25/05/2018, 16:12

Tiếng Việt 6 - BÀI 8: LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN “CHỮ QUỐC NGỮ” Ở NHẬT BẢN

PHẦN 2 Tiếng nói và chữ viết của dân tộc khác BÀI 8 LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN “CHỮ QUỐC NGỮ” Ở NHẬT BẢN Bài này chỉ để bạn hiểu sơ lược về “chữ quốc ngữ” Nhật Bản, không cần đi sâu vào Ngữ âm học của tiếng ...

PHẦN 2

Tiếng nói và chữ viết của dân tộc khác

BÀI 8

 LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN “CHỮ QUỐC NGỮ” Ở NHẬT BẢN

Bài này chỉ để bạn hiểu sơ lược về “chữ quốc ngữ” Nhật Bản, không cần đi sâu vào Ngữ âm học của tiếng Nhật.

Cách làm việc

Đọc nhanh lần đầu
  1. Bạn hãy đọc nhanh 1–2 lần toàn bộ văn bản.
  2. Đọc xong, bạn tự ghi câu trả lời:
    1. Nhật Bản có vị trí địa lý ở đâu?
    2. “Độ lai nhân”, “Khiển Tùy sứ”, “Khiển Đường sứ” là gì? Nhật Bản có nằm trong “vành đai ảnh hưởng” của Trung Hoa xưa không?
    3. Người Nhật Bản nói tiếng gì và ghi tiếng nói đó bằng cách gì?
Đọc vài lần sau, chậm hơn

Đọc chậm, vừa đọc bạn vừa ghi chú tóm tắt câu trả lời:

  1. Nhật Bản chịu ảnh hưởng và học hỏi ở Trung Hoa và tỏ ra rất quật cường như thế nào?
  2. Bạn nhớ gì về trào lưu văn học của nữ giới quý tộc Nhật Bản?
  3. Nhật Bản làm bộ chữ kiểu gì để dùng cho giới khoa học và bộ chữ kiểu gì cho những người dân bình thường?
Suy nghĩ, thảo luận, ghi lại thu hoạch riêng theo gợi ý sau

Vua Minh Trị của người Nhật Bản đã hành động hiện đại hóa đất nước như thế nào?

       1. Chữ quốc ngữ của Nhật Bản đã bảo đảm ghi được đầy đủ những điều học hỏi từ các nước văn minh phương Tây như thế nào?

       2. Bạn nhìn thấy chữ Nhật Bản ở những chỗ nào? Bạn có ý nghĩ gì về chữ viết đó và về tinh thần của người Nhật Bản?

Lời mở đầu

       Nhật Bản là một nước Đông Á chịu ảnh hưởng mạnh mẽ từ văn hóa, văn minh Trung Hoa, nhưng đã sớm sáng tạo và lưu giữ một nền văn hóa giàu bản sắc. Về mặt chữ viết, cũng như Hàn Quốc, Bắc Triều Tiên và Việt Nam, người Nhật đã tiếp thu chữ Hán từ Đại lục Trung Hoa. Cho đến nay, ngoài Trung Quốc, Nhật Bản là nước duy nhất còn giữ lại chữ Hán trong hệ thống chữ viết của mình. Vậy đây có phải là minh chứng cho sự bảo thủ của người Nhật không? Trong thực tế lịch sử, người Nhật đã tiếp thu, cải biến và sáng tạo ra hệ thống chữ viết riêng của mình như thế nào? Động lực nào khiến họ phải sáng tạo ra hệ thống chữ viết riêng, tức chữ Kana (được viết bằng hai chữ Hán “Giả danh”[1]) và duy trì song song với chữ Hán? Hệ thống chữ viết đó đóng vai trò như thế nào trong sự hình thành và phát triển văn hóa dân tộc Nhật Bản? Đây là những vấn đề thú vị có thể giúp chúng ta hiểu rõ hơn không chỉ tiếng Nhật mà còn cảm nhận được sâu sắc hơn tâm hồn của người Nhật cũng như nền văn hóa giàu bản sắc của Nhật Bản.

       Lịch sử hình thành và phát triển chữ quốc ngữ của Nhật Bản trải dài theo dòng thời gian với nhiều cuộc tranh luận, cải cách và sự kiện lịch sử khác nhau. Trong bài viết này, người viết chỉ đề cập đến hai thời kỳ có ý nghĩa lớn nhất đối với sự phát triển chữ viết của Nhật Bản, đó là thời Cổ đại (thế kỷ 6–11) và thời Cận đại (thế kỷ 19–20).

1.  Sự xuất hiện và phát triển của Hán tự huấn độc ở Nhật Bản trước thế kỷ 8

1.1.     Sự du nhập văn minh Trung Hoa và lan truyền chữ Hán ở Nhật Bản thời cổ đại

       Lịch sử Nhật Bản đã ghi nhận bước chân đầu tiên của những người lạ từ bên ngoài đặt lên đảo quốc là vào khoảng thế kỷ V. Những người này thường được các sử gia Nhật Bản gọi là Độ lai nhân (Torai–jin), tức những người từ miền đất khác sang Nhật Bản. Nhiều sử liệu cho thấy, phần lớn họ định cư ở vùng Kinki, tức miền Tây nước Nhật hiện nay và có đóng góp lớn lao trong việc truyền bá văn hóa, kỹ thuật đại lục, như nghề rèn, gốm, dệt, ký lục, soạn thảo các văn bản ngoại giao..., trong đó đặc biệt đáng chú ý là chữ Hán. Cho đến nay người ta đã xác nhận được chữ Hán sớm nhất xuất hiện trên quần đảo Nhật Bản là những minh văn trên gương đồng[2], hiện được lưu giữ tại Đền thờ Suda Hachiman, thuộc tỉnh Wakayama. Do ở bên trái của dòng chữ có viết “Quý Mùi niên”, nên có thể phỏng đoán đó là năm 443 hoặc 503, nhưng không rõ được người viết và những yếu tố lịch sử khác xung quanh những chữ Hán đó.

       Từ khoảng cuối thế kỷ 6, chính quyền Yamato hình thành và dần đi vào ổn định. Để tăng cường sức mạnh của mình, chính quyền này đã chú trọng đến vai trò của các Độ lai nhân trong việc xây dựng thể chế chính trị, xã hội và hướng sang văn minh Trung Hoa thông qua bán đảo Triều Tiên. Khi nhà Tùy đánh đổ nhà Hán và thống nhất Trung Hoa thì 11 năm sau đó, tức năm 600, triều đình của Thiên hoàng Suiko (tại vị từ năm 592 đến năm 628) đã cử vị sứ giả đầu tiên sang triều cống Trung Hoa và thăm dò về nền văn minh này. Đến năm 607, triều đình đã chính thức cử vị sứ giả đầu tiên tên là Ono–no–Imoko sang Trung Hoa và đồng hành với ông là các lưu học sinh đi học tập. Theo thư tịch cổ của Trung Hoa và Nhật Bản thì vào thời Tùy đã có hơn năm đoàn sứ giả được triều đình Nhật Bản cử đi. Những vị sứ giả thời kỳ này đã được gọi là Khiển Tùy sứ (Kenzuishi) để phân biệt với các sứ giả vào thời Đường sau đó (tức Khiển Đường sứ). Mục đích của triều đình gửi sứ giả cũng như lưu học sinh sang Trung Hoa thời bấy giờ là để tìm hiểu, học tập về các chế độ, thể chế chính trị, xã hội, tiếp thu văn hóa và đào tạo hiền tài. Điều này đã chứng tỏ không phải đợi đến thời cận, hiện đại mà ngay từ thế kỷ 7, triều đình phong kiến Nhật Bản đã có tầm nhìn chiến lược, chủ động học tập, tiếp thu văn hóa ngoại lai nhằm cải biến văn hóa bản địa, xây dựng đất nước hùng mạnh. Có thể nói, đây chính là phong trào “Khai hóa văn minh” đầu tiên diễn ra tại Nhật Bản, giúp Nhật Bản xây dựng nền tảng kinh tế, xã hội vững chắc ngay từ thời cổ đại mà không phải quốc gia châu Á nào cũng có thể có được.

       Không chỉ thời Tùy mà sang thời Đường, Nhật Bản cũng đã cử nhiều đoàn Khiển Đường sứ sang tìm hiểu văn minh Trung Hoa. Trong khoảng 200 năm, tức là từ năm 630, khi Inukami–no–Mitasuki, vị Khiển Đường sứ đầu tiên lên đường sang đại lục, cho đến năm 894, khi hoạt động phái cử sứ giả sang nhà Đường chính thức bị dừng lại thì đã có khoảng gần 20 đoàn sứ giả vượt biển từ quần đảo Nhật Bản sang Đại lục Trung Hoa. Họ đã mang về không chỉ những kỹ thuật tiên tiến của Trung Hoa như kỹ thuật xây dựng kiến trúc gỗ, kỹ thuật chế tạo các vật liệu xây dựng, luyện kim loại... mà còn cả những tri thức được coi là tiến bộ của thời đại bấy giờ. Đó là những hiểu biết về luật pháp, thể chế chính trị (chế độ luật lệnh[3]) và đặc biệt là Phật giáo với số lượng lớn thư tịch viết bằng chữ Hán. Ngày nay vẫn có thể thấy được điều này thông qua các thư tịch, các bộ luật cổ còn được lưu lại và sự tương đồng đến ngạc nhiên giữa kiến trúc hay cách bố trí trong kinh thành Heijo (Bình Thành) được hoàn thành vào năm 710 với các kinh thành cùng thời ở bán đảo Triều Tiên hay kinh thành Trường An của nhà Đường.

       Điều đặc biệt chú ý ở đây là sự du nhập chữ Hán thông qua những sứ giả thời Tùy, Đường và những thư tịch, trong đó có các bộ kinh Phật giáo mà họ mang về. Nếu như vào các thời kỳ sau đó ở Việt Nam, Nho giáo đóng vai trò chủ đạo trong việc đào tạo trí thức cho xã hội và nguồn nhân lực cho hệ thống quan liêu của chính quyền phong kiến, thì vào thời cổ đại của Nhật Bản, Phật giáo giữ vị trí này. Các Thiên hoàng đã ra những quy định cụ thể về chế độ học tập Phật giáo, cấp độ điệp[4] và đảm bảo cuộc sống cho những tăng ni đã có độ điệp như những “công chức” của mình bằng cách xây dựng các tự viện trực thuộc triều đình gọi là Quốc phận tự (dành cho các vị tăng) và Quốc phận ni tự (dành cho các vị ni). Từ đó, những trung tâm Phật giáo đã bắt đầu bung nở, trở thành những thế lực lớn mạnh cả về chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa. Về mặt giáo dục, đây không đơn thuần chỉ là nơi tu hành để những người xuất gia tầm cứu kinh điển Phật giáo, mà còn là một “trường học tổng hợp”, trong đó có giảng dạy cả về Nho giáo, Đạo giáo, Y học Trung Hoa... Sự phát triển của Phật giáo đã kéo theo sự nở rộ của phong trào chép và tầm cứu kinh Phật trong xã hội. Điều này đã là yếu tố quan trọng để chữ Hán có thể được truyền bá rộng rãi.

       Có thể nói, cùng với làn sóng du nhập văn minh Trung Hoa, chữ Hán đã được du nhập, truyền bá mạnh mẽ vào Nhật Bản ngay từ thời cổ đại. Từ đây đã hình thành nên loại hình chữ viết mới, trở thành quốc tự của Nhật Bản sau này.

1.2.      Sự xuất hiện các ký hiệu về cách đọc Hán văn của người Nhật

       Ngay từ sau khi chữ Hán và các thư tịch Hán văn được truyền vào Nhật Bản, người ta đã thấy có dấu hiệu của những cách đọc Hán văn theo trật tự từ của tiếng Nhật. Cách đọc này được gọi là Hán tự huấn độc (Kanji Kundoku). Trên tấm Dược sư Như Lai quang bối minh[5] ở lưng bức tượng Phật Dược sư, được đúc ở chùa Pháp Long (Houryu–ji) vào thời kỳ Thiên hoàng Suiko trị vì, đã thấy xuất hiện cách viết trật tự từ ngược lại hẳn với văn bản Hán văn thường thấy và những chữ Hán biến thể, biểu hiện kính ngữ, trợ từ, bổ ngữ, tiếp vĩ ngữ... chỉ có trong tiếng Nhật.

       Ví dụ, với những từ thuần Nhật, khi muốn sử dụng kính ngữ thì người ta phải thêm chữ お (O) viết bằng chữ Hiragana (Trường hợp “Hashi” là chiếc đũa, nhưng khi muốn chỉ đũa của đối phương mà mình tôn kính thì phải thêm chữ お (O) vào đằng trước, tức là thành “Ohashi”), hay các trợ từ đứng sau danh từ chủ ngữ thì dùng chữ は hay が...)

       Trong phần Tuyên mệnh (Senmyou) của cuốn Tục Nhật Bản ký, được cho là được biên soạn vào thế kỷ 8, người ta cũng thấy xuất hiện cách hành văn kiểu Nhật trên cơ sở sử dụng chữ Hán. Điều này có lẽ xuất phát từ lý do người ta cần phải tuyên đọc chiếu chỉ của Thiên hoàng cho thần dân hiểu. Thể hành văn này được gọi là thể Tuyên mệnh (Senmei–tai) và là thể văn rất quan trọng trong sự hình thành văn bản tiếng Nhật sau này. Đặc biệt, ngay ở câu đầu tiên của Tuyên mệnh trên, người ta đã thấy có sự xuất hiện của chữ “Chiếu” (詔). Vào thời kỳ đó, theo quy định của triều đình Trung Hoa, chỉ mệnh lệnh của Hoàng đế Trung Hoa mới được dùng chữ “Chiếu”, còn các vương hầu hay vua của các tiểu quốc khác thì chỉ được gọi là “Giáo” (教). Bản thân tiểu quốc Tân La ở bán đảo Triều Tiên lúc bấy giờ cũng không dám dùng chữ “Chiếu” mà phải đợi đến tận thế kỷ 19, thời kỳ Đại Hàn đế quốc, ấy thế nhưng ngay từ thời cổ đại, các Thiên hoàng Nhật Bản đã dùng chữ “Chiếu” để chỉ mệnh lệnh của mình và trong Chiếu chỉ đó đã dùng thể văn khác hẳn Hán văn. Điều này cho thấy ngay từ thời kỳ này, Thiên hoàng đã có ý thức rõ ràng về quốc gia, dân tộc và bản sắc dân tộc. (Một đoạn trong cuốn Tục Hoa Nghiêm kinh lược sơ san định ký chú giải kinh Hoa Nghiêm thời Nara (Hán văn và châu Á, tr.46))

       Tuy nhiên, từ thế kỷ 9 mới xuất hiện các ký hiệu để ghi lại cách đọc này. Ban đầu người ta còn đọc và ký hiệu một cách tự do theo cách riêng của mình, nhưng từ thế kỷ 10 trở đi đã hình thành nên những trường phái đọc khác nhau theo mỗi dòng họ học giả. Hơn nữa, trong mỗi tông phái Phật giáo cũng lại xuất hiện những cách đọc và ký hiệu khác nhau. Sự bung nở của Phật giáo và học thuật đã làm nảy sinh những chữ Hán biến thể, ghi lại cách đọc cũng như cách hành văn riêng của người Nhật. Từ đây đã làm xuất hiện một thể loại chữ mới trong tiếng Nhật, đó là Kana (Giả danh).

2. Sự ra đời của chữ Kana thời Heian (794–1185)

2.1.      Phong trào văn hóa quốc phong thời Heian

       Sau khi chế độ luật lệnh từ Trung Hoa được du nhập vào Nhật Bản, triều đình của các Thiên hoàng đã củng cố quyền lực chính trị, phát triển văn hóa, xã hội thì đến cuối thời Nara, tức là khoảng cuối thế kỷ 8, chế độ luật lệnh bộc lộ những hạn chế và bắt đầu đi vào thời kỳ tan rã. Nhằm loại bỏ các thế lực cũ, đặc biệt là thế lực của các tự viện Phật giáo và xây dựng uy quyền mới, vào năm 784, Thiên hoàng Kammu đã dời kinh đô từ Nara về phía Kyoto ngày nay và đặt tên là “Bình An kinh” (Heian–kyo) với hàm ý cầu mong đây sẽ trở thành miền đất bình yên, an lạc. Vì vậy, trong nghiên cứu lịch sử, người ta cũng gọi thời kỳ tồn tại của kinh thành Heian là thời Heian.

       Vào thế kỷ 9, khi nhà Đường ở đại lục suy vong thì lại chính là lúc ảnh hưởng của văn hóa Đường thể hiện mạnh mẽ nhất ở Nhật Bản. Điều này được thể hiện rõ nét ở sự nở rộ của văn hóa Phật giáo Đường với vai trò của hai nhà sư lỗi lạc Saicho (767–822) và Kukai (774–835). Cả hai ông đều là Khiển Đường sứ và sau khi về nước đã được triều đình cho xây dựng hai trung tâm Phật giáo riêng, độc lập với các tự viện trong hệ thống Phật giáo quốc gia lúc bấy giờ. Saicho thì lập Thiên thai tông và kiến thiết chùa Enryaku–ji trên núi Hieizan, thuộc tỉnh Shiga ngày nay, còn Kukai thì lập Chân ngôn tông ở chùa Kongobu–ji trên núi Koyasan, thuộc tỉnh Wakayama ngày nay. Sự phát triển của Phật giáo đã có ảnh hưởng lớn đến mọi mặt của đời sống xã hội, từ chính trị, kinh tế đến văn hóa, nghệ thuật. Và như đã nói ở trên, đây không chỉ là trung tâm Phật giáo, mà còn là cơ sở đào tạo và là nơi truyền bá văn hóa đại lục, trong đó có chữ Hán và các thể loại văn học. Ngoài giới Phật giáo, từ phong trào tầm cứu và tiếp thu tri thức về văn học và sử học của nhà Đường đã dần hình thành nên các dòng họ trí thức và các học phái khác nhau.

       Tuy nhiên, sau khi triều đình Nhật Bản ngừng hoạt động phái cử Khiển Đường sứ thì sang thế kỷ 10, một trào lưu văn hóa mới đã nở rộ ở Nhật Bản. Đó là trào lưu Văn hóa quốc phong, trong đó người ta đã kết hợp một cách khéo léo giữa các yếu tố của văn hóa Đường và tâm hồn, phong thổ, cảnh quan của Nhật Bản. Dần dần trong xã hội đã xuất hiện tâm lý coi trọng yếu tố Quốc phong hơn là Đường phong. Sự phát triển của tín ngưỡng tịnh độ[6] trong Phật giáo theo cách riêng của Nhật Bản đã ảnh hưởng lớn đến nghệ thuật kiến trúc, nghệ thuật tạo hình cũng như hội họa. Ngoài ra, nhiều thể loại văn học độc đáo, thể hiện mạnh mẽ yếu tố bản địa cũng đã ra đời vào thời kỳ này.

Chủ thể của trào lưu xây dựng Văn hóa quốc phong chính là giới quý tộc, những người đã được hưởng một nền giáo dục đầy đủ, có địa vị chính trị và dư dả về kinh tế. Đặc biệt, do kế sách của dòng họ nhiếp chính Fujiwara, một trong bốn dòng họ lớn thời bấy giờ, Thiên hoàng chỉ có thể kết hôn với con gái của dòng họ này. Hơn nữa, để tăng cường và duy trì quyền lực lâu dài, dòng họ này còn yêu cầu được nuôi các hoàng tử tại các dinh thự của mình. Bởi vậy, những người phụ nữ trong dòng họ này cũng được coi trọng không kém nam giới và họ cũng có quyền được học tập cũng như quyền thừa kế tài sản. Trong xu thế đó đã xuất hiện nhiều phụ nữ quý tộc có tri thức tham gia vào hoạt động sáng tác thi ca. Bên cạnh chữ Hán và Đường thi, Hán thi, họ đã tạo ra loại chữ mới và thể văn mới để ghi lại âm đọc cũng như thể hiện tâm cảm của mình. Đó chính là chữ Kana (Giả danh) và các thể loại thơ mà sau này được gọi là Hòa ca (Waka[7]) để phân biệt với Đường thi, Hán thi.

2.2.        Văn học nữ lưu thời Heian và sự xuất hiện của chữ Kana

       Như đã đề cập ở trên, vào thời Heian đã xuất hiện nhiều nữ tác gia xuất thân từ dòng dõi quý tộc, mà tiêu biểu phải kể đến là Murasaki Shikibu (978– 1016), Sei Shonago (966–1025)... Những nữ tác gia này đã để lại những tác phẩm văn học đồ sộ, trong đó phải kể đến tác phẩm Câu chuyện chàng công tử họ Gen được cho là hoàn thành vào năm 1004. Đây là cuốn tiểu thuyết trường thiên viết bằng thơ về những mối tình của chàng công tử Hikaru thuộc dòng họ Gen. Cuốn tiểu thuyết được tạo nên bởi 800 bài thơ Hòa ca với hơn một triệu chữ và 500 nhân vật. Đây được coi là một kiệt tác văn học đỉnh cao của Nhật Bản không chỉ bởi khả năng xây dựng cốt truyện, diễn tả tài tình tâm lý của các nhân vật, mà còn ở việc đánh dấu sự ra đời của dòng văn học nữ lưu thời Heian cũng như sự phát triển vượt bậc của văn tự, ngôn từ thuần Nhật Bản.

       Trong tác phẩm của Murasaki Shikibu và các nữ tác gia thời đó, người ta đã thấy sự xuất hiện một cách phổ biến loại chữ mới, được gọi chữ Kana (Giả danh), bao gồm 50 âm, trong đó có hệ chữ Hiragana (hay còn gọi là Chữ mềm) và hệ chữ Katakana (hay còn gọi là Chữ cứng). Hiện nay hai loại chữ viết này có số lượng (46 chữ) và âm đọc như nhau, chỉ khác nhau về hình dáng chữ (Xem Phụ lục Bảng 1 và Bảng 2). Chúng được tạo ra từ một phần của chữ Hán, nhưng khác với chữ Nôm của Việt Nam thường phức tạp hơn chữ Hán, thì chữ Kana lại giản lược hơn chữ Hán. Ví dụ chữ あ (a) được tạo từ 可 của chữ Hán 阿, chữ か (ka) được tạo từ bộ 力 của chữ 加... Điểm khác biệt cơ bản của chữ Kana so với chữ Hán là biểu âm mà không biểu nghĩa. Mỗi chữ biểu thị một âm tiết. Tuy nhiên, càng về sau chữ Kana càng không đơn thuần là thứ chữ ghi lại âm đọc chữ Hán của người Nhật, mà còn để biểu thị nhiều sắc thái, ý đồ khác nhau của chủ thể lời nói và có khi còn được dùng để dịch nghĩa chữ Hán ra tiếng Nhật. 

       Từ việc xuất hiện và phát triển chữ Kana, đã ra đời một hình thức diễn đạt trong đó có sử dụng loại chữ này cùng với chữ Hán. Đó là Furigana. Ví dụ, để chỉ một ngọn núi thì trong chữ Hán sẽ có từ “Sơn” (山), nhưng theo thổ ngữ của người Nhật từ thời cổ đại thì lại có từ “Yama” (やま). Vì vậy, người ta đã phải dùng chữ Kana để ghi âm đọc đó, nhưng có nhiều trường hợp lại mượn chữ Hán để biểu ý, nên sẽ viết chữ Kana bên cạnh hoặc trên đầu chữ Hán. Ví dụ về trường hợp từ chỉ ngọn núi thì người Nhật sẽ viết như sau 山(やま)山 (bên dưới là chữ “sơn” bằng chữ Hán, bên trên là chữ “Yama” bằng chữ Kana). Ngoài việc dùng chữ Kana để ghi lại âm đọc của những từ thuần Nhật, khi diễn đạt một câu văn người Nhật còn phải dùng chữ Kana để biểu thị các thành phần câu hoặc từ không có trong Hán văn như trợ từ, tiếp vĩ ngữ của động từ...

       Có thể nói, sự ra đời của chữ Kana là một yếu tố vô cùng quan trọng trong lịch sử hình thành chữ quốc ngữ của Nhật Bản, giúp người Nhật có thể biểu đạt suy nghĩ, tâm tư của mình một cách dễ dàng, mà không bị bó buộc vào những quy định, khuôn mẫu cứng nhắc của Hán văn.

3. Chữ Kana và sự phát triển của thể văn Furigana

3.1.      Sự phổ biến chữ Kana ở Nhật Bản thời tiền cận đại (trước năm 1868)

       Từ thời Heian trở đi, chữ Kana và thể văn Furigana đã được phổ biến trong giới quý tộc và đến thời Edo (1600–1868) thì đã được phổ cập trong cả các trường dạy cho con em thị dân và nông dân. Đặc biệt vào thời Muromachi (1392–1573), người ta đã thấy xuất hiện từ điển tra cứu những từ thông dụng, trong đó các từ được sắp xếp theo thứ tự Iroha, tức là thứ tự trong bảng chữ cái chữ Kana. Đó là cuốn từ điển Tiết dụng tập. Trong cuốn từ điển này, mỗi từ không chỉ được sắp xếp theo bảng chữ cái, mà dưới đó còn chia nhỏ thành các mục khác nhau như Thiên địa, Thời tiết, Thảo mộc... để người đọc có thể tìm theo nghĩa. Có lẽ người ta đã dùng từ điển này khi viết nhằm tìm chữ Hán ứng với những từ ngữ thường dùng hàng ngày.

       Vào mỗi thời kỳ khác nhau, cách sử dụng chữ Kana lại được điều chỉnh, bổ sung bởi những học giả và học phái khác nhau. Nếu như vào thời Heian người ta chỉ sử dụng chữ Kana để phiên âm chữ Hán hay bổ sung các thành phần câu như đã nêu trên thì càng về sau các hình thức kết hợp giữa chữ Kana và chữ Hán ngày càng trở nên phong phú. Người ta đã bắt đầu viết những câu có lẫn cả chữ Hán và chữ Kana hoặc phân biệt hẳn chức năng của chữ Hiragana và Katakana. Và dần dần chữ Kana không chỉ biểu âm, mà còn biểu ý. Nhiều trường hợp một chữ Hán ứng với hai cách đọc từ thuần Nhật trở nên, nên buộc người ta phải nghĩ ra hình thức Furigana, tức là viết chữ Kana đi kèm với chữ Hán trong văn bản để tránh cho người đọc khỏi hiểu lầm. Do đó, chữ Kana đã ngày càng trở nên phổ biến và không thể thiếu khi người ta soạn thảo văn bản.

       Trong  cuốn  Tiết  dụng  tập,  Ekirin  còn  phân  biệt  rõ  Furigana  phải  và Furigana trái cho mỗi từ viết bằng chữ Hán. Theo đó, ông đã dành khoảng không Furigana phải để viết âm đọc thuần Nhật, còn Furigana trái thì là âm đọc Hán Nhật. Ví dụ, trong trường hợp từ 左右 (âm Hán Việt là Tả hữu), thì Furigana phải là カナタコナタ (đọc là Kanatakonata, nghĩa là Phía này phía nọ), còn Furugana trái là サイウ ( đọc là Sai’u, nghĩa là Phải trái). Điều đáng chú ý ở đây là mặc dù đã phân biệt hai loại âm đọc khác nhau của chữ Hán trong tiếng Nhật, nhưng ông vẫn chỉ dùng cùng một loại chữ để ký hiệu, đó là chữ Katakana, tức chữ cứng.

Tuy nhiên, giữa thời Edo, khoảng thế kỷ 18 đã xuất hiện những cuốn tiểu thuyết truyền kỳ (trong tiếng Nhật đọc là Yomimono) và trở thành món ăn tinh thần không thể thiếu của người dân. Trong những cuốn tiểu thuyết này người ta cũng dùng cả hai hình thức phiên âm Furigana trái và Furigana phải, nhưng đã bắt đầu phân biệt không chỉ bằng hai bên trái, phải, mà bằng cả loại ký tự. Furigana trái dùng để ghi âm Hán Nhật thì người ta dùng chữ Katakana (tức chữ cứng), còn Furigana phải thì dùng chữ Hiragana (tức chữ mềm).

       Điều này cũng có nghĩa là người ta bắt đầu “phân vai” giữa chữ Katakana và Hiragana. Katakana thì để biểu thị những từ ngoại lai, còn Hiragana thì để biểu thị những từ thuần Nhật. Thời tiền cận đại, các từ ngoại lai hầu hết là để chỉ các từ có âm Hán Nhật và khi cần ghi lại âm của nhiều ngoại ngữ khác như tiếng Hà Lan, tiếng Anh, tiếng Pháp... thì xu hướng này ngày càng mạnh dần lên. Cho đến ngày nay, cách ký tự này đã được xác lập chính thức.

       Hơn nữa, nối tiếp truyền thống soạn từ điển từ các thời kỳ trước, sang thời Edo, nhiều thể loại từ điển trong đó Tiết dụng tập cũng được biên soạn bổ sung. Tuy nhiên, khác với thời kỳ trước, chữ Kana trong Tiết dụng tập lại được viết bằng chữ thảo bên cạnh chữ Hán viết theo lối chân thông thường. Ngoài Tiết dụng tập là từ điển sử dụng khi soạn thảo văn bản, thời Edo còn lưu hành nhiều loại từ điển khác, trong đó có cả các loại từ điển tra các từ sử dụng trong hội thoại thông thường. Với loại từ điển này, người ta lại thường dùng chữ Katakana (tức chữ cứng) để ghi âm. Thời đó, ngoài việc dùng chữ Kana để ghi lại âm đọc bên cạnh chữ Hán thì người ta đã nhận thức được về sự tồn tại của chữ “Quốc tự” mà âm đọc tiếng Nhật là Kanamoji. Điều này có nghĩa là chữ Kana đã được coi là ký tự để ghi lại những từ Quốc tự, tức những từ thuần Nhật. Hơn nữa, từ năm 1845, một học giả tên là Murakami Hidetoshi (1811–1890) đã cho xuất bản cuốn từ điển Tam ngữ tiện lãm, trong đó dùng chữ Katakana để ghi lại âm đọc của các từ vựng trong tiếng Pháp, Anh và Hà Lan. Có thể nói, đây là cuốn từ điển “tứ ngữ” đầu tiên của Nhật Bản. Từ đó về sau đã xuất hiện nhiều văn bản, trong đó sử dụng chữ Katanaka để ghi lại âm đọc của các từ ngoại lai.

3.2.       Những biến đổi về chữ viết ở Nhật Bản thời Minh Trị (1868–1912)

       Như đã biết, trước sức ép mở cửa của các nước phương Tây và sự phát triển của xã hội, vào năm 1868, Nhật Bản đã thực hiện cuộc chuyển giao thực quyền từ tay Mạc phủ Edo, tức chính quyền võ sĩ sang Thiên hoàng, đại diện cho triều đình phong kiến. Cuộc Minh Trị duy tân này đã mang lại cho Nhật Bản những thay đổi lớn lao về kinh tế, chính trị, xã hội. Người Nhật đã hào hứng thực hiện công cuộc khai hóa văn minh, tiếp thu văn minh phương Tây để cải biến đất nước. Nhiều đoàn sứ giả, học giả, chính trị gia đã được cử sang các nước phương Tây để du nhập văn hóa, khoa học kỹ thuật, các hệ thống quản lý chính trị, xã hội... Kết quả là khác với các nước châu Á cùng thời kỳ, Nhật Bản đã thực hiện thành công công cuộc hiện đại hóa đất nước mà không phải trải qua thời kỳ bị xâm lược bởi phương Tây như các nước châu Á khác.

       Từ các cách dùng chữ Kana thời Edo, sang thời Minh Trị, với những chuyển biến của chính trị, xã hội, khoa học kỹ thuật và làn sóng tiếp thu ngôn ngữ, văn hóa phương Tây, nhiều hình thức sử dụng chữ Kana đã ra đời.

       Trước hết, do sự phát triển của kỹ thuật in ấn và nhu cầu về truyền thông, nhiều tòa soạn báo đã ra đời ở Nhật Bản vào thời Minh Trị. Riêng về mảng báo chí, theo cách sử dụng văn tự, người ta đã chia thành hai loại chính, đó là “Tiểu tân văn”, trong đó sử dụng nhiều từ thuần Nhật và Furigana, và “Đại tân văn”, trong đó sử dụng nhiều chữ Hán và không viết Furigana. Hầu hết các văn bản pháp luật, mệnh lệnh của nhà nước được ban hành theo kiểu “Đại tân văn”, nên sau đó người ta buộc phải phát hành các văn bản trong đó có kèm theo cách đọc bằng chữ Kana để người dân có thể tiếp cận. Và cách Furigana trên các ấn phẩm như báo chí, sách vở đã bắt đầu được gọi là Ruby.

Qua các thư tịch của thời kỳ này có thể thấy, về cách ký hiệu thì khác với hiện nay, người ta chưa có cách ghi loại âm tiết có cấu tạo gồm một phụ âm đầu và hai nguyên âm, trong đó nguyên âm đứng trước là nguyên âm ngắn /ü/, nguyên âm đứng sau là một trong các nguyên âm /a/, /u/, /o/. Ví dụ, khi ghi âm しゃ( [sya]), người ta không dùng chữ [ゃ] nhỏ mà vẫn dùng chữ [や] lớn, hay như âm [ryu] thì ghi bằng hai ký tự là り [Ri] và う [u], mà không phải là り [ry] và ゅ [yu] như hiện nay. Hoặc như khi chỉ trường âm thì thời đó thường dung chữ ふ [fu] mà không phải là う [u] như hiện nay. Hay như âm [Dō] thì người ta dùng hai chữ だう [Da–u] mà  không  phải là  どう [Do–u]  như  hiện nay. Nghĩa là, bằng nhiều cách kết hợp các chữ cái Kana vốn có của Nhật Bản, người ta đã cố gắng ghi lại một cách chính xác nhất âm đọc của người Nhật, nhưng so với hiện nay cách ghi âm đó vẫn còn một khoảng cách khá xa. 

       Ngoài  ra, vào thời kỳ này, để chuyển dịch các từ vựng từ tiếng nước ngoài như Hà Lan, Pháp, Anh..., người ta thường có xu hướng dùng chữ Katakana (tức chữ cứng) để ghi lại nguyên văn âm của các từ đó.

       Với cách ký hiệu như trên, vào thời Minh Trị, người ta đã du nhập một số lượng lớn các từ ngoại lai vào Nhật Bản. Tuy nhiên, người ta còn ký hiệu một cách tự do. Mỗi học giả, mỗi trường phái và mỗi vùng miền lại có một cách sử dụng chữ Kana để ký hiệu riêng.

       Điều đặc biệt là vào thời kỳ này, khi văn minh phương Tây ồ ạt vào Nhật Bản và người ta tưởng như chữ Hán bị rơi vào lãng quên, thì với việc không chỉ dùng chữ Kana để ghi âm, mà còn dùng chữ Hán để dịch nghĩa, dịch ý, sau đó dùng thuật Ruby để biểu âm bằng chữ Kana, chữ Hán đã được sử dụng rộng rãi, thậm chí còn hơn cả thời kỳ trước đó. Nhiều chế độ, khái niệm, hiện tượng văn hóa của phương Tây đã được dịch ra tiếng Nhật bằng cách sử dụng chữ Hán đã làm cho chữ Hán ngày càng phát huy tác dụng biểu ý thâm sâu vốn có mà không bị mất đi như ở các nước Đông Á khác, cụ thể là Hàn Quốc hay Việt Nam. Thậm chí, trong các cuốn sách giáo khoa dạy tiếng nước ngoài của Nhật Bản lúc đó, người ta còn sử dụng cách đọc Hán văn để phân tích ngữ pháp cũng như trật tự từ...

       Có thể nói, Minh Trị là thời kỳ của những thử nghiệm mới trong việc sử dụng chữ viết của người Nhật. Trước làn sóng du nhập văn minh phương Tây một cách mạnh mẽ, người ta đã phải phát huy sử dụng mọi vốn văn tự sẵn có để Nhật hóa các khái niệm, các hiện tượng chính trị, văn hóa, xã hội của phương Tây. Và kết quả là với vốn văn tự phức tạp, nhưng phong phú đó, trí thức Nhật Bản thời kỳ này đã chuyển ngữ một cách hiệu quả nguồn tri thức ngoại lai, kết hợp hài hòa với nguồn tri thức vốn có và sử dụng các khoa học, kỹ thuật tiên tiến để truyền bá nhằm thực hiện thành công công cuộc khai hóa văn minh, đưa nước Nhật đi lên, sánh vai cùng các nước phương Tây.

3.3.       Hệ thống văn tự của Nhật Bản hiện nay

       Trải qua lịch sử hơn 1000 năm, cho đến nay chữ quốc ngữ của Nhật Bản đã định hình và thể hiện những bản sắc độc đáo so với các nước Đông Á khác. Hiện nay, hệ thống văn tự của Nhật Bản gồm bốn loại chữ, đó là chữ Hán (Kanji), chữ mềm (Hiragana), chữ cứng (Katakana) và chữ Latinh (Romaji). Về cơ bản, mỗi từ trong tiếng Nhật đều có thể được viết bằng một trong bốn loại văn tự trên. Ví dụ, từ “Con thỏ” trong tiếng Nhật có thể viết bằng chữ Hán là 兎, hoặc Hiragana là うさぎ, chữ Katakana là ウサギ, chữ Romaji là Usagi. Tuy nhiên, khoảng từ sau chiến tranh thế giới thứ hai đến nay, ở Nhật Bản đã hình thành những quy ước về cách sử dụng các loại chữ này như sau:

– Chữ Hán thường được dùng để chỉ những từ thực (danh từ, động từ...) hay tên riêng (địa danh, tên người...). Tuy nhiên, chữ Hán ở đây không chỉ được hiểu là những văn tự được du nhập từ Trung Quốc, mà còn bao gồm cả những chữ Hán Hòa, tức là chữ Hán do chính người Nhật tạo nên để chỉ những sự vật, hiện tượng chỉ có ở Nhật.

– Chữ Hiragana (Phụ lục, Bảng 1) thường được dùng để ghi những từ thuần Nhật không phải là thực từ (trợ từ, phó từ, liên từ...) , các thành phần của từ (tiếp đầu ngữ, tiếp vĩ ngữ...) hoặc ghi âm đọc của chữ Hán (trường hợp Furigana...)

– Chữ Katakana (Phụ lục 1) đa số được dùng để ghi lại các từ ngoại lai, nhưng khi người viết muốn dùng với một trường nghĩa khác với nghĩa thông thường hoặc với những từ mà chữ Hán quá phức tạp thì có thể dùng chữ Katakana để thay thế. Trong số từ ngoại lai thì nhiều trường hợp không phải từ nguyên gốc từ một ngoại ngữ nào đó, mà có thể là những từ do người Nhật tự tạo ra.

– Chữ Romaji (Phụ lục, Bảng 2) dùng để phiên âm tiếng Nhật bằng cách sử dụng hệ chữ cái Latinh. Loại văn tự này thường được người nước ngoài sử dụng khi học tiếng Nhật nhiều hơn là bản thân người Nhật.

       Quy ước trên được áp dụng phổ biến rộng rãi trong các phương tiện thông tin đại chúng và trong đời sống sinh hoạt hàng ngày của người dân Nhật Bản. Với những quy ước như trên, ngoài Romaji thì thường trong một câu văn trong tiếng Nhật người ta có thể sử dụng đồng thời cả ba loại chữ trên. Ví dụ như câu sau:

明日アメリカへ行きます。

       Câu trên có nghĩa là “Ngày mai tôi sẽ đi Mỹ”, trong đó từ 明日 (nghĩa là Ngày mai) được viết bằng chữ Hán, アメリカ (nghĩa là nước Mỹ) được viết bằng chữ Katakana, còn từ 行きます (nghĩa là Đi thì một nửa được viết bằng chữ Hán, một nửa được viết bằng chữ Hiragana). Vì vậy, việc hiểu biết về những quy ước trên là điều tối cần thiết khi tiếp xúc với một văn bản tiếng Nhật.

 Kết luận

       Như vậy, về cơ bản, chữ quốc ngữ của Nhật Bản hiện nay đã được hình thành vào khoảng thế kỷ 10. Trải qua quá trình lịch sử hơn 1000 năm hình thành và phát triển, chữ viết trong tiếng Nhật đã được cải biến nhiều lần với nhiều trường phái khác nhau. Trào lưu chấn hưng giáo dục, học thuật trong các thời kỳ lịch sử của Nhật Bản vừa là điều kiện vừa là chất xúc tác làm nảy sinh nhu cầu cần cải biến văn tự cũng như cách sử dụng chúng.

       Mặc dù có thể có ý kiến cho rằng, hệ chữ quốc ngữ của Nhật Bản hiện nay quá phức tạp, nhưng qua những khảo sát trên có thể thấy chúng đã được người Nhật phân biệt cách sử dụng rõ ràng và phát huy hiệu quả của chúng trong hoạt động ngôn ngữ của mình. Có thể nói, hệ thống văn tự này đã kết hợp được nhuần nhuyễn giữa văn minh phương Đông và phương Tây, giữa truyền thống và hiện đại. Chúng đã giúp cho người Nhật vừa dễ dàng trong việc tiếp thu văn hóa ngoại lai, vừa thể hiện được bản sắc, tư duy cũng như tâm tư, tình cảm sâu sắc của mình. Đây được coi là một trong những yếu tố giúp người Nhật có thể thành công trong những cuộc cải biến chính trị, xã hội lớn và hình thành nên đất nước Nhật Bản với sự song hành của nền văn hóa truyền thống đầy bản sắc và nền khoa học, kỹ thuật tiến bộ vào bậc nhất thế giới hiện nay.

Phụ lục 1. Bảng chữ cái của Nhật Bản hiện nay

Chữ Hiragana (chữ mềm)

Chữ Katakana (chữ cứng)

Phụ lục 2. Bảng chuyển tự chữ Hiragana (chữ mềm) và chữ Katakana (chữ cứng) ra chữ Romaji (tiếng Latin) theo hệ Hepburn trong tiếng Nhật hiện nay

あ (ア)

い (イ)

う (ウ)

え (エ)

お (オ)

あ (ア)

 

a

 

i

 

u

 

e

 

o

か (カ)

 

ka

 

ki

 

ku

 

ke

 

ko

 

kya

 

kyu

 

kyo

さ (サ)

 

sa

 

shi

 

su

 

se

 

so

 

sha

 

shu

 

sho

た (タ)

 

ta

 

chi

 

tsu

 

te

 

to

 

cha

 

chu

 

cho

な (ナ)

 

na

 

ni

 

nu

 

ne

 

no

 

nya

 

nyu

 

nyo

は (ハ)

 

ha

 

hi

 

fu

 

he

 

ho

 

hya

 

hyu

 

hyo

ま (マ)

 

ma

 

mi

 

mu

 

me

 

mo

 

mya

 

myu

 

myo

や (ヤ)

 

ya

 

yu

 

yo

ら (ラ)

 

ra

 

ri

 

ru

 

re

 

ro

 

rya

 

ryu

 

ryo

わ (ワ)

 

wa

ん (ン)

 

n

が (ガ)

 

ga

 

gi

 

gu

 

ge

 

go

 

gya

 

gyu

 

gyo

ざ (ザ)

 

za

 

zi

 

zu

 

ze

 

zo

 

ja

 

ju

 

jo

だ(ダ)

 

da

 

(ji)

 

de

 

(ju)

 

do

ば (バ)

 

ba

 

bi

 

bu

 

be

 

bo

 

bya

 

byu

 

byo

(パ)

 

pa

 

pi

 

pu

 

pe

 

po

 

pya

 

pyu

 

pyo

0