Tính tất yếu của chính sách công nghiệp
Chính sách bao hàm ý nghĩa có sự can thiệp của Chính phủ dưới bất cứ hình thức nào. Cần phải có chính sách là vì thị trường có những khiếm khuyết nhất định: Do những thất bại của thị trường và vai trò can thiệp của Chính phủ . ...
Chính sách bao hàm ý nghĩa có sự can thiệp của Chính phủ dưới bất cứ hình thức nào. Cần phải có chính sách là vì thị trường có những khiếm khuyết nhất định:
Do những thất bại của thị trường và vai trò can thiệp của Chính phủ .
Lý thuyết phổ biến nhất lý giải cho sự can thiệp của Chính phủ vào nền kinh tế là lý thuyết về sự thất bại của thị trường. Tư tưởng trong tâm của trường phái này tập trung vào thất bại của cơ chế thị trường trong việc cân bằng giữa chi phí và lợi ích giữa cá nhân và xã hội, đồng thời cho rằng Chính phủ có thể can thiệp để khắc phục khuyết tật của thị trường.
Hàng hoá công cộng là một thất bại hay được nhắc đến nhất của cơ chế thị trường. Vì tính không ngoại trừ của hàng hoá công cộng, các cá nhân luôn có đông lực thực hiện hành vi của những người ăn theo, ảnh hưởng của vấn đề những người ăn theo là các hàng hoá công cộng sẽ được cung cấp ít hơn mức xã hội mong muốn. Vì vậy Chính phủ cần can thiệp thông qua trực tiếp cung cấp hàng hoá công cộng.
Tiếp nữa, sự tồn tại của tính kinh tế nhờ quy mô có thể là một yếu tố dẫn đến những cơ cấu thị trường cạnh tranh không hoàn hảo. Trong một cơ cấu thị trường như vậy, mức giá cung cấp sẽ cao hơn mức giá cạnh tranh hoàn hảo dẫn đến tổn thất thặng dư tiêu dùng. Phần tổn thất này được chuyển một phần vào thặng dư sản xuất dưới dạng lợi nhuận độc quyền, phần còn lại là lợi ích mất không của xã hội. Mặc dù lý thuyết “Điều tốt thứ nhì”và quan điểm cho rằng can thiệp của Chính phủ có thể là nguyên nhân của thị trường cạnh tranh không hoàn hảo, sự tồn tại của cơ cấu thị trường này vẫn là một lý do quan trọng biện minh cho vai trò của Chính phủ trong nền kinh tế thị
trường.
Xuất phát từ lý thuyết về sự thất bại của Chính phủ.
Trong thực tế, cũng như khả năng thị trường tự do có những khuyết tật, sự can thiệp của Chính phủ vào nền kinh tế cũng có thể không thành công vì bản thân Chính phủ cũng có những thát baị của nó.
Có hai yếu tố chính cản trở Chính phủ có thể đạt được mục tiêu can thiệp vào nền kinh tế.
Thứ nhất, chi phí cần thiết để Chính phủ có thể thu thập đủ và xử lý tốt các thông tin về thất bại thị trường trong nhiều trường hợp có thể còn lớn hơn cả lợi ích mà các biện pháp khắc phục khuyết tật thị trường mang lại.
Thứ hai, vì có sự xuất hiện của việc thu thập , xử lý thông tin, sự can thiệp của Chính phủ có thể lại dẫn đến những chi phí nhất định đối với xã hội, và chi phí này cũng có thể lớn hơn lợi ích mà nó mang lại.
Lý thuyết thể chế mới về sự can thiệp của Chính phủ vào nền kinh tế.
Như đã phân tích trong phần trên, can thiệp của Chính phủ để khắc phục những khuyết tật củâ thị trường sẽ dẫn đến những chi phí nhất định mà những chi phí này có thể lớn hơn cả lợi ích thu được từ sự can thiệp của Chính phủ. Tuy nhiên, điều đó không đủ để có thể kết luận rằng Chính phủ không thể can thiệp có hiệu quả vào nền kinh tế.
Lý thuyết thể chế mới cho rằng chi phí về thông tin có thể giảm thong qua những thay đổi thichs hợp trong hệ thống tổ chức của bộ náy hành chính và trong quan niệm về giá trị của các cá nhân là thành viên của bộ váy chính quyền và xã hội. Những chi phí thu thập và xử lý thông tin sẽ có thể được loại bỏ thông qua việc cho phép cạnh tranh giữa các Đảng phái và sử dụng các công cụ can thiệp thích hợp.
Ngoài ra, lý thuyết này còn cho rằng thị trường không phải là một cơ chế điều phối duy nhất đối với sự can thiệp của Chính phủ vào nền kinh tế. Thị trường,Chính phủ, các hãng, và các thể chế kinh tế khác đều có vai trò trong một cơ chế phối hợp để dưa ra các quyết định chính sách. Những người ủng hộ quan điểm này cho rằng Chính phủ có thể giải quyết vấn đề phối hợp giữa các tác nhân ở trên với chi phí thấp hơn mức chi phí phối hợp của thị trường, thông qua việc xác lập một hệ thống quyền sở hữu phù hợp, đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô, tái cấu trúc xã hội theo các nhóm, tầng lớp lớn, điều phối và định hướng đầu tư, xây dựng tự hào và bản sắc dân tộc.
Quan điểm kinh tế chính trị.
Lý thuyết thất bại thị trường biện minh cho sự can thiệp của Chính phủ dựa trên giả định cho rằng mục tiêu của Chính phủ là phải can thiệp vào thị trường, phục vụ lợi ích của xã hội.
Quan điểm kinh tế chính trị, ở một thái cực là các nhà kinh tế Marxist, ở thái cực khác là trường phái Chicago xuất phát từ những quan điểm khác.
Chính phủ có thể có một mức độ độc lập nhất định đối với đai chúng, nhất là khi không có giai cấp nào có đủ khả năng ảnh hưởng mạnh đến các quyết định chính sách. Trong tình huống này Chính phủ có thể hành động theo mục tiêu tối đa hoá nguồn thu vào ngân sách.
Theo Findlay (1990), Chính phủ có thể được coi như là một lực lượng độc lập đưa ra các quyết định không nhất thiết phải xuất phát từ lợi ích của xã hội.
Quan điểm về nhóm lợi ích coi Chính phủ như là chiếc hộp đen mà các nhóm lợi ích trong xã hội có thể đối kháng, hay liên minh với nhau để đưa ra các quyết định về chính sách. Khi một khu vực công nghiệp nào đó có tầm quan trọng đối với nền kinh tế, sức ép của nhóm lợi ích này có thể dẫn đến các quyết định về chính sách thuận lợi đối với nhóm lợi ích đó mà có thể gây phương hại đến những nhóm lợi ích khác trong xã hội.
Một số nhà kinh tế Marxist cho rằng sự tồn tại của một Nhà nước phu thuộc chặt chẽ vào phương thức tái sản xuất của xã hội, và vì vậy, Chính phủ phải hành động vì lợi ích của giai cấp đóng vai trò chủ đạo về kinh tế trong cấu trúc xã hội.
Nói tóm lại, khác với lý thuyết về thất bại của thị trường, quan điểm kinh tế chính trị cho rằngcp có thể có sự can thiệp vào nền kinh tế nhưng có thể đươc biện minh bởi những nguyên nhân xuất phát từ đặc điểm, mức độ độc lậpcủa từng hệ thống chính quyền.
Từ những lý do nói trên dẫn đến nền kinh tế nói chung và lĩnh vực công nghiệp nói riêng cần phải có một chính sách để phát triển đó là Chính sách phát triển công nghiệp.
Phân loại chính sách công nghiệp .
Bản thân nền công nghiệp, đối tượng của chính sách, là thực thể luôn luôn động. Hơn nữa, chính sách công nghiệp là cái luôn biến đổi từng giờ, từng phút với sự biến động của thời đại của xã hội và có rất nhiều loại đối tượng. Không có lý luận chung cho chính sách công nghiệp. Do vậy, phải phân loại chính sách công nghiệp theo mục đích, chủng loại, và tính chất.
Phân loại theo vai trò của Nhà nước trong sự phân công giữa Nhà nước và các doanh nghiệp.
Theo cách phân loại này, chức năng của chính sách công nghiệp hướng vào 3 mục đích chính:
- Hỗ trợ phát triển ngành: chính sách tạo khả năng đối kháng với doanh nghiệp tư nhân (chỉ đạo hay quy chế cho pjhép công nghiệp hợp tác, bổ sung hoặc hỗ trợ đối với doanh nghiệp tư nhân). Các chính sách này khác nhau ở chỗ là dựa vào pháp luật (quyề lực hay chỉ đạo hướng dẫn, …).
- Khống chế các giao dịch bất chính: Bao gồm chính sách có mục đích duy trì trật tự (chỉ đạo, ngăn cấm, cho phép) hay các chính sách có tính phán quyết hình thức (đăng ký, thông báo,…).
- Dự thảo luật: gồm chính sách tạo lập môi trường mới hay chính sách xuất phát từ thái độ thụ động tạo ra trật tự để đối phó với môi trường mới.
Phân loại theo đối tượng mục đích của chính sách.
- Các vấn đề cơ cấu công nghiệp : gồm chính sách có đối tượng là toàn bộ cơ cấu công nghiệp với chính sách có đối tượng là từng ngành (hay từng doanh nghiệp ).
Chính sách điều chỉnh ngược với các ngành suy thoái hay chính sách chấn hưng cho các ngành mới (tỷ trọng công nghệ cao trong cơ cấu công nghiệp ).
- Vấn đề thị trường .
+ Phân biệt chính sách bổ sung khắc phục các thất vại của thị trường với chính sách bổ ưung hoàn thiện hạn chế của thị trường.
+ Phân biệt chính sách điều chỉnh trật tự thị trường bị lệch lạc (tổ chức ngành sản xuất ) với chính sách điều chỉnh yếu tố bên ngoài bị lệch lạc(môi trường tự nhiên, quyền lợi người tiêu dùng).
+ Phân biệt chính sách ngay trong bản thân trật tự sẵn có với chính sách để tiến hành trật tự mới.
- Vấn đề phát triển công nghiệp có tính chiến lược .
Cần phân biệt rõ chính sách phát triển ngành có tính chiến lược (ngành xuất khẩu, điện tử …) với chính sách phát triển các ngành sản xuất cơ sở hạ tầng (sản xuất nguyên vật liệu chủ yếu, linh kiện, phụ kiện, …).
Phân biệt theo thủ pháp chính sách ( theo cách thức để thực hiện mục tiêu )
- Vấn đề hoàn thiện cơ sở hạ tầng.
+ Phân biệt chính sách hoàn thiện cơ sở hạ tầng phần cứng và chính sách hoàn thiện cơ sở hạ tầng phần mềm (môi trưowngf công nghiệp ).
+ Phân biệt chính sách phát triển cơ sở hạ tầng (như tài chính, tiền tệ, thuế…) với chính sách phát triển kỹ thuật cho phần cơ sở hạ tầng (như nghiên cứu , quy cách hoá, chế độ quyền sở hữu công nghiệp ) và cả chính sách cơ cấu công nghiệp cơ sở hạ tầng ( như cơ cấu sản xuất phụ tùng của các doanh nghiệp trong ngành cơ khí).
- Về kế hoạch triển vọng.
+ Phân biệt kế hoạch mang tính chất giáo dục, nhận thức, hay mục tiêu chính sách, hay kế hoạch điều chỉnh định hướng.
+ Phân biệt kế hoạch được xây dựng bằng ý trí của Chính phủ hoặc được xây dựng trên cơ sở của sự thoả thuận với người có lieen quan.
- Về phương pháp luận.
+ Phân biệt chính sách bất biến, chính sách tạm thời hay chính sách khẩn cấp.
+ Phân biệt chính sách có tính uy quyền (chỉ huy, cơ chế,…) với các chính sách hỗ trợ (tài trợ, cho vay vốn , chế độ thuế…) hoặc chính sách có tính hoàn thiện môi trường (như cung cấp thông tin, đưa ra quy cách, phát triển kỹ thuật,…) hay chính sách mang tính hướng đạo.
Tốm lại, có thể tổng kết chính sách phát triển công nghiệp như sau:
Chính sách nhằm ảnh hưởng tới cơ cấu của một nước. Tức là một chính sách can thiệp vào hoạt động giao dịch với nước ngoài như : ngoại thương, đầu tư trực tiếp, chính sách hỗ trợ phát triển và bảo hộ (trợ cấp thuế) chính sách điều tiết và sử dụng nguồn lực.
Các chính sách sửa chữa các thất bại của thị trường do tính không hoàn thiện của hoạt động kỹ thuật và thông tin. Tức là một chính sách khắc phục các dạng thất bại của thị trường bằng cách cung cấp thông tin chính xác, sử dụng các công cụ chính qua trợ cấp, thuế và chỉ đạo việc phân phối nguồn lực theo hướng mông muốn.
Chính sách can thiệp về mặt hành chính vào tổ chức sản xuất theo từng ngành nhằm nâng cao phúc lợi kinh tế. Cụ thẻ là chính sách nhằm trực tiếp can thiệp vào cơ cấu cạnh tranh và phân bổ nguồn lực trong các nhành sản xuất thông qua hình thức liên minh giảm giá, liên minh đầu tư thiết bị,…
Chính sách được hoạch định theo yêu cầu chính trị là củ yếu chứ không phải mang tính kinh tế. Tức là chính sách bao gồm quy chế tự chủ xuất khẩu hay hiệp định đa phương nhằm xử lý mâu thuẫn ngoại thương.
Như đã phân téch trong các phần ở trên, chính sách công nghiệp là một khái niệm rộng, phức tạp và vòn tương đối mới mẻ đối với các nhà nghiên cứu trên thế giới, nhất là trên phương diện lý thuyết.
Trong bối cảnh như vậy :
- Có nên tồn tại hay không một chính sách công nghiệp của Việt Nam.
- Nếu là có tồn tại thì chính sách công nghiệp Việt Nam có thể được mô tả như thế nào?
- Ảnh hưởng của nó đến tăng trưởng kinh tế Việt Nam (nhất là trong những năm đổi mới) như thế nào.
Trong phần này, em sẽ đi sâu tìm hiểu câu hỏi (b) trên phưong diện lý thuyết, các vấn đề còn lại là nội dung nghiên cứu của Chương II và III- Phần thực trạng và các giải pháp.
Thuật ngữ “chính sách công nghiệp” cho đến nay vẫn rất ít xuất hiện trên các pgương tiên thông tin đại chúng của Việt Nam, cũng như trong các công trình nghiên cứu của các tác giả nước. Trong khi đó, một thuật ngữ khác hay được sử dụng có liên quan đến nội dung chính sách công nghiệp là thuật ngữ “công nghiệp hoá, hiện đại hoá ”.
Xét về bản chất, thuật ngữ “công nghiệp hoá, hiện đại hoá “ ở Việt Nam bao hàm hệ thống các mục tiêu, các định hướng và hệ thống các chính sách nhằm chuyển Việt Nam từ một nước nông nghiệp thành một nước công nghiệp. Trong hệ thống các mục tiêu và định hướng của công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam, vấn đề phát triển các ngành, các khu vực, các loại hình quy mô và các thành phần kinh tế chiếm vị trí quan trọng, ở đây, những vấn đề chung được đề cập thường là:
- Cơ cấu ngành kinh tế : công nghiệp – nông nghiệp- dịch vụ , ở đây, các cơ cấu được chú ý trong thiết kế chính sách là : cơ cấu công nghiệp khai thác- công nghiệp chế biến- công nghiệp điện nước; cơ cấu trồng trọt và chăn nuôi, cơ cấu các loại hình dịch vụ .
- Cơ cấu gữa đo thị và nông thôn
- Cơ cấu giữa quy mô doanh nghiệp lớn, doanh nghiệp vừa và doanh nghiệp nhỏ.
-Cơ cấu giữa doanh nghiệp Nhà nước, doanh nghiệp ngoài quốc doanh và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Trên cơ sở các mục tiêu và định hướng phát triển công nghiệp như vậy, phải thiết lập hệ thống các chính sách được sử dụng để hỗ trợ cho phát triển công nghiệp, trong đó phải kể đến một số chính sách chính như : chính sách vốn, chính sách nguồn nhân lực, chính sách phát triển khoa học và chính sách thuế quan.
Như vậy, chính sách công nghiệp của Việt Nam có thể được hiể là tập hợp của các định hướng, chính sách, công cụ điều chỉnh đối với một số ngành công nghiệp để đạt được mục tiêu đưa Việt Nam từ một nước nông nghiệp sang một nước công nghiệp vào năm 2020. Nhiệm vụ của chính sách công nghiệp có thể thay đổi qua mỗi thưòi kỳ nhưng đều có mục tiêu chung là điều chỉnh các hoạt động cuả các khu vực công nghiệp theo chiều hướng có lợi cho sự phát triển kinh tế- xã hội của đất nước.
Nhiệm vụ này được thể hiện trên hai mặt sau :
Một là, tạo điều kiện thuân lợi cho các doanh nghiệp trong nước mở rông thị trường ra nước ngoài, tham gia mạnh mẽ vào phân công lao động quốc tế và mậu dịch quốc tế, khai thác triệt để lợi thế tuyệt đối và lợi thế so sánh của nền kinh tế trong nước.
Hai là, bảo vệ thị trường nội địa, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp trong nước đứng vững và vươn lên trong hoạt động kinh doanh quốc tế, đáp ứng cho yêu cầu tăng cường lợi ích quốc gia.
Thêm vào đó, cũng cần phải nhấn mạnh rằng cách hiểu ở các phần trên về chính sách công nghiệp là quan điểm áp dụng cho các nền kinh tế thị trường. Rất nhiều mô tả về chính sách công nghiệp đươc khái quát từ thực tế vận hành chính sách công nghiệp ở những nước như Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, là những nước có hệ thống chính trị khác với Việt Nam và hiện đang ở trình độ phát triển cao hơn Việt Nam.
Nhận định về chính sách công nghiệp Việt Nam cần phải được xẽmét trong bối cảnh Việt Nam là một nền kinh tế đang chuyển đổi sang một nền kinh tế thị trường , Chính phủ đang phải đối mặt với vấn đề cải cách khu vực doanh nghiệp Nhà nước, là một trong những trọng tâm của công cuộc cải cách kinh tế ở Việt Nam từ năm 1986 đến nay. Khu vực doanh nghiệp Nhà nước Việt Nam chủ yếu tập trung trong lĩnh vực sản xuất công nghiệp. Cải cách khu vực doanh nghiệp Nhà nước Việt Nam được thực hiện thông qua nhiều phương thức, bán doanh nghiệp, cổ phần hoá, cho thuê, khoán kinh doanh, sáp nhập, giải thể,… Vì vậy,mô tả chính sách công nghiệp của Việt Nam bên cạnh những đặc diểm chung của một chính sách công nghiệp theo lý thuyết cần phải đề cập đến những công cụ chính sách sắp xếp lại khu vực doanh nghiệp Nhà nước.
Ngoài ra, sự tham gia của Việt Nam vào AFTA, APEC, và quá trình đàm phán về khả năng gia nhập WTO với tư cách thành viên chính thức là những minh chứng mạnh mẽ đối với xu hướng tự do hoá thương mại ở Việt Nam. Xét về môi trường chính sách tự do hoá thương mại vừa khuyến khích xuất khẩu nhưng cũng không tạo ra các rào cản đối với nhập khẩu. Bối cảnh đó không cho phép Việt Nam có thể sử dụng các rào cản bảo hộ thuế quan và phi thuế quan để trọ giúp cho phát triển công nghiệp trong dài hạn.