Thuyết minh về Lăng Bác
– Bài số 1 LẬP DÀN Ý a. Mở bài: Giới thiệu chung về lăng Bác. b. Thân bài: (sử dụng kết hợp yếu tố miêu tả, biện pháp so sánh…). Bài viết cần nêu được các ý cơ bản sau: · Ý định xây dựng lăng Bác của Đảng và Nhà nước là để Bác mãi còn với nhân dân ...
– Bài số 1
LẬP DÀN Ý
a. Mở bài:
Giới thiệu chung về lăng Bác.
b. Thân bài:
(sử dụng kết hợp yếu tố miêu tả, biện pháp so sánh…).
Bài viết cần nêu được các ý cơ bản sau:
· Ý định xây dựng lăng Bác của Đảng và Nhà nước là để Bác mãi còn với nhân dân Việt Nam.
· Quá trình khởi công và xây dựng.
– Khởi công ngày 2/9/1973.
– Địa điểm: ngay quảng trường Ba Đình nơi Người đọc Tuyên ngôn độc lập.
– Các kiến trúc sư hàng đầu của Liên Xô (cũ) và bạn bè quốc tế đã giúp đỡ nhiệt tình.
– Nhân dân trong cả nước đều hết lòng đóng góp xây dựng lăng.
– Ngày khánh thành: 21 – 8 -1976.
· Cấu tạo và kiến trúc lăng.
– Gồm 3 lớp, chiều cao 21,6 mét. Lớp dưới được tạo dáng bậc thềm tam cấp. Tiếp theo là hàng cột vuông bằng đá hoa cương. Lớp giữa có phòng đặt thi hài Bác và cầu thàng lên xuống.
– Mặt chính có dòng chữ Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh bằng đá hồng ngọc màu mận chín.
+ Đường vào lăng có 3 lối: đường Hùng Vương, đường Ngọc Hà, đường Đội Cấn.
+ Cây và hoa quanh lăng Bác được đem về từ khắp các vùng miền trên cả nước.
+ Lăng Bác trong tình cảm của người dân Việt Nam và bạn bè quốc tế: người dân Việt Nam có dịp về Hà Nội đều cố gắng đến viếng lăng Bác; đã có nhiều bài thơ hay, bài hát hay viết về lăng Bác; bạn bè quốc tế đến Việt Nam vào viếng lăng Bác với lòng ngưỡng mộ.
c. Kết bài:
Khẳng định tình cảm và ý thức giữ gìn lăng Bác.
– Bài số 2
Hà Nội là trái tim của nước Việt Nam thì quảng trường Ba Đình là trái tim của Hà Nội. Vì tại đây đã diễn ra những sự kiện trọng đại của thủ đô và cũng là của cả nước. Nơi đây vốn là khu vực Cửa Tây của thành Hà Nội cổ. Đầu thời Pháp thuộc, thực dân phá thành, làm một vườn hoa nhỏ gọi là điểm tròn Puginier. Năm 1945 mới có tên là vườn hoa Ba Đình. Địa danh Ba Đình là để gợi nhớ dải đất Ba Đình ở tỉnh Thanh Hoá nơi đã nổ ra cuộc khởi nghĩa chống Pháp kéo dài từ tháng 9/1886 đến tháng 1/1887.
Cách mạng Tháng Tám thành công, tại Quảng trường Ba Đình, Bác Hồ đã đọc Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Sự kiện đó cùng tên Quảng trường Ba Đình đã được cả thế giới biết đến.
Ngày 2/9/1945 nửa triệu nhân dân Hà Nội và phụ cận đã cuồn cuộn đổ về Quảng trường này để dự lễ Tuyên ngôn Độc Lập. Lễ đài dựng giữa quảng trường, bốn mặt hình thang phủ vải đỏ, ở giữa có hình nổi ngôi sao vàng năm cánh. Đúng 14 giờ các vị trong Chính phủ lâm thời đã có mặt trên lễ đài. Nửa triệu người hân hoan, xúc động, im phăng phắc lắng nghe tiếng nói của lãnh tụ. Bác đọc xong, Chính phủ lâm thời tuyên thệ. Ngay sau đó, Bộ trưởng bộ Nội vụ Võ Nguyên Giáp trình bày tình hình trong nước và chính sách của Chính phủ. Bộ trưởng bộ Tuyên truyền Trần Huy Liệu báo cáo công việc tước ấn kiếm tại Huế, trình với đồng bào quả ấn và thanh kiếm tượng trưng cho uy quyền của triều Nguyễn mà Bảo Đại đã nộp cho Cách mạng. Đại diện Tổng bộ Việt Minh Nguyễn Lương Bằng nói về cuộc đấu tranh của nhân dân và kêu gọi đoàn kết, đẩy mạnh quá trình Cách mạng. Sau cùng, mít tinh biến thành biểu tình tuần hành trên các đường phố.
Ngày 9/9/1969, sáu ngày sau khi Hồ Chủ Tịch qua đời, cũng tại Quảng trường này, lễ truy điệu Người đã được cử hành trọng thể. Mười vạn đồng bào Thủ đô và các địa phương cùng 34 đoàn đại biểu quốc tế đã tới đây dự lễ.
Nay, mặt chính của Quảng trường – mặt tây – là lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh. Sau hai năm xây dựng, ngày 19/8/1975 lăng khánh thành.
Lăng gồm ba lớp với chiều cao 21.6m. Lớp dưới kết cấu bậc nhiều cấp, có lễ đài dành cho đoàn chủ tịch khi mít tinh. Phần giữa là kết cấu trung tâm của lăng, gồm phòng thi hài, hành lang, cầu thang lên xuống. Phần trên là mái lăng được tạo dáng cách điệu bông sen nở. mặt chính lăng có dòng chữ “Chủ tịch Hồ Chí Minh” bằng đá hồng ngọc màu mận chín.
Lăng là nơi giữ thi hài Chủ tịch Hồ Chí Minh, Người đã đuợc UNESCO tôn vinh là Anh hùng giải phóng dân tộc, Danh nhân Văn hóa thế giới nhân kỷ niệm 100 ngày sinh (1890 – 1990).
Công trình lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh là kết quả lao động sáng tạo của nhiều nhà khoa học và công nhân hai nước Việt Nam – Liên Xô tỏ lòng tôn kính Chủ tịch Hồ Chí Minh và là sản phẩm của tình hữu nghị Việt – Xô.
Trước lăng là quảng trường với 320m chiều dài và 100m chiều rộng, đủ chỗ cho 20 vạn người dự mít tinh. Quảng trường có 168 ô cỏ bốn mùa xanh tươi, xen giữa là lối đi rộng 1,4m. Giữa quảng trường, trước lăng là cột cờ cao 25m.
Từ sau năm 1954, có một số công trình được xây dựng thêm xung quanh khu vực Quảng trường Ba Đình, bên cạnh những kiến trúc thuộc địa cũ. Đó là Hội trường Ba Đình (hoàn thành năm 1963 – công trình được phá dỡ năm 2008 để nhường chỗ cho dự án xây dựng Nhà Quốc hội mới), Bảo tàng Hồ Chí Minh (hoàn thành năm 1990), Đài tưởng niệm các Anh hùng liệt sỹ hy sinh vì Tổ Quốc (hoàn thành năm 1994). Ngoài các công trình lớn như trên, trong quần thể kiến trúc ở Quảng trường Ba Đình có một số công trình nhỏ nhưng cũng rất quan trọng và ý nghĩa như Chùa Một cột, khu vực nhà sàn Bác Hồ trong Phủ Chủ tịch. Đây chính là nơi ở và làm việc của Người, hồ cá, vườn cây, rặng dừa, những hàng rao dâm bụt… Tất cả đã đi vào thơ ca Việt Nam. Đặc biệt hơn nữa, với việc phát lộ Hoàng Thành Thăng Long ngay bên quảng trường; Ba Đình càng trở nên ý nghĩa và thiêng liêng hơn bao giờ hết.
Quảng trường Ba Đình và lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trở thành không gian thiêng liêng của Thủ đô Hà Nội và của cả nước.
– Bài số 3
Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh, hay Lăng Hồ Chủ tịch, Lăng Bác, là nơi đặt thi hài của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh được chính thức khởi công ngày 2 tháng 9 năm 1973, tại vị trí của lễ đài cũ giữa Quảng trường Ba Đình, nơi Người đã từng chủ trì các cuộc mít tinh lớn.
Lăng được khánh thành vào ngày 29 tháng 8 năm 1975. Lăng gồm 3 lớp với chiều cao 21.6 mét, lớp dưới tạo dáng bậc thềm tam cấp, lớp giữa là kết cấu trung tâm của lăng gồm phòng thi hài và những hành lang, những cầu thang lên xuống. Quanh bốn mặt là những hàng cột vuông bằng đá hoa cương, lớp trên cùng là mái lăng hình tam cấp. Ở mặt chính có dòng chữ: “Chủ tịch Hồ-Chí-Minh bằng đá hồng màu mận chín. Lăng được xây theo kiểu kiến trúc hiện thực-xã hội chủ nghĩa, lấy nguyên bản của Lăng Lênin.
Xây dựng lăng
Lăng được xây dựng trên nền cũ của toà lễ đài giữa Quảng trường Ba Đình, nơi Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trì các cuộc mít tinh lớn và đọc bản Tuyên ngôn Độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Sau khi Chủ tịch Hồ Chí Minh qua đời, nhà nước đã chính thức khởi công xây lăng vào 2 tháng 9 năm 1973. Cát được lấy từ suối Kim Bôi, tỉnh Hoà Bình do người dân tộc Mường đem về: đá cuội được chuyển từ các con suối vùng Sơn Dương, Chiên Hoá, Ngòi Thia, Tuyên Ọuang…; đá chọn xây lăng từ khắp các nơi: đá Nhồi ở Thanh Hoá, đá Hoa (Chùa Thầy), đá nhỏ núi Non Nước…; nhân dân dọc dãy Trường Sơn còn gửi ra 16 loại gỗ quí. Các loài cây từ khắp các miền được mang về đây như: cây chò nâu ở Đền Hùng, hoa ban ở Điện Biên – Lai Châu, tre từ Cao Bằng… Thanh thiếu niên còn tổ chức buổi tham gia lao động trong việc mài đá, nhổ cỏ, trồng cây. Hệ thống điện phục vụ chiếu sáng, thiết kế xây lăng và bảo quản thi hài Hồ Chí Minh do các chuyên gia Liên Xô đảm nhiệm.
Trên đinh lăng là hàng chữ “Chủ tịch Hồ Chí Minh” ghép bằng đá ngọc màu đỏ thầm. Cửa lăng làm từ các cây gỗ quý từ Tây Nguyên. Tiền sảnh có dòng chữ “Không có gì quý hơn Độc lập Tự do” và chữ ký của Chủ tịch Hồ Chí Minh được dát bằng vàng. Hai bên cửa là hai cây hoa đại. Phía trước và phía sau lăng trồng 79 cây hoa vạn tuế tượng trưng cho 79 năm trong cuộc đời của Hồ Chù tịch. Hai bên phía nam và bắc của lăng là hai rặng tre, loại cây biểu tượng cho nước Việt Nam. Trước cửa lăng luôn có hai chiến sĩ canh vệ đứng gác.
Chính giữa lăng là thi hài Chủ tịch Hồ Chí Minh đặt trong hòm kính khung bảng gỗ quý điêu khắc hoa văn các đám mây, đặt trên một bục đá. Ọua lớp kính trong suốt, thi hài Chủ tịch Hồ Chí Minh trong bộ quần áo ka ki, dưới chân có đặt một đôi dép cao su.
Lăng kính có hình vuông, mỗi cạnh 30m, cửa quay sang phía Đông, hai phía Nam và Bắc có hai lễ đài dài 65m dành cho khách trong những dịp lễ lớn. Trước lăng là Quảng trường Ba Đình với một đường dành cho lễ diễu binh, duyệt binh, và một thảm cỏ dài 380m chia thành 240 ô vuông cỏ xanh tươi suốt bốn mùa. Trước mặt lăng là cột cờ, lá Ọuốc kỳ được kéo lên vào lúc 6 giờ sáng và hạ xuống lúc 9 giờ tối hàng ngày. Thẳng tiếp qua sân cỏ là đường Bắc Sơn, có trồng hoa hồng đỏ và hoa đào. Tận cùng đường Bắc Sơn là đài Liệt Sỹ.
Bên phía tây của quảng trường là khu lưu niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh. Tại đây có Viện bảo tàng Hồ Chí Minh, ngôi nhà sàn nơi Người từng sống và làm việc. Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh thường có nhiều đoàn khách ở các tỉnh thành phố và nước ngoài đến thăm viếng.
Khách tham quan
Mỗi tuần có hơn 15.000 người đến viếng thăm Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh. Rất nhiều cá nhân và đoàn thể đến viếng lăng vào các ngày lễ, các ngày kỷ niệm quan trọng cửa đất nước. Chúng ta có thể cảm nhận được không khí trang nghiêm ở đây và cả sự tồn kính của nhân dân đối với Người khi vào lăng viếng Bác.
Hoạt động
Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh mở cửa 5 ngày một tuần, vào các buối sáng thứ ba, thứ Tư, thứ Năm, thứ Bảy và Chủ nhật. Mùa nóng từ (1-4 đến 31-10): Từ 7h30 đến 10h30; mùa lạnh (từ 1-11 đến 31-3 năm sau): Từ 8I1OO đến 11h00; ngày lễ, thứ Bảy, Chủ nhật mở cửa thêm 30 phút. Hàng năm Lăng đóng cửa để làm nhiệm vụ tu bổ định kỳ vào 2 tháng: tháng 10 và tháng 11.
Khách viếng thăm phải tuân theo những yêu cầu như ăn mặc chỉnh tề, không đem máy ảnh, tẳt máy điện thoại di động, các chất gây cháy nổ… để đảm bảo công tác an ninh và giữ trật tự trong lăng.
– Bài số 4
Lăng gồm ba lớp với chiều cao 21, 6 mét. Lớp dưới tạo dáng bậc thềm tam cấp, cấp dưới của bậc thềm là lễ đài dành cho Đoàn Chủ tịch các cuộc mít tinh tổ chức ở quảng trường. Lớp giữa là kết cấu trung tâm của lăng, gồm phòng thi hài và những hành lang, những cầu thang lên xuống. Quanh bốn mặt là những hàng cột vuông bằng đá hoa cương, nhìn từ mặt nào cũng thấy năm khoảng đều nhau gỢi nhớ ngôi nhà năm gian quen thuộc của mọi miền quê Việt Nam. Lớp trên cùng là mái lăng hình tam cấp. cấp dưới vát lên thanh thoát, hai cấp trên thẳng nét tạo mái bằng khép lại không gian đỉnh lăng, ở mặt chính lăng có dòng chữ:
Bước vào phòng ngoài, trước mặt ta óng ánh trên tường đá hoa cương màu đỏ sẫm hàng chữ vàng ‘Không có gì quí hơn độc lập tự do’. Ở dưới là dòng chữ kí quen thuộc của Bác. Lên cầu thang là tới nơi Bác yên nghỉ. Trên nền tường ốp đá trắng gắn nổi hình cờ Đảng và cờ Tổ quốc. Đài hoa – nơi đặt hòm kính thi hài Bác – được ghép bằng đá huyền đen lấp lánh. Cách bố trí lối đi từ ba phía cho phép nhiều người được vào viếng Bác cùng lúc. Qua lớp kính trong suốt, Bác như vừa ngả lưng, chợp mắt trong chốc lát. vẫn bộ quần áo ka ki bạc màu, dưới chân Bác vẫn là đôi dép cao su giản dị của Người.
Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh là biểu tượng của lòng tôn kính và biết ơn vô hạn của cả dân tộc đối với Người. Đây còn là một công trình kiến trúc có ý nghĩa chính trị và nghệ thuật lớn lao, thể hiện trí tuệ, tình cảm, tài ba và sức lực của các tầng lớp nhân dân ta. cả thiên nhiên nữa, dường như có ý dành cho ta nhiều loại đá quý nhất để xây lăng. Đá huyền đẹp Vĩnh Linh. Đá xanh màu mơ Sơn La. Đá vàng nâu đất Nghệ. Đá màu đỏ cờ xứ Thanh. Cao Bằng gửi về đá ngọc mận chín núi Piên để tạc dồng chữ Chủ tịch Hồ Chí Minh khảm trên mái lăng. Tuyên Quang cũng gửi về loại đá sỏi quý: nghìn vạn hòn như một, tròn và đều tăm tắp như hạt nhãn… Miền Nam, khi đó đang giữa cuộc chiến tranh, đã đánh vào tận sát căn cứ địch để lấy đá hoa gâm, đá mã não rồi do chính đường mòn Hồ Chí Minh gửi ra Bắc góp phần xây ngôi nhà vĩnh hằng của Người.
Chuyện gỗ cũng phong phú không kém chuyện đá. Chuyến xe đầu tiên chở gỗ quý miền Nam đến Hà Nội vào mùa xuân 1974. Gỗ lớn mấy sải tay ôm. Gỗ đinh lõi vàng vân trắng. Gỗ mun đen như than đá. Gỗ hương tía vần như ráng đỏ trời chiều. Gỗ nu có vân xoắn như lượn tơ tằm. Rồi còn gỗ của các rừng đại ngàn miền Bắc. Gỗ, đá ấy qua bàn tay và trí tuệ của công nhân, nghệ nhân, kĩ sư Việt Nam và cả chuyên gia Liên Xô nữa, đã trở thành lăng Bác Hồ, niềm tự hào chung của toàn thể dân tộc Việt Nam.
Cũng cần nói đến cây xanh quanh lăng. Hai cây đại ở hai bên cửa chính, dáng đẹp cổ kính, đơm hoa cánh trắng lòng vàng, hương ngát. Chạy dọc theo hai lễ đài phụ là hai dãy vạn tuế thân thẳng, lá tựa ô che trên ngọn. Đại và vạn tuế tượng trưng cho sự vĩnh hằng. Khép lại không gian hai phía lễ đài là hai bức lũy tre, trúc, luồng, mai ken dày, gợi nhớ tới xóm làng thân thuộc.
Sau lăng là những bồn hoa, những khóm cây tụ hội từ bốn phương đất nước. Hoa ban Tây Bắc, mai tứ quý, nguyệt quế, mai vàng của Nam Bộ, bưởi Biên Hòa, dừa Bình Định, quế Trà Mi, đào Nhật Tân, cả cây đào chiết từ gốc đào Tô Hiệu ở nhà tù Sơn La, hồng Bạch Hạc, táo Thiện Phiên và các loại hoa dâng hương tinh khiết như nhài, mộc, ngâu, dạ hương, ngọc lan v. v… với Việt Nam, lăng Bác Hồ là đài tưởng niệm lớn nhất của thế kỉ XX này.
Thanh Bình tổng hợp
Từ khóa tìm kiếm nhiều:
- thuyet minh ve lang bac
- thuyết minh về lăng chủ tịch
- dàn ý thuyết minh lăng bác hồ