riêng tức là phái Danh gia, Quan Doãn, Lão Đam làm một phái, Trang Chu là một phái riêng, tất cả đều là Đạo gia.

Trong thiên Thiên hạ của sách Trang Tử, chỉ ghi tên người đại biểu cho từng môn phái mà không liệt kê vào hệ thống nào, sau đó mới nhận xét tính chất của các môn phái tìm chỗ tương đồng mà xếp vào các hệ phái lớn, gồm có : Nho, Đạo, Mặc, Pháp và Danh gia.

Trong thiên Phi thập nhị tử, Tuân Tử đã phân làm 6 phái : Đà Hào, Ngụy Mâu làm một phái, Trần Trọng, Sử Du làm một phái ; Mặc Địch, Tống Hình làm một phái ; Thận Đáo, Điền Biền làm một phái ; Huệ Thi, Đặng Tích làm một phái ; Tử Tư, Mạnh Kha làm một phái.

Ngụy Mâu tức là người trong sách Hán chí gọi là Ngụy Công Tử, Mâu Thuộc phái Đạo gia, còn Đặng Tích thì sách Hán chí ghép vào phái Danh gia. Tử Tư và Manh Kha thì sách Hán chí liệt vào Nho gia.

Trần Trọng tức là người trong sách Mạnh Tử gọi là Ô Lăng Trần Trọng Tử, còn Sử Du tức là người trong sách Luận Ngữ phê phán ” Sử Ngư là người chánh trực “. Trần Trọng và Sử Du là hai người nổi tiếng về đức hạnh mà không có trước thuật quyển sách nào nổi danh.

Trong thiên Phi thập nhị tử, Tuân Tử đã đề cập đến các phái, nhờ đó mà sau nầy, mới có tài liệu để phân tích sắp xếp thành hệ phái.

Tóm lại, trong tất cả Chư Tử, từ trước đến nay, ai ai cũng sắp xếp vào trong 5 hệ phái lớn mà thôi, tức là Nho gia, Đạo gia, Mặc gia, Pháp gia và Danh gia.

Các phái trong Chư Tử đều được sắp xếp vào hệ phái tức là ” Gia “. Nhưng trong số 5 hệ phái ấy, chỉ có Nho, Mặc là xuất hiện trước hơn hết.

Trong thiên Tận Tâm, Mạnh Tử có viết : ” Bỏ họ Mặc thì về họ Dương, bỏ họ Dương thì về Nho ” (Dương tức là Dương Chu không phải là tên một học phái, còn Nho và Mặc đều là tên của học phái).

Trong thiên Hiển Học, Hàn Phi có viết : ” Học thuyết nổi nhứt của thời nay là Nho và Mặc “. Như thế thì dưới thời Chiến quốc, chỉ có Mặc gia là tương đương được với Nho gia mà thôi.

Trong thiên Định pháp, Hàn Phi đã bàn đến Thương Ưởng và Thân bất Hại mà chỉ dùng chữ Định Pháp, như thế thì dường như dưới thời Chiến quốc, chưa có ai dùng đến chữ Pháp gia…

Trong phần Tự tự, sách Sử ký có dẫn lời Tư mã Đàm, luận về ý nghĩa trọng yếu của Lục gia và liệt kê ra các Âm dương gia, Nho gia, Mặc gia, Danh gia, Pháp gia và Đạo đức gia so sánh với Trang Tử và Tuân Tử thì thấy có thêm một nhà nữa là Âm dương gia.

Theo sách Hán chí, có chép sách của Âm dương gia và Tống tư Tinh tử Vĩ.

Tư mã Đàm gọi sở trường của phái Âm dương gia là ” trình bày sự thuận lợi của 4 mùa “. Sách Hán chí thì gọi sở trường của Âm dương gia là : ” Hiểu biết ngày tháng trăng sao để làm giờ cho người dùng “.

Như thế là phái Âm dương gia lấy ” lịch ” làm ngành học thuật chuyên môn của mình.

Cha con Tư mã Đàm, dưới thời Hán Võ Đế, làm quan Thái sử lịnh cha truyền con nối. Tư mã Thiên có viết : ” Chép sử về lịch, trăng sao rất gần với việc bói toán “.

Tư mã Thiên đã định ” Thái sơ lịch ” cho vua Võ Đế, đó là nền học vấn gia truyền của họ Tư mã là môn Tinh lịch của Âm dương gia.

Trong thiên Đế điển của sách Thượng thơ cũng có chép điều nầy, nhưng không có bằng chứng xác đáng gì để tin, nếu cho rằng dưới thời vua Nghiêu đã có ngành học về ” Tinh lịch ” thật là một điều đáng nghi.

Có điều mà chúng ta dám quả quyết là ” Tinh lịch ” được phát minh sớm, có lẽ trước thời Xuân Thu, đó là điều xác đáng.

Tư mã Đàm đã tăng thêm trong số hệ phái, môn Âm dương gia cũng là điều hợp lý. Đến giữa thời Tây Hán, khi chép về các phái trong Chư Tử, thấy có phần khác hơn dưới thời Chiến quốc.

Đến cuối đời Tây hán, Lư Hâm viết về Chư Tử lược trong sách Thất lược có thêm nhiều phái hơn là Tư mã Đàm.

Lưu Hâm đã thêm 4 môn phái nữa là : Tung hoành gia, Tạp gia, Nông gia và Tiểu thuyết gia. Nhưng lại cho phái Tiểu thuyết gia là ” tiểu đạo ” không đáng kể.

Lưu Hâm đã viết : ” Trong số thân gia Chư Tử, chỉ có 9 là đáng kể mà thôi “.

Trong sách Thất lược, Lưu Hâm có dùng chữ ” Lưu ” để chỉ là ” phái “, vì thế người đời sau có dùng chữ ” Lưu ” như trong câu ” Cửu Lưu tam giáo ” để chỉ 9 phái và 3 tôn giáo.

So với Tư mã Đàm thì Lưu Hâm đã phân biệt thêm nhiều phái, như thế chúng ta có thể nhận xét là vào cuối thời Tây Hán, các thuyết của môn phái có phần khác hơn các phái xuất hiện vào giữa thời Tây Hán.

Tóm lại các phái trong Chư Tử, và ai đại diện cho từng phái là do theo sự nhận xét, phân tích của người đời sau, mà sự nhận xét ấy mỗi người mỗi khác theo sự chủ quan và cách qui nạp của mình.

Vì sự nhận xét và sắp xếp không giống nhau, cho nên người đại diện cho từng phái cũng được sắp xếp theo ý chủ quan của mỗi người.

Ví như Tống Tử, trong Hán chí thì cho là gần với Hoàng Lão, mà trong sách của Trang Tử lại sắp xếp ông nầy bên cạnh Doãn Văn, còn sách Hán chí thì lại sắp Mặc Địch (Mặc gia) vào môn phái Tiểu thuyết, thật là một điều rất chủ quan.

Tên gọi các phái trong Chư Tử cũng do người đời sau định ra, chớ không phải do người đã xướng xuất ra học thuyết ấy tự đặt cho phái mình dùng để hiệu triệu người khác và phổ biến học thuyết.

Vì thế, chúng ta thấy Khổng Tử là người khai sáng ra Nho gia, nhưng không bao giờ ông dùng chữ Nho để gọi học phái của mình (Điều nên chú ý là trong thiên Ung Dã trong sách Luận Ngữ của Khổng Tử có câu : ” Khổng Tử bảo Tử Hạ, người hãy làm quân tử nho, đừng làm tiểu nhơn nho. Chữ Nho ở đây là chỉ kẻ sĩ có học thức, một chữ thường dùng lúc đó, chớ không phải nho là Nho gia “).

4. Mười môn phái chính (thập gia) trong bách gia chư tử

Những phái riêng biệt trong Chư Tử, dưới thời Chiến quốc được phân chia ra làm 5, đến cuối đời Tây Hán (206 trước T.L.) thì tăng lên đến 10.

Trong số các môn phái, chỉ có Nho gia và Mặc gia là thành lập trước hơn hết, cho đến cuối đời Tây Hán, các môn phái mới lần lần xuất hiện cho đến số 10.

Tên gọi của 10 môn phái nầy là do người đời sau đặt cho đúng với ý nghĩa của học thuyết từng môn phái :

Xin liệt kê ra sau tất cả số 10 môn phái :

1. Nho gia

Trong sách thuyết văn giải tự có viết : ” Nho là nhu ” (dịu hiền) đó là tên gọi của thuật sĩ, như vậy là chữ Nho có đến hai nghĩa ” dịu hiền ” và ” cần thiết”.

Trong sách Hán thơ, thiên Tư Mã Tương Như truyện chú có viết : ” Người có đạo thuật đều là Nho “. Lời giải thích nầy hợp với Thuyết văn giải tự. Nho là tên gọi thông thường của những học giả.

Trong sách Sử Ký, phần Mạnh Tuân liệt truyện có viết : ” Những Nho sĩ tầm thường như Trang Chu, v.v…Trang Chu vốn là Đạo gia, nhưng lại gọi là Nho sĩ, chỉ với ý học giả “.

Trong sách Luận Ngữ, Khổng Tử bảo Tử Hạ : ” Người hãy làm quân tử Nho, đừng làm tiểu nhơn Nho ” cũng với ý trên.

Thuở ấy, những người có học thức, đạo học đều được gọi là Nho, bất câu quân tử hay tiểu nhơn.

Nho là tên gọi thường của học giả, nhưng tại sao môn đệ của Khổng Tử mới được gọi là Nho gia ?

Trong sách Chu Lễ có viết : “Nho là người có đạo thuật để dạy người “. Người có học thức và đạo thuật, và lại dạy người khác gọi là Nho, như thế Nho, cũng như ngày nay ta gọi là Nhà giáo dục vậy. Đó là nghĩa nới rộng của chữ Nho.

Trước thời Khổng Tử, chỉ có Quan học, không có thầy tư nhơn, tư nhơn lập trường dạy học trò đầu tiên là Khổng Tử.

Kế đó là các học trò của ông như : Tử Hạ, Tử Du, Tăng Tử, v.v… đều có dạy học trò, cho nên đều được gọi là Nho, rồi sau đó lần lần thành thói quen và thành Nho gia, tên gọi của học phái.

Trong sách Pháp môn của Dương Hùng ở thiên Quân tử có viết : ” Người thông thiên địa gọi là Nho “.

Trong sách Luận Hoành của Vương Sung, thiên Siêu Kỳ có viết : ”  Người có thể giảng được một kinh gọi là Nho “.

2. Đạo gia

” Đạo gia ” tức là tên gọi rút ngắn của từ ngữ Đạo đức gia. Sách Hán chí gọi Đạo gia, nhưng Tư mã Đàm lại gọi là Đạo đức gia.

Đạo đức, Âm dương, Tung hoành là những học phái được gọi tên bằng hai chữ.

Sở dĩ học phái nầy được gọi là Đạo đức gia là vì quan niệm căn bản của phái nầy là đạo đức.

Trong thiên trên của sách Lão Tử có viết : ” Đức lớn dung chứa, là Đạo theo liền đó… “, trong thiên dưới cũng có viết : ” Đạo sanh đó, đức nuôi đó, vật thành hình đó, thế làm nên đó, thế cho nên vạn vật không ai không tôn đạo và quí đức. Cái tôn của đạo, cái quí của đức không gì hay bằng cứ để cho nó thường tự nhiên “.

Trong thiên Tâm thuật, Quản Tử cũng có viết : ” Đức là chỗ chứa của đạo, sự vật nhờ đó mà sanh, cho nên có đức là được tất cả “.

Nếu biết dùng cái vô vi làm đạo, kể như không chú ý mà làm đức (cứ để cho tự nhiên) giữa đạo và đức không có khoảng cách, đó là thi hành đúng với đạo đức vậy.

Lão Tử và Quản Tử, tuy do người đời sau gom góp tài liệu, lời nói lại thành sách, nhưng cũng giữ được cái tinh nghĩa của Đạo gia.

Trong thiên Thiên địa, Trang Tử có viết : ” Đức kiêm với đạo và đạo kiêm với đức ” và ” Thái sơ có và không, không và có là vô danh…bắt đầu từ một, có một mà chưa thành hình, vật nhờ đó sanh ra, đó là Đức “.

Lão Tử cũng thường nói : ” Đạo sanh một, một sanh hai, hai sanh ba, ba sanh vạn vật ” tức Trang Tử gọi cái không của Thái sơ, tuy có mà chưa thành hình, đó là bắt đầu từ một và đó là Đạo.

Đạo là đạo tự nhiên của trời, đất, là tổng nguyên lý sanh ra vạn vật. Còn Đức là vật nhờ Đạo ấy mà thành hình, cũng tức là nguyên lý sanh ra vật ấy.

Đạo là cái ” một ” sơ khởi, cho nên mới nói Đạo sanh một rồi một sanh hai, sanh ba và sanh ra vạn vật.

Vật mà sanh ra được, là nhờ có Đạo, cho nên mới nói : Vật mà nhờ đó sanh ra gọi là Đức.

Vật sanh mà Đạo gắn với liền với vật, thế cho nên mới nói Đức là ” nhà ” ở của Đạo.

Đạo là tổng nguyên lý của sự sanh ra vạn vật, còn Đức là nguyên lý riêng biệt để sanh ra vật ấy.

Đạo và Đức tuy hai mà một, cho nên mới nói ” Đức gồm trong Đạo, và Đạo gồm trong Đức “. Đạo và Đức không có khoảng cách cho nên nói Đạo và Đức là luôn luôn phải dính liền nhau.

Đức cũng là một bộ phận của Đạo cho nên mới có câu : ” Tư dung của Khổng Tử là có Đạo trong ấy rồi “. Vì thế cho nên vạn vật, không có gì mà không tôn Đạo và quí Đức !…

Cái tôn của Đạo Đức, không phải gò ép mà tự nhiên thường có. Vũ trụ luận của học phái nầy là quan niệm căn bản, thế cho nên mới gọi là Đạo đức gia, đó là chỗ tóm lược trọng yếu.

Một số người cho rằng câu đầu tiên trong thiên trên của sách Lão Tử : ” Đạo khả đạo, phi thường đạo “, và kế đó trong thiên dưới có câu : ” Thượng đức bất đức, thị dĩ hữu đức “, vì hai câu đó, nên mới đặt tên cho quyển sách của Lão Tử là Đạo đức kinh.

Lão Tử là người khai sáng phái ” Đạo gia “, tức là nhơn quyển Đạo đức kinh mà đặt ra danh hiệu đó. Hai thuyết kể trên đều không đúng.

Trong Thập Gia Chư Tử, không có ai dùng tên sách để đặt tên môn phái, tự nhiên Đạo gia cũng không thoát ra ngoài thông lệ ấy.

Hơn nữa, Lão Tử là một nhân vật truyền thuyết, chưa chắc là đã có thật.

Quyển Lão Tử là do người đời sau gom góp lại. Dưới thời Tây Hán, Lão Tử rất được tôn sùng, nhưng lại gọi chung ông với Hoàng Đế (Hoàng Lão).

Hoàng Đế là người sanh trước Lão Tử, nên không thể ghép chung tên để gọi một học phái được.

3. Mặc gia

Người khai sáng Mặc gia là Mặc Định, cho nên mới dùng họ Mặc đặt tên cho học phái gọi là Mặc gia.

Trong Chư Tử, 9 học phái khác đều không dùng họ của người khai sáng để đặt tên học phái, tại sao Mặc gia lại ở trong trường hợp khác biệt như thế ?

Thật ra, Mặc Tử không phải là họ Mặc. Gần đây, một nhà học giả là Giang Tuyền đã chứng minh điều đó trong quyển sách khảo về Chư Tử của ông, nhưng sở dĩ dùng chữ Mặc là có những ý nghĩa sau đây :

a) ” Mặc ” là một hình phạt trong ” ngũ hình ” của thời xưa, người bị hình phạt nầy bị đày đọa đưa đi làm những việc nặng nhọc.

Mặc Tử sanh ở nước Lỗ, lúc Nho gia đang toàn thịnh, ông chủ trương tiết dụng (kiệm) phi nhạc (không cần nhạc) tiết táng (giản dị trong việc chôn cất) tiết tang (giản dị trong tang lễ), đó là những chủ trương khác hẳn với thời xưa.

Ông chủ trương lao khổ, thậm chí đến mức xương không còn thịt, ống chân nhẵn không còn sợi lông vì làm việc quá nhiều.

Ông khác hẵn với các nho sĩ ăn mặc xênh xang, mũ mãng chỉnh tề, không làm việc động đến móng tay, cho nên người thời ấy xem ông như là một tên tội khổ sai.

b) Chữ Mặc cũng có nghĩa là ” mực “. Mặc Tử chủ trương chịu lao khổ, tấm thân dầm sương dãi nắng, đội nguyệt, mang sao, thân hình đen đúa, gầy ốm như cây khô, số môn đệ ông cũng đều như thế, cho nên Tuân Tử thường bảo : ” Tích Mặc ” là lão ” Mặc ốm ” để chỉ sự sống khắc khổ của Mặc Tử.

c) Chữ ” Mặc ” cũng có nghĩa là ” Mẫu mực ” (thằng mặc). Trong thiên Thiên hạ, Trang Tử luận về Mặc Tử có viết ” Lấy mẫu mực để chỉnh đốn mình “. ” Mặc Tử lúc sống không ca hát, lúc chết không tang phục, chỉ dùng quan nhỏ mà không có quách bên ngoài, đó là phép tắc của phái ấy “.

” Người đời nay theo Mặc Tử, dùng vải xấu làm y phục, ngày đêm không nghỉ, tự lao khổ, và cho rằng nếu không như thế thì không theo đúng đạo của vua Võ, và cũng không theo phái Mặc được “.

Mặc Tử đã dùng phương thức sống khổ, luôn luôn đúng theo mẫu mực, người lúc ấy nhìn thấy Mặc Tử và đồ đệ sống khác với người thường, mà chữ ” Mặc ” lại có nghĩa là bị phạt làm việc nặng nề, người ốm o gầy mòn, thế nên dùng chữ Mặc để gọi Mặc Tử với ý nghĩa châm biếm. Còn Mặc Tử với đồ dệ lại nghĩ rằng chữ Mặc có ý nghĩa là ” mẫu mực ” đủ nêu lên qui luật sanh hoạt khắc khổ của phái mình vì đó mà thừa nhận chữ ” Mặc “, vì thế mà học phái ấy được gọi là Mặc gia luôn. (Xin xem thêm Mặc Tử của Tiền Mục và trong quyển Trung quốc Triết học sử của Phùng Hữu Lan).

4. Danh gia

Công tôn Long nói : ” Danh là tên gọi của thực “. Thực là sự vật, còn danh là tên gọi của sự vật ấy, danh và thực phù hợp nhau thì là danh chánh và thực không phù hợp nhau thì danh bất chánh. Vua không ra vua, tôi không ra tôi, cha không ra cha, con không ra con (không làm tròn nhiệm vụ), thì danh và thực không phù hợp nhau.

Củ chính cái danh không đúng với thực, làm cho danh và thực phù hợp nhau đó là Chính danh. Danh và thực phù hợp nhau thì ” danh định mà thực rõ ràng “, tự nhiên danh nổi tiếng và thực thu hút được người.

Cho nên bản nghĩa của danh chỉ là cái tên của sự vật đó, là từ ngữ thực thể, nói rộng ra, phàm các từ ngữ về hình thức động tác, vị trí, tính chất, số lượng cũng đều có đại biểu cho cái thực, đó cũng gọi là danh, cũng phải cần có phù hợp với sự thật.

Điều nầy tức là trong thiên Tiểu thủ của Mặc Tử đã nói ” Lất từ trữ ý “, hay là dùng từ để biểu thị ý nghĩa.

Phàm dùng ngôn ngữ hay văn tự để biểu lộ ý thì phải dùng ” từ “, mà từ thì phải dùng cho đúng với sự thật, đó là ” Danh học “. Tính chất của học phái nầy cũng giống như thuyết ” Nhơn minh ” của nhà Phật, và ” logique ” của phương Tây.

Công tôn Long có nói : ” Công tôn Long ghét danh và thực bị rối loạn, thế cho nên muốn suy biện để chính danh và thực để thay đổi thiên hạ “. YÙ của ông là như thế nầy : ” Tôi đâu có phải là kẻ thích biện luận. Tôi chỉ muốn biện chính cái danh và thực bị rối loạn mà thôi… “, vì thế nên mới gọi học phái này là Danh gia.

Mặc Tử cũng có Kinh thuyết và Tuân Tử cũng có thiên Chính danh, như thế chúng ta thấy Danh học rất cần thiết và được nhiều học phái chú ý. Thuở ấy ” Biện sĩ ” (kẻ hay biện luận) cũng thường gọi là Danh gia, nhưng những nhà chuyên môn biện luận chỉ hay giỏi tài ăn nói mà không thấy đưa ra được học thuyết nào vững vàng.

5. Pháp gia

Hàn Phi có viết ” Phép tắc, biên vào sách vở, để ở quan phủ và ban bố ra bá tánh “. Pháp đây là chỉ Pháp luật, chánh lịnh.

Trong sách Luận Ngữ, thiên Vi chánh có ghi lời Khổng Tử : ” Dìu dắt dùng chánh, trị dùng hình, dân khỏi tội mà không biết sỉ nhục. Dìu dắt dùng đức, trị dùng lễ, thì biết sỉ nhục và thông đạt “.

Nho gia chủ trương dùng Đức, Lễ để trị (nặng về giáo dục) cho nên mới có lập luận như thế.

Còn Pháp gia thì phản đối thuyết của Nho gia, cứ chủ trương cầm Pháp luật mà trị.

Quản Tử có nói : ” Vua tôi, trên dưới, sang hèn, đều tuân theo Pháp luật, đó là đại trị “. Ông cũng nói : ” Cho nên Pháp luật là đạo cao trong thiên hạ, là điều thực dụng cho Thánh quân “.

Học phái nầy xem ra rất trọng Pháp luật, cho nên gọi là Pháp gia.

6. Âm dương gia

Sở trường của Âm dương gia là sao và lịch, trong phần trước đã có đề cập đến.

Trong thiên Tứ thời, Quản Tử có viết : ” Âm dương là cái lý lớn của trời đất “. Tất cả tinh trượng, tứ thời, đều do cái âm dương của trời đất là chủ.

Sách Sử Ký có viết : ” Dưới thời Uy và Tuyên của nước Tề, môn đệ của Trâu Tử luận trứ sự chuyển vận chung thủy của Ngũ đức “.

Trong sách Văn Truyển, Cố an Long dẫn lời văn trong Chiêu vương bi có viết : ” Ngũ đức có gì hơn : Ngu thổ, Hạ mộc, Ân kim, Châu hỏa “.

Theo thuyết Ngũ hành tương khắc, thì mộc khắc thổ, kim khắc mộc, cho nên nhà Hạ thay nhà Ngu, nhà Ân thay nhà Hạ, nhà Châu thay nhà Ân…

Nhưng thủy cũng khắc hỏa, thổ cũng khắc thủy, cho nên vận hành của Ngũ đức là hết rồi trở lại đầu, đó là luật ” Chung thủy Ngũ đức chi vận “.

Trong sách Sử Ký, thiên Mạnh Tuân liệt truyện có viết : ” Trâu Viễn dùng cái chủ vận của Ngũ đức làm sáng tỏ với Chư hầu “. Cái vận hành của Ngũ đức : kim, mộc, thủy, hỏa, thổ cũng do Âm dương làm chủ, cho nên quan sát tin âm dương là có thể biết cái vận hành Chung thủy của Ngũ đức.

Phái Âm dương lấy cái vận hành âm dương của sao, lịch và ngũ đức làm chủ, như thế chúng ta đã thấy rõ cái quan niệm căn bổn của phái ấy là âm dương rồi. Như vậy mới gọi là Âm dương gia.

7. Tung hoành gia

Từ Nam đến Bắc gọi là tung (dọc), từ Đông sang Tây gọi là hoành (ngang).

Dưới thời Chiến quốc, nước Tần ở phương Tây rất mạnh, các chánh khách thời ấy áp dụng hai sách lược ngoại giao. Tô Tần chủ trươn

0