21/02/2018, 09:41

Thuyết minh về tết nguyên đán

– Bài số 1 Ở các nước trên thế giới đặc biệt là những nước phương Tây có truyền thống đón năm mới từ mùng 1 tháng một dương lịch. Không khí của năm mới đã lan tràn khắp nơi ngay từ 24-25 (tức Nô-en). Nhưng thật đặc biệt,ở Việt Nam, Triều Tiên, Mông Cổ, Tây Tạng, Nepal, Butan, H'mông Trung ...

– Bài số 1

Ở các nước trên thế giới đặc biệt là những nước phương Tây có truyền thống đón năm mới từ mùng 1 tháng một dương lịch. Không khí của năm mới đã lan tràn khắp nơi ngay từ 24-25 (tức Nô-en). Nhưng thật đặc biệt,ở Việt Nam, Triều Tiên, Mông Cổ, Tây Tạng, Nepal, Butan, H'mông Trung Quốc cũng tổ chức Tết âm lịch và nghỉ lễ chính thức. Trước đây Nhật Bản cũng cử hành Tết âm lịch, nhưng từ năm Minh Trị thứ 6 (1873) họ đã chuyển sang dùng dương lịch cho các ngày lễ tương ứng trong âm lịch.

Tết Nguyên Đán là khoảng thời gian nước ta chính thức đón năm mới, còn được gọi là Tết Ta, Tết âm lịch, Tết cổ truyền hoặc Tết. Nhưng cách gọi thông dụng nhất vẫn là Tết Nguyên Đán. Nguyên tức là sơ khai, ban đầu. Đán tức là buổi sang sớm. Nếu trong một ngày buổi sớm là khởi đầu một ngày mới thì Nguyên Đán ở đây tức là khoảng thời gian giống như buổi sớm, khởi đầu một năm mới. Đón Tết là phong tục của các nước chịu ảnh hưởng từ nền văn hoá Trung Hoa. Tết đựơc đọc chệch đi từ Tiết, tức Tiết Xuân hay Xuân Tiết, Tân Niên hoặc Nông lịch tân niên. Trung Quốc (và một số nước “ngoại biên” của nền văn minh này) dùng lịch pháp theo chu kì vận hành của Mặt Trăng nên Tết luôn chậm hơn Tết dương lịch(Tết Tây). Thường thì rơi vào cuồi tháng 1 đến giữa tháng 2 dương lịch và kéo dài trong4-6 ngày. Trong tâm niệm người dân Việt, Tết mang rất nhiều ý nghĩa linh thiêng nhưng quan trọng nhất vẫn là thời gian người Việt nhớ về cội nguồn, ông bà tổ tiên. Tết cũng là sự khởi đầu mới cho những điều tốt đẹp, rũ bỏ những điều xấu của năm đã qua. Người Việt đón Tết với nhiều hoài bão, hy vọng thịnh vượng cho năm mới.

Dù ông bà ta có câu “30 chưa phải là Tết” nhưng thực tế, không khí Tết đã sớm la tràn từ 27, 28 tháng 12 âm lịch. Mọi người quan niệm rằng, Tết phải là sự khởi đầu tốt đẹp nhất, may mắn nhất để những điều lành đó sẽ theo họ đến hết cả một năm. Vì thế, cứ gần đến Tết là mọi người tất bật chuẩn bị để đón năm mới. Từ trước đây, người dân Việt luôn làm mới nhà cửa để đón Tết, họ quét lại sơn tường từ mươi ngày trước Tết. Đến bây giờ, mọi người đã không còn quét lại sơn vào dịp này như trước đây nữa nhưng laị chú ý hơn đến dọn dẹp và trang hoàng nhà cửa. Họ đi mua những vật dụng, đồ dung cần thiết mới để trưng bày trong ngày Tết.

Tết diễn ra từ ngày giáp tết đến hết mùng 5-6 âm lịch. Trước đây ngừơi ta có quan niệm “ăn Tết”- là khoảng thời gian được ăn uống no đủ, gia đình quây quần, hạnh phúc – Tết kéo dài đến tận mùng 8-9 nhưng ngày nay do đời sống kinh tế bận rộn nên Tết chỉ kéo dài đến mùng 5 và quan niệm thời nay từ “ăn Tết” đã chuyển sang “chơi” Tết vì đới sống đã no đủ, khấm khá rất nhiều so với trước. Tết Nguyên Đán chia làm ba giai đoạn. Đầu tiên là thời gian giáp Tết, thường từ 23 tháng Chạp (ngày ông câu ông Táo). Gần đến Tết, mọi đơn vị đều được nghỉ làm, học sinh đựơc nghỉ từ 27-28 âm lịch. Tiếp theo là ngày 30 hay còn gọi là Tất Niên. Ngày này mọi người tảo mộ ông bà hay những người thân trong gia đình đã khuất. Quan trọng nhất, vào tối 30, mọi người đều chuẩn bị đón giao thừa – thời khắc đặc biệt chuyển từ năm cũ sang năm mới – đón một khởi đầu mới. Từ xưa, phong tục của người dân Việt là đêm Tất Niên phải ở nhà làm mâm cơm cúng trời đất, ông bà tổ tiên và có tục lệ xông đất-tức người đầu tiên bước vào nhà sau 12 giờ đêm sẽ là người mang lại may mắn hay xui xẻo cho năm sau. Nhưng ngày nay, tục lệ đó đã phần nào bị lu mờ. Mọi người thường ra ngoài đón giao thừa:ở công viên hay nơi công cộng có thể ngăm pháo hoa rõ nhất. Quan niệm người xông đất cũng đã không còn nguyên vẹn. Theo tục xưa người xông đất phải là người không ở trong gia đình nhưng ngày nay khi người ta đi chơi đêm tất niên về đều tự coi là xông đất cho nhà mình. Ngày mùng 1 là ngày đầu tiên của năm mới, là ngày bắt đầu dịp lễ cổ truyền long trọng nhất của người Việt. Đây là dịp hội hè,vui chơi và là thời điểm cho những người tha hương tìm về với quê hương, gia đình, tưởng nhớ tổ tiên. Tết đến, mọi người kiêng kị nóng giận, cãi cọ, quét nhà sợ mang lại điềm gở, mất tài mất lộc vào năm mới. Đây là dịp để mọi người tha thứ, hàn gắn, chuộc lỗi cho những điều không may đã xảy ra vào năm cũ. Trẻ em thì được lì xì phong bao đỏ để lấy hên. Trong ngày Tết, gam đỏ chiếm màu chủ đạo vì theo quan niệm,màu đỏ đem lại điềm lành, sự may mắnháo đỏ, câu đồi đỏ, tranh Tết……tất cả đều có sắc đỏ.

“Thịt mỡ, dưa hành, câu đối đỏ
Cây nêu, tràng pháo, bánh trưng xanh”

Nhắc đển Tết không thể không nhắc đến giò, chả, vây bong, thịt mỡ, dưa hành và đặc biệt là bánh trưng xanh: biểu tượng đặc trưng Tết Việt, không thể thiếu. Bánh trưng xanh vuông vắn biểu tượng cho trời đất đang độ vào xuân, tràn đấy sức sống. Kế đến là mồng 2 – tức Tết ngoại. Ngày này mọi người thường về quê ngoại thăm ông bà họ hang bên đấy. Mồng 3 là Tết nội-ngày mọi người về quê nội thăm hỏi đằng nội. Đấy là trên lí thuyết, còn ngày nay mọi người cũng không còn phân biệt Tết nội-ngoại mà thăm hỏi luôn vào cùng ngày mùng 1.Nhưng dù có đón Tết theo cách cổ truyền hay như hiện nay thì ý nghĩa của ngày Tết đều không thay đổi.

Đón Tết từ xưa đến nay vốn là nét đẹp của dân tộc, dù là người dân xa xứ hay người đang sống trên đất nước Việt Nam thì cứ đến ngày Tết là tất cả đều hướng về chào đón. Ngay cả những du khách nước ngoài khi du lịch tại Việt Nam cũng rất thích thú khi tham gia cách đón năm mới của Việt Nam. Vậy tại sao là những người con Việt chúng ta lại không góp phần bảo vệ và duy trì nét đẹp truyền thống này chứ?

– Bài số 2

Cứ mỗi mùa xuân về, bao trái tim con người lại háo hức đón chờ. Tết cổ truyền từ lâu đã trở thành một phần không thể thiếu trong văn hóa Việt. Nó không chỉ là ngày chào mừng năm mới mà còn là dịp để con người xum họp. Vì vậy không chỉ Việt Nam mới có ngày Tết mà nó còn được phổ biến rộng rãi ở một số nước thuộc châu Á.

Tết Nguyên đán (hay còn gọi là Tết Cả, Tết Ta, Tết Âm lịch, Tết Cổ truyền, năm mới hay chỉ đơn giản Tết) là dịp lễ quan trọng nhất trong văn hóa của người Việt Nam và một số các dân tộc chịu ảnh hưởng văn hóa Trung Quốc khác. Vì Trung Quốc và một số nước chịu ảnh hưởng văn hóa Trung Quốc dùng lịch pháp theo chu kỳ vận hành của mặt trăng nên Tết Nguyên Đán muộn hơn Tết Dương lịch (còn gọi nôm na là Tết Tây). Do quy luật 3 năm nhuận một tháng của Âm lịch nên ngày đầu năm của dịp Tết Nguyên đán không bao giờ trước ngày 21 tháng 1 Dương lịch và sau ngày 19 tháng 2 Dương lịch mà thường rơi vào khoảng cuối tháng 1 đến giữa tháng 2 Dương lịch. Toàn bộ dịp Tết Nguyên đán hàng năm thường kéo dài trong khoảng 7 đến 8 ngày cuối năm cũ và 7 ngày đầu năm mới (23 tháng Chạp đến hết ngày 7 tháng Giêng).

Người Việt tin rằng vào ngày Tết mọi thứ đều phải mới, phải đổi khác, từ ngoại vật cho đến lòng người, vì vậy khoảng mươi ngày trước Tết họ thường sơn, quét vôi nhà cửa lại. Họ cũng tất bật đi sắm sửa quần áo mới để mặc trong dịp này. Trong những ngày Tết họ kiêng cữ không nóng giận, cãi cọ. Tết là dịp để mọi người hàn gắn những hiềm khích đã qua và là dịp để chuộc lỗi. Mọi người đi thăm viếng nhau và chúc nhau những lời đầy ý nghĩa. Trẻ em sau khi chúc Tết người lớn còn được lì xì bằng một phong bì đỏ thắm có đựng ít tiền dành cho chúng tiêu xài ngày Tết. Tết ở 3 miền Bắc, Trung, Nam ở Việt Nam cũng có những điều khác nhau.

Phong tục của ngày tết cổ truyền ở Việt Nam vô cùng phong phú. Nào là chúc Tết, lì xì, bày mâm ngũ quả, trồng cây nêu, gói bánh chưng, treo câu đố,….Tất cả tạo thành nét đẹp văn hóa ngày tết của người Việt.

Để trang hoàng nhà cửa và để thưởng Xuân, trước đây từ các nho học cho tới những người bình dân “tồn cổ” vẫn còn trọng tục treo “câu đối đỏ” nhân ngày Tết. Những câu đối này được viết bằng chữ Nho (màu đen hay vàng) trên những tấm giấy đỏ hay hồng đào cho nên còn được gọi là câu đối đỏ.

Bản thân chữ “câu đối đỏ” cũng xuất hiện trong câu đối Tết sau:

Thịt mỡ, dưa hành, câu đối đỏ
Cây nêu, tràng pháo, bánh chưng xanh.

Câu đối thuộc thể loại văn biền ngẫu, gồm hai vế đối nhau nhằm biểu thị một ý chí, quan điểm, tình cảm của tác giả trước một hiện tượng, một sự việc nào đó trong đời sống xã hội. Nên lưu ý là từ đối ở đây có nghĩa là ngang nhau, hợp nhau thành một đôi. Câu đối là một trong những thể loại của Văn học Trung Quốc và Việt Nam.

Câu đối có nguồn gốc từ người Trung Quốc. Người Trung Quốc gọi câu đối là đối liên nhưng tên gọi xưa của nó là đào phù.

Câu đối được xem là tinh hoa của văn hóa chữ Hán, người Trung Quốc quan niệm: “nếu thơ văn là tinh hoa của chữ nghĩa thì câu đối là tinh hoa của tinh hoa”.

Đối liên có lịch sử ra đời cách đây khoảng 3000 năm, nhưng theo Tống sử Thục thế gia, câu đối đầu tiên được ghi lại do chính chúa nhà Hậu Thục (934-965) là Mạnh Sưởng viết trên tấm gỗ đào vào năm 959

Khi viết câu đối, nếu chọn được câu chữ tuân theo nguyên tắc sau thì đôi câu đối được gọi là chỉnh đối hay đối cân.

Ngày Tết thiếu câu đối Tết là chưa đủ Tết. Trong nhà dù tranh hoàng thế nào mà thiếu câu đối đỏ, Tết vẫn phảng phất thiếu một cái gì đó thiêng liêng. Câu đối xưa được viết bằng chữ Hán, chữ Nôm bởi những người có học hành, chữ nghĩa giỏi mà dân gian gọi là Ông Đồ nhưng ngày nay thì câu đối tết còn được viết bằng chữ quốc ngữ với những nội dung phong phú và rất đẹp. Làm câu đối, thách họa đối, chơi câu đối,…vốm là hinh thức sinh hoạt độc đáo và tao nhã của người Việt Nam. Nó thể hiện trí thông minh sắc sảo, cách sử sự linh động và cao thượng, thế giới quan lành mạnh cũng như những monh ước tốt đẹp trong cuộc sống thường ngày.

Tết đến, câu đối lại càng khó có thể thiếu trong niềm vui đón chào năm mới của mỗi gia đình.

Ngày xưa, câu đối thường treo lên cột, khắc trên khung mái, hoặc viết lên cổng, cửa, tường nhà, đền miếu, đình chùa… Đặc biệt, hai hàng cột gỗ hai bên bàn thờ phải treo câu đối, còn phía trên bàn thờ là hoành phi, cuốn thư. Tất cả làm cho không gian thờ cúng trở nên cân bằng vuông vức như có khuôn phép, tạo cảm giác hài hòa, trang trọng và linh thiêng.

Câu đối được làm từ nhiều chất liệu: có loại sơn son thiếp vàng để dùng lâu dài, có loại làm bằng giấy bồi (gọi là liễn) hoặc cắt bằng giấy màu, viết bằng mực nho… để dễ thay đổi theo từng năm, từng mùa cho mới, cho hợp hoàn cảnh. Ngày thường, câu đối chỉ treo trên bàn thờ. Ngày tết thì treo ở nhiều nơi, thậm chí những người ham mê và muốn giữ tục lệ cũ còn chơi câu đối giấy, dán suốt từ ngoài cổng vào trong nhà! Câu đối có thể mua sẵn hoặc nhờ, thuê người viết, nhưng hay nhất vẫn là do tự chủ nhân làm ra.

Mỗi câu đối gồm hai vế có số chữ bằng nhau, ý nghĩa và luật bằng trắc đối chọi hoặc tương hợp nhau. Câu đối thể hiện những cảm nhận sâu sắc về thiên nhiên và cuộc sống trần thế, về năm mới và mùa xuân, đề cao đạo lý cùng những quan niệm đẹp, cầu mong mọi việc tốt lành… Mơ ước năm mới vui vẻ, hạnh phúc, làm ăn phát đạt và có nhiều bạn bè.

Dịp tết, thường phải có câu đối đỏ. Màu đỏ vốn được coi là màu rực rỡ nhất và theo quan niệm dân gian, là biểu tượng của sức sống mãnh liệt (máu, lửa). Nó vừa nổi trội vừa hài hòa với màu xanh của bánh chưng, màu vàng của hoa mai… làm tươi sáng thêm không khí tết, tạo cảm giác ấm áp trong mùa xuân mới.

Từ xa xưa, Tết Nguyên Đán đã trở thành một bộ phận hợp thành nét văn hóa đặc sắc của người dân Việt Nam. Nó là một phần không thể thiếu trong đời sống tinh thần của người Việt. Nó được thể hiện trên nhiều phương diện, như: chúc tuổi, lì xì,….và đặc biệt qua phong tục dán câu đối Tết. Đó là nét văn hóa cần được duy trì và phát triển.

– Bài số 3

Tết nguyên đán là lễ hội lớn nhất trong các lễ hội truvền thống của dân tộc Kinh cũng như đa số các dân tộc Việt Nam từ ngàn đời nay. Tết nguyên Đán là điểm giao thời giữa năm cũ và năm mới. Đây cũng là dịp để mọi người Việt Nam tưởng nhớ, tri tâm tổ tiên, nguồn cội: giao cảm nhân sinh trong quan hệ đạo lý và tình nghĩa xóm làng…

Ông Táo (thần bếp) là người theo dõi việc làm ăn cùa mọi nhà. Theo tập tục hàng năm ông Táo lên trời vào ngày 23 tháng chạp để tâu bày mọi việc dưới trần thế với Ngọc Hoàng. Bởi thế trong ngày này, mọi gia đình người Việt Nam làm mâm cơm tiền đưa “ông Táo". Ngày ông Táo về chầu trời được xem như ngày đầu tiên của tết Nguyên dán. Sau khi tiễn đưa ông Táo người ta bắt đầu dọn nhà cửa. lau chùi đồ cúng ông bà tổ tiên, treo tranh, câu đối, và cắm hoa ơ những nơi sang trọng để chuẩn bị đón Tết.

Cùng với thủ treo tranh dân gian, câu đối thì cắm hoa. chơi hoa là yếu tố tinh thần cao quý thanh lịch của người Việt Nam trong những ngày đầu xuân. Miền Bắc có hoa đào, miền Nam có hoa mai, đây là hai loại hoa tượng trưng cho phước lộc đầu xuân của mọi gia đình người Việt Nam. Ngoài ra còn có quất với trái vàng mọng, đặt ở phòng khách như biểu tượng cho sự sung mãn, may mắn, hạnh phúc,…

Tết trên bàn thờ tổ tiên của mọi gia đình, ngoài các thứ bánh trái đều không thể thiếu mâm ngũ quả. Mâm ngũ quả ở miền Bắc thường gồm có nải chuối xanh, bưởi, quả cam (hoặc quýt), hồng, quất. Còn ở miền Nam, mâm ngũ quả là xiêm, mãng cầu, đu đủ, xoài xanh, nhành sung hoặc một loại trái cây khác. Ngũ quả là lộc của trời, tượng trưng cho ý niệm khát khao cuủ con người vì sự đầy đủ, sung túc. Ngày tết có nhiều phong tục tốt như khai bút, hái lộc, chúc tết, du xuân, mừng thọ…Ai cũng hy vọng một năm mới tài lộc dồi dào, làm ăn thịnh vượng mạnh khoẻ, thành đạt hơn năm cũ.

Ngày tết có tục mừng tuổi chúc tét. Trước hết con cháu mừng tuổi ông bà mẹ. Ông bà cùng chuẩn bị ít tiền để mừng tuổi con cháu trong nhà và con cháu hàng xóm láng giềng, bạn bè thân thích. Những ngày tết mọ người luôn cười tay bắt mặt mừng thân thiện với nhau, chúc nhau sức khoẻ, phát tài phát lộc và thường kiêng không nói điều rủi ro hoặc xấu xa.

Các tục lệ trong đêm giao thừa

Một năm bắt đầu vào lúc giao thừa, cũng lại kết thúc vào lúc giao thừa, do vậy

vào lúc giao tiếp giữa hai năm cũ, mới này có lễ trừ tịch. Ý nghĩa của lễ này là đem bỏ hết đi những điều xấu của năm cũ sắp qua để đón những điều tốt dẹp của năm nới săp đến. Lễ trừ tịch còn là lễ để “khu trừ ma quỳ”, do đó có từ “trừ tịch”. Lễ trừ tịch cử hành vào lúc giao thừa nên còn mang tên là lễ giao thừa. Người Việt Nam thường cúng giao thừa tại các đình, chùa hoặc tại nhà. Bàn thờ giao thừa được thiết lập ở ngoài trời. Một chiếc hương án được kê ra, trên có bình hương, hai ngọn đèn dầu hoặc hai ngọn nến. Lễ vật gồm: chiếc thú lợn hoặc con gà, bánh chưng, mứt kẹo, trầu cau, hoa quả, rượu nước và vàng mã. Ngày nay, ở các tư gia người ta vẫn cúng giao thừa với sự thành kính như xưa nhưng bàn thờ thì đơn giản hơn, thường đặt ở ngoài sân hay trước cửa nhà.

Theo quan niệm của người Kinh (cũng như đại đa số các dân tộc khác) phút giao thừa là thiêng liêng. Tục ta tin rằng mỗi năm có một ông thành khiến coi việc nhân gian, hết năm thì thần nọ bàn giao công việc cho thần kia. cho nên cúng tế để tiễn ông cũ và đón ông mới. Lễ giao thừa được cúng ở ngoài trời là bởi vì quan niệm xưa hình dung trong phút các quan hành khiển bàn giao công việc luôn có quân đi, quân về đầy không trung tấp nập, vội vã (nhưng mắt trần không nhìn thấy được), thậm chí có quan quân còn chưa kịp ăn uống gì. Những phút ấy, các gia đình đưa xôi gà, bánh trái, hoa quả, những đồ ăn nguội ra ngoài trời cúng, với lòng thành tiễn đưa người nhà trời đã trông coi gia đình mình trong năm cũ và đón người nhà trời mới xuống làm nhiệm vụ cai quản hạ giới năm tới. Vì việc bàn giao, tiếp quản công việc hết sức khẩn trương nên các vị không thể vào trong nhà khề khà mâm hát mà chỉ có thể dừng vài giây ăn vội vàng hoặc mang theo, thậm chí chỉ chứng kiến lòng thành của chủ nhà. Sau khi cúng giao thừa xong, các gia chủ làm vè cúng Thổ Công, tức là vị thần cai quản trong nhà. Lễ vật cũng tương tự như lễ cúng giao thừa. Trong dịp tết Nguyên đán còn có một số phong tục tốt đẹp được lưu giữ đến nay:

+ Đi lễ chùa, đình, đền: lễ giao thừa ở nhà xong, mọi người cùng nhau đi lễ các đình, chùa, miếu, điện để cầu phúc, cầu may, để xin Phật, Thần phù hộ độ trì cho bản thân và gia đình. Nhân dịp này người ta thường xin quẻ thẻ đầu năm.

+ Kén hướng xuất hành: khi đi lễ, người ta kén giờ và hướng xuất hành, đi đúng hướng đúng giờ để gặp may mắn quanh năm.

+ Hái lộc: đi lễ đình, chùa, miếu, điện xong người ta có tục hái trước cửa đình, cửa đền một cành cây gọi là cành lộc mang về ngụ ý là “lấy lộc” của trời đất, Thần, Phật, ban cho. Cành lộc này được mang về cắm trước bàn thờ cho đến khi tàn khô.

+ Hương lộc: có nhiều người thay vì hái cành lộc lại xin lộc tại các đình, đền, chùa, miếu bằng cách đốt một nắm hương, đứng khấn vái trước bàn thờ, rồi mang lương đó về cắm vào bình hương bàn thờ nhà mình. Ngọc lửa tượng trung cho sự phát đạt được lấy từ nơi thờ tự về tức là xin Phật, Thánh phù hộ cho được phát đạt quanh năm.

+ Xông nhà: thường người ta kén một người “dễ vía” trong gia đình ra khỏi từ trước giờ trừ tịch, rồi sau lề trừ tịch thì xin hương lộc hoặc hái hành lộc ở đền chùa mang về. Lúc trở về đã sang năm mới và người này sẽ tự “xông nhà” cho gia đình mình, mang sự tốt đẹp quanh năm về cho gia đình. Nếu không có người “dễ vía” người ta phải nhờ người khác tốt vía để sớm ngày mồng một đến xông trước khi có khách tới chúc tết, để người này đem lại may mắn vui vẻ quanh năm

– Bài số 4

Ngày Tết là ngày thiêng liêng nhất đối với dân tộc Việt Nam. Ngày Tết bắt một năm và đây cũng là tiết lễ đầu tiên của năm, với tất cả mọi cảnh vật hầu như đều mới mẻ để đón xuân sang.

Theo âm lịch xuất hiện từ thời Hạ, một năm có 12 tháng lấy tên 12 chị. Tháng giêng là tháng Dần được chọn làm tháng đầu năm, nhưng đến đời nhà Ân có thay đổi, lấy tháng Sửu, rồi đến đời nhà Chu lấy tháng Tý, đời nhà Tần lấy tháng hợi, kịp đến đời nhà Hán, vua Hán Vũ Đế lại trở lại như đời nhà Hạ, lấy tháng Dần đầu cho mỗi năm…

Thực ra, Tết Nguyên Đán bắt đầu vào tháng Dần hợp lý, vì lúc đó mùa Đông vừa qua, tiết lạnh vừa hết, mùa Xuân ấm áp tới, đem lại cỏ hoa tươi thắm, khiến cho con người hầu như biến đổi sau một năm làm ăn vất vả.

Hoa tưng bừng nở, người người vui vè đón mừng xuân trong lòng chứa chan hi vọng mong những may mắn mới. Ai cũng vui nên không ai báo ai, gặp nhau người ta đều cầu chúc cho nhau những điều tốt đẹp: Phúc, Lộc, Thọ, Khang, Ninh.

Tết Nguyên Đán bắt đầu từ lúc giao thừa với lề trừ tịch. Giao thừa nghĩa là giao lại mới tiếp lấy, và chính vì ý nghĩa đó nên hàng năm vào lúc giao tiếp giữa hai năm cũ mới, và cũng là giây phút đầu tiên của năm mới.

Ý nghĩa của lễ này là đem bỏ đi hết những điều xấu dở cũ kỹ của năm sắp qua để đón những cái mới mẻ tốt đẹp của năm sắp tới.

Theo người Tàu, đây còn là một lễ khử trừ ma quỷ. Tục Tàu xưa vào ngày tịch họ dùng 120 đứa trẻ trạc độ 10 tuổi, mặc áo thâm đội mũ đỏ, cầm trống vừa vừa đánh để khử trừ ma quỷ, và chính do sự kiện này đã có danh từ trừ tịch.

Tuy chịu ảnh hưởng văn hóa Trung Hoa, nhưng chúng ta gạn lọc bỏ bót những tục lệ quá rườm rà. Làm lễ trừ tịch, chúng ta không có lệ dùng trẻ con đánh trống trừ ma quỷ.

Cúng ai trong lễ trừ tịch? Lễ này còn gọi là lễ giao thừa, và cùng còn mệnh danh là tống cựu nghênh tân. Trong Việt Nam phong tục, Phan Kế Bính về lễ này:

“Tục ta tin rằng mỗi năm có một ông Hành Khiển coi việc nhân gian, hết thì thần nọ bàn giao cho thần kia. cho nên cúng tế để tiễn ông cũ và đón ông mới.

Lễ trừ tịch bao hàm một ý nghĩa thiêng liêng trọng đại, liên quan mật thiết với đời sống tâm linh nên được cử hành rất trịnh trọng từ tư gia tới các nơi thờ tự công cộng.

Tại tư gia, nhà nào cũng cúng lễ giao thừa và tại các nơi đình, đền, miếu, điện… các ông Đám hoặc các ông Thủ từ, sửa soạn và đứng chủ lễ. Nhiều làng long trọng hơn chính ông Tiên Chỉ và các quan viên đứng làm lễ giao thừa.

Người ta mong mỏi những cái xui xẻo sẽ đi hết với năm cũ, và nhiều điều may mắn sẽ ở lại với năm mới. Có điều với mọi biến chuyển dồn dập của thời cuộc, lễ giao thừa được cử hành một cách giản tiện hơn, không quá trịnh trọng, và đồ lễ cũng có phần đơn sơ, nhất là pháo cũng đốt ít hơn.

Trong đêm giao thừa, trước giờ giao thừa ai cũng cố về nhà nấy và nếu có ra đi vì lí do tìm hướng xuất hành hái lộc, người ta cũng đợi cúng giao thừa xong ngoại trừ những người cố tâm ờ lại ngoài đường đợi giờ giao thừa mới về nhà mình để tự xông đất cho mình.

Tại mọi nhà, lúc này nhà nào giàu nghèo gì cũng cố trang hoàng với hoa cảnh và trên bàn thờ khói hương nghi ngút. Một loại hoa được ưa chuộng cho ngày tết là hoa thuỷ tiên, hoa này ít khi vắng mặt tại những gia đình sang trọng.

Các cụ, tuổi đời từ ngoài sáu chục trở lên, hẳn còn nhớ tục xúc xắc xúc xẻ trong đêm xưa kia, các cụ từng chứng kiến hoặc đã tự mình đóng một vai trong tục lệ này.

Đêm giao thừa trong các làng quê thì một số trẻ em đi thành từng bọn ba bốn em, mỗi em cầm một chiếc ống trong có đựng mấy đồng tiền, các em đi đến nhà chúc Tết, thường chỉ đứng ở ngoài cửa. Các em hát một câu hát cổ truyền và các em dùng ống tiền lắc lên làm nhịp.

Mỗi bọn ba hoặc bốn em, có trai có gái cỡ tuổi từ lên 10 đến 13, 14 ăn mặc quần áo đẹp, một em cầm ống tiền xúc xắc làm nhịp, và tất cả các em cùng hát:

                                               Vợ ông sinh đẻ

                                             Nhữg con tốt lành

                                           Những con như tranh

                                         Những con như đối.

                                        Chúng tôi ngồi xó tối

                                        Chúng tôi đối một câu

                                       Thịt mỡ dưa hành câu đối đỏ.

                                   Nêu cao pháo nổ bánh chưng xanh.

                                             Xúc xắc xúc xẻ.

Khi các em hát xong bài chúc mừng xúc xắc xúc xẻ, gia chủ mừng tuổi các em bằng cách bỏ ngay vào ống của các em một số tiền. Có người tặng thêm các em bánh mứt hoặc pháo.

Các em rất thích pháo. Ngày Tết thanh bình mà không có pháo, các em cho là chưa có Tết.Pháo các em mua cả bánh, đốt cả tràng, cùng có em gỡ ra đốt từng quả một

Không chỉ riêng các em thích đốt pháo. Đốt pháo đã ăn vào tục lệ nên mọi người đều đốt pháo.

Theo sách cũ chép lại thì đốt pháo đế trừ ma quỷ. Sách chép rằng giống ma núi gọi là Sẻn Tiêu, khi phạm đến ngưởi thì người đau ốm, phải đốt pháo để nó tránh xa.

Điển sách thì nói vậy, nhưng thật ra tiếng pháo giúp vui cho Tết, tăng sự hân hoan, xua đuổi mọi sự phiền não. Có tiếng pháo xuân thêm tưng bừng và Tết thêm nhộn nhịp.

Tiền nhân không phải chỉ đốt pháo tràng hoặc pháo lẻ với tiếng nổ, các cụ còn đốt pháo hoa cà, hoa cải.

Đây là loại pháo giống như pháo bông. Làm pháo này các cụ dùng những ống nứa, nhồi thuốc vào thật chặt, trong thuốc có pha sẵn những bụi gang và nhọ nồi.

Đêm hôm giao thừa trời tối như mực, đốt những pháo này, từ pháo bốc lẻn những tia sáng óng ánh trông như hoa cây cà, cây cải, nên được gọi là pháo hoa cà hoa cải.

Pháo bông ngày nay chính là sự biến thể của pháo hoa cà hoa cải ngày xưa. Mỗi khi pháo hoa cà hoa cải đốt lên có thể đem so sánh với những chùm hoa thật, đây chính là những chùm hoa sáng trong đêm tối.

Những tia sáng do thuốc pháo tạo nên, có màu sáng xanh biếc do bụi gang, màu sáng đó lửa vì nhọ nồi, trông không khác chi những nhị hoa, những cánh hoa!

                                Đì dẹt ngoài sân tràng pháo chuột

                                Om sòm trên vách bức tranh gù

                                                                     Tú Xương

Ngày Tết có pháo thì ngày Tết cũng phải có tranh. Gần đến ngày Tết tại các phiên chợ đều có hàng tranh tết. Các bà mẹ đi chợ không bao giờ quên mua tranh Tết cho con. Những bức tranh này thường tả lại những cảnh thân quen với dân quê hoặc những nét sinh hoạt nơi đồng ruộng.

Nhiều nhất là những búc tranh vẽ về gia súc: đàn gà mẹ con, gà trống gáy sáng, đàn heo, đàn vịt. ngựa hồng, ngựa bạch… có cả tranh lý ngư vọng nguyệt, trê cóc…

Những bức tranh về sinh hoạt có thế kể tranh tăng gia sản xuất. tranh mò cua bắt ốc, tranh cày cấy gặt hái, tranh hội hè đình đám với đám chọi trâu, đám đánh đu, đám đáo đỉa. đôi khi có cá bức tranh vẽ một đám bạc với mọi người mải mê đang chúi đầu vào chiếu bạc… và có cả tranh bịt mắt bắt dê, kéo co. chọi gà…

Có cả những bức tranh nhắc lại những trang sử oai hùng cuủ dân tộc: Hai Bà Trưng đuổi quân Tô Định, Bà Triệu đánh giặc Ngô, vua Lẽ Thái Tổ đánh giặc Minh. Hưng Đạo Vương thắng trận Bạch Đằng…

Trong những loại tranh bình dân nàv có tranh của trẻ em, nhưng có rất nhiều tranh của người lớn, vì tranh, pháo tượng trưng cho ngày Tết nên đón Tết phải có tranh.

Tranh của người lớn có thể là những bức tứ bình với đề tài tử thời, nghề nghiệp như Ngư, Tiều, Canh, Mục… những bức tranh tố nữ với đề tài cầm, Kỳ, Thi. Hoạ. hoặc những bức tranh vỗ những đoạn trích trong các chuyện bình dân như Thạch Sanh, Tống Trân, Phạm Công, Kim Vân Kiều, và có khi những đoạn trích trong các truyện Tàu như Tam Quốc Chí, Thuỷ Hử, Hán Sở tranh hùng, Chinh Đông, Chinh Tây…

Có thể là những bức tranh khôi hài châm biếm, loại tranh này người lớn cũng thích như tranh Đánh ghen, tranh Hứng dừa, tranh Chú chuột vinh quy, Thầy đồ Cóc…

Tất cả các tranh thường là những tranh mộc bản, màu sắc tô thật loè loẹt, hợp với vẻ tưng bừng của ngày Tết.

Trong những bức tranh có những bức đầy ý nghĩa chúc tụng. Tết là dịp người ta chúc tụng lẫn nhau, những nhà bán tranh Tết cũng ghi những lời chúc tụng qua hình ảnh, hoặc qua những văn thơ chúc Tết. nhưng tranh Vinh hoa, Phú quý, tranh Thất đồng vẽ bảy trẻ em trong một gia đình, hoặc tranh Tử tôn vạn đại đều là những tranh chúc tụng trong ngày tết.

Đốt pháo với chơi tranh là hai thú tết của bình dân, nhưng trí thức cũng thích thú.

Các bậc trí thức nhất là các tay văn tự, ngày Tet có tục Khai bút. Các cụ kén ìày tốt giờ tốt trong mấy ngày đầu năm, mặc quần áo trịnh trọng, đốt nhang đốt trầm nơi bày viết, nơi đây đã đủ sẵn đồ văn phòng tứ bảo. Các cụ ngồi vào hoặc có khi nằm bò trên sập gồ viết những chữ đầu tiên của năm mới.

Theo nghĩa đen. Khai bút là cầm bút viết lần thứ nhất của buổi đầu năm. Người ta có thể dùng một cây bút cũ nhưng để tạo một không khí trịnh trọng và cũng để tò sự quan tâm của mình đối với những hàng chữ đầu năm, các cụ thường sắm dành cho buổi khai bút một cây bút mới, có khi cả một thỏi mực Ọuốc bảo mới tinh, thơm phức! Khai bút các cụ thường viết một bài thơ chính các cụ là tác giả hoặc thơ chữ Hán, hoặc chữ Nôm. Sau này có chữ Ọuốc ngữ, những ai không hiểu chữ Hán và chữ Nôm cũng khai bút, nhưng khai bút sắt và làm thơ chữ Quốc ngữ.

Trong các tục lệ ngày Tết, phải kể tới tục chúc Tết. Sáng ngày mồng một Tết, sau khi lễ gia tiên, con cháu chúc Tết ông bà, cha mẹ.

Lúc này ông bà, cha mẹ ăn mặc chỉnh tề ngồi ở giữa nhà, thường các nhà sang trọng có kê sập chân quỳ thì các cụ an tọa ở nơi sập. Con cháu ăn mặc quần áo đẹp. chúc Tết ông bà rồi chúc Tết cha mẹ. Thường lời chúc tết là những lời cầu mong ông bà, cha mẹ mạnh khoẻ bình an, nếu muốn buôn bán thì đắc tài sai lộc.

Ồng bà cha mẹ sung sướng hân hoan đón nhận lời chúc Tết của con cháu, cầu chúc cho con cháu mạnh khoẻ, học hành tấn tới, được lên lớp hoặc thi đỗ.

Cùng với lời cầu chúc, ông bà cha mẹ còn tặng phong bao mừng tuổi cho con cháu. Các cụ dùng những bao giấy đỏ có in hình ngày Tết, trong bao đựng một số tiền trao cho con cháu. Tiền phong bao gọi là tiền mừng tuổi hoặc tiền lì xì theo tiếng miền Nam.

Không phải chỉ người lớn lì xì cho trẻ em. Người lớn cũng lì xì lẫn nhau để cần cho nhau sự may mắn. Con cháu trong ngày Tết cũng phong bao mừng tuổi bố mẹ, tiền này được mệnh danh là tiền mở hàng. Các họ hàng thân tộc cũng mở hàng cho nhau, nhất là những người buôn bán. Những người này, tiền mở hàng, họ cất riêng để lấy may mắn cho suốt năm.

Trong ngày Tết gặp nhau nếu có quen biết ai cũng đều chúc tụng nhau những điều tốt  đẹp nhất. Người làm quan thì thăng quan tiến chức, người buôn bán thì nhất bản vạn lợi, người đi học thì văn hay chữ tốt, thi đỗ…

Có những gia đình sau khi chúc Tết ông bà, cha mẹ, con cháu đốt mừng một phong pháo. Mùi khói pháo thơm làm không khí thêm vui, xác pháo đỏ như rắc sự may mắn trước hiên nhà.

 Cũng trong dịp tết này học trò mới chúc Tết thầy, các hương lí trong hạt tới chúc tết quan và dân làng cũng kéo nhau đến chúc tết các hương chức, nhất là đối với ông Tiên chỉ, Thứ chỉ và Lý trưởng.

 Dân làng họp nhau tại đình để chúc tết lẫn nhau. Nhiều người dân đi làm ăn xa quanh năm, trong dịp này được cùng toàn thể dân làng họp mặt.

Thật là một dịp để thắt chặt tình tương thân ái và đoàn kết giữa dân làng. Gặp nhau trong dịp tết, ai nấy đều vui vẻ và chỉ cầu mong cho nhau những điều tốt lành nhất. Sau ngày tết, những người phải đi làm xa xôi còn mang theo những kỉ niệm buổi họp ở làng trong lúc xuân về.

 Người lớn vui tết, trẻ em cũng vui tết. Các em xúng xính trong các bộ quần áo mới, các em sung sướng được tiền mừng tuổi, được tha hồ ăn bánh mứt, được đoost pháo, được cha mẹ nuông chiều. Ta có tụng kiêng trong ba ngày tết, tránh có diều gì bất như ý, sẽ không may mắn suốt năm. Do đó cha mẹ tránh sự mắng quở các em.

Với quần áo mới, các em trông thật đáng yêu.Người xưa nói rằng các em bé là những thiên thần cũng không phải là quá đáng.

Các em ở tỉnh trong dịp này thường được cha anh chụp cho những tấm hình kỷ niệm. Tuổi ấu thơ sao mà dễ thương! Ngày Xuân bắt đầu cho một năm, tuổi hoa niên bắt đầu cho một đời. Yêu ngày Xuân chúng ta phải yêu tuổi hoa niên.

Nếu trong dân gian, Tết đến mọi người chúc tụng lẫn nhau thì ở triều đình ngay ngày đầu năm tại sân rồng, các quan đại thần cũng hợp để chúc tụng nhà vua.

Từ sáng sớm mồng một Tết, các quan đại thần văn võ đã tề tựu tại điện Thái Hòa, để chờ nhà vua thiết đãi triều. Khi vua ngự triều, các quan đều quỳ làm lễ, và một vị đại thần dâng lời chúc tụng. Trong buổi này các quan phải mặc y phục đại trào với mũ mão, cân đai, hia ủng… Dâng lời chúc tụng nhà vua xong, khi bãi chầu, các quan chúc Tết lẫn nhau, vị nọ tới nhà vị kia rồi vị kia đáp lễ lại.

Trong dân chúng cũng vậy, người ta đi chúc Tết, người xưa gọi là đi lễ Tết, vì đến chúc Tết tại một gia đình nào, việc đầu tiền người ta lễ trước bàn thờ gia tiên nhà đó, sau mới ngỏ lời chúc tụng lẫn nhau. Việc lễ trước bàn thờ gia tiên một thân bằng quyến thuộc chứng tỏ lòng kính trọng tổ tiên người đó, và người đó cũng sẽ lễ tổ tiên nhà mình.

Đối với những người ở xa, trước đây người Việt Nam có tục gửi hồng thiếp chúc Tết. Hồng thiếp màu đỏ có viết chữ đen hoặc chữ kim nhũ. Ngày nay thay vì hồng thiếp người ta gửi danh thiếp hoặc những thiếp chúc Tốt có hình vè tượng trưng cho ngày Tết và mùa xuân.

Hồng thiếp, ngoài những lời chúc Tết, thường có những bài thơ các cụ làm tặng nhau, tất cả những lời chúc Tết đều thu gọn trong một bài thơ.

Các cụ gửi nhau, cho con clhu cầm tay mang đi, khác với ngày nay, những thiếp chúc Tết được gửi qua sở bưu điện.

Tấm thiếp gửi, người gửi yên chí những lời chúc tụng của mình sẽ tới tay người thân tuy đôi khi cũng có sự thất lạc! Người nhận được tấm thiếp cũng lấy làm sung sướng vì những lời chúc Tết đẹp đẽ, vì đã có người nghĩ tới mình khi Xuân tới.

Ngày Tết ở miền Bắc lạnh, đi chúc Tết mọi người phải ăn vận quần áo ấm. Trời đôi khi điểm mưa phùn càng thêm lạnh, nhưng không phải vì thế mà người ta không đi chúc Tết nhau.

Ngoài việc chúc Tet các bà cô còn dắt nhau đi lễ chùa, nhất là các cô gái mới lớn trong lòng có niềm sở cầu riêng tây.

Đi lễ, các bà cô cầu Trời, Phật, Thánh, Thần ban cho một năm may mắn.

Tục đi chúc Tết, ngay ở thành thị, ngày nay vẫn duy trì, và thuộc về tâm linh. Và lại đi chúc Tết có thể coi là một thú riêng. Giêng, Mai ngày rộng tháng dài, dù có bận rộn cũng ít ai bận rộn gì trong những ngày Tết. Các bà, các cô thành thị trong dịp này thường rủ nhau năm bảy ngừời đi chơi Xuân, chơi Xuân với một nghĩa rất rộng, đi lẽ bái, đi thâm viếng nlhững thắng cảnh, hoặc chỉ cùng dắt nhau đi dưới rặng cây để hưởng cái đẹp của ngày Xuân.

Trong khi phái đẹp rủ nhau đi lễ chơi Xuân, đàn ông lại thường thức ngày Tết một lối khác. Có người vùi đầu vào cờ bạc lấy cớ chơi Xuân. Các tay văn tự. các bậc trí thức thì làm thơ mừng Tết, để đón tết và để vui Tết. tết là đề tài cho rất nhiều bài thơ truyền tụng.

Tục lộ chơi Xuân có nhiều. Nhân ngày Xuân ai cũng muốn may mắn, do đó tục kén hướng xuất hành, đi lễ đình, chùa, đền, miếu… hái lộc.

Chúng tôi cũng nói thêm: trong mấy ngày Tết dân ta có tục kiêng: Kiêng quét nhà, kiêng không nói những lời tục tĩu hoặc những lời mang những diều không may đến cho bất cứ ai, kể cả kẻ thù của mình. Và người ta cũng kiêng bận đồ trắng, màu tang của Việt Nam, kiêng mọi sự nhăn nhó cau có…

– Bài số 5

Cứ mỗi mùa xuân về, bao trái tim con người lại háo hức đón chờ. Tết cổ truyền từ lâu đã trở thành một phần không thể thiếu trong văn hóa Việt.

Nó không chỉ là ngày chào mừng năm mới mà còn là dịp để con người xum họp. Vì vậy không chỉ Việt Nam mới có ngày Tết mà nó còn được phổ biến rộng rãi ở một số nước thuộc châu Á. 

Tết Nguyên đán (hay còn gọi là Tết Cả, Tết Ta, Tết Âm lịch, Tết Cổ truyền, năm mới hay chỉ đơn giản Tết) là dịp lễ quan trọng nhất trong văn hóa của người Việt Nam và một số các dân tộc chịu ảnh hưởng văn hóa Trung Quốc khác. Vì Trung Quốc và một số nước chịu ảnh hưởng văn hóa Trung Quốc dùng lịch pháp theo chu kỳ vận hành của mặt trăng nên Tết Nguyên Đán muộn hơn Tết Dương lịch (còn gọi nôm na là Tết Tây).Tết Nguyên Đán chia làm ba giai đoạn.Đầu tiên là thời gian giáp Tết,thường từ 23 tháng Chạp(ngày ông câu ông Táo).Gần đến Tết,mọi đơn vị đều được nghỉ làm, học sinh đựơc nghỉ từ 27-28 âm lịch.Tiếp theo là ngày 30 hay còn gọi là Tất Niên.Ngày này mọi người tảo mộ ông bà hay những người thân trong gia đình đã khuất.Quan trọng nhất,vào tối 30,mọi người đều chuẩn bị đón giao thừa-thời khắc đặc biệt chuyển từ năm cũ sang năm mới-đón một khởi đầu mới.Từ xưa,phong tục của người dân Việt là đêm Tất Niên phải ở nhà làm mâm cơm cúng trời đất,ông bà tổ tiên và có tục lệ xông đất-tức người đầu tiên bước vào nhà sau 12 giờ đêm sẽ là người mang lại may mắn hay xui xẻo cho năm sau.Nhưng ngày nay,tục lệ đó đã phần nào bị lu mờ.Mọi người thường ra ngoài đón giao thừa:ở công viên hay nơi công cộng có thể ngăm pháo hoa rõ nhất.Quan niệm người xông đất cũng đã không còn nguyên vẹn.Theo tục xưa người xông đất phải là người không ở trong gia đình nhưng ngày nay khi người ta đi chơi đêm tất niên về đều tự coi là xông đất cho nhà mình.Ngày mùng 1 là ngày đầu tiên của năm mới,là ngày bắt đầu dịp lễ cổ truyền long trọng nhất của người Việt.Đây là dịp hội hè,vui chơi và là thời điêmr cho những người tha hương tìm về với quê hương,gia đình,tưởng nhớ tổ tiên.Tết đến,mọi người kiêng kị nóng giận,cãi cọ,quét nhà sợ mang lại điềm gở,mất tài mất lộc vào năm mới.Đây là dịp để mọi người tha thứ,hàn gắn,chuộc lỗi cho những điều không may đã xảy ra vào năm cũ

Người Việt tin rằng vào ngày Tết mọi thứ đều phải mới, phải đổi khác, từ ngoại vật cho đến lòng người, vì vậy khoảng mươi ngày trước Tết họ thường sơn, quét vôi nhà cửa lại. Họ cũng tất bật đi sắm sửa quần áo mới để mặc trong dịp này. Trong những ngày Tết họ kiêng cữ không nóng giận, cãi cọ. Tết là dịp để mọi người hàn gắn những hiềm khích đã qua và là dịp để chuộc lỗi. Mọi người đi thăm viếng nhau và chúc nhau những lời đầy ý nghĩa. Trẻ em sau khi chúc Tết người lớn còn được lì xì bằng một phong bì đỏ thắm có đựng ít tiền dành cho chúng tiêu xài ngày Tết. Tết ở 3 miền Bắc, Trung, Nam ở Việt Nam cũng có những điều khác nhau.

Phong tục của ngày tết cổ truyền ở Việt Nam vô cùng phong phú. Nào là chúc Tết, lì xì, bày mâm ngũ quả, trồng cây nêu, gói bánh chưng, treo câu đố,….Tất cả tạo thành nét đẹp văn hóa ngày tết của người Việt.

Để trang hoàng nhà cửa và để thưởng Xuân, trước đây từ các nho học cho tới những người bình dân "tồn cổ" vẫn còn trọng tục treo "câu đối đỏ" nhân ngày Tết. Những câu đối này được viết bằng chữ Nho (màu đen hay vàng) trên những tấm giấy đỏ hay hồng đào cho nên còn được gọi là câu đối đỏ.

Bản thân chữ "câu đối đỏ" cũng xuất hiện trong câu đối Tết sau:

Thịt mỡ, dưa hành, câu đối đỏ

Cây nêu, tràng pháo, bánh chưng xanh.

Câu đối thuộc thể loại văn biền ngẫu, gồm hai vế đối nhau nhằm biểu thị một ý chí, quan điểm, tình cảm của tác giả trước một hiện tượng, một sự việc nào đó trong đời sống xã hội. Nên lưu ý là từ đối ở đây có nghĩa là ngang nhau, hợp nhau thành một đôi. Câu đối là một trong những thể loại của Văn học Trung Quốc và Việt Nam

Câu đối có nguồn gốc từ người Trung Quốc. Người Trung Quốc gọi câu đối là đối liên nhưng tên gọi xưa của nó là đào phù.

Câu đối được xem là tinh hoa của văn hóa chữ Hán, người Trung Quốc quan niệm: "nếu thơ văn là tinh hoa của chữ nghĩa thì câu đối là tinh hoa của tinh hoa".

Đối liên có lịch sử ra đời cách đây khoảng 3000 năm, nhưng theo Tống sử Thục thế gia, câu đối đầu tiên được ghi lại do chính chúa nhà Hậu Thục (934-965) là Mạnh Sưởng viết trên tấm gỗ đào vào năm 959.

Khi viết câu đối, nếu chọn được câu chữ tuân theo nguyên tắc sau thì đôi câu đối được gọi là chỉnh đối hay đối cân.

Ngày Tết thiếu câu đối Tết là chưa đủ Tết. Trong nhà dù tranh hoàng thế nào mà thiếu câu đối đỏ, Tết vẫn phảng phất thiếu một cái gì đó thiêng liêng. Câu đối xưa được viết bằng chữ Hán, chữ Nôm bởi những người có học hành, chữ nghĩa giỏi mà dân gian gọi là Ông Đồ nhưng ngày nay thì câu đối tết còn được viết bằng chữ quốc ngữ với những nội dung phong phú và rất đẹp. Làm câu đối, thách họa đối, chơi câu đối,…vốm là hinh thức sinh hoạt độc đáo và tao nhã của người Việt Nam. Nó thể hiện trí thông minh sắc sảo, cách sử sự linh động và cao thượng, thế giới quan lành mạnh cũng như những monh ước tốt đẹp trong cuộc sống thường ngày.

Tết đến, câu đối lại càng khó có thể thiếu trong niềm vui đón chào năm mới của mỗi gia đình. 

Ngày xưa, câu đối thường treo lên cột, khắc trên khung mái, hoặc viết lên cổng, cửa, tường nhà, đền miếu, đình chùa… Đặc biệt, hai hàng cột gỗ hai bên bàn thờ phải treo câu đối, còn phía trên bàn thờ là hoành phi, cuốn thư. Tất cả làm cho không gian thờ cúng trở nên cân bằng vuông avức như có khuôn phép, tạo cảm giác hài hòa, trang trọng và linh thiêng.

Câu đối được làm từ nhiều chất liệu: có loại sơn son thiếp vàng để dùng lâu dài, có loại làm bằng giấy bồi (gọi là liễn) hoặc cắt bằng giấy màu, viết bằng mực nho… để dễ thay đổi theo từng năm, từng mùa cho mới, cho hợp hoàn cảnh. Ngày thường, câu đối chỉ treo trên bàn thờ. Ngày tết thì treo ở nhiều nơi, thậm chí những người ham mê và muốn giữ tục lệ cũ còn chơi câu đối giấy, dán suốt từ ngoài cổng vào trong nhà! Câu đối có thể mua sẵn hoặc nhờ, thuê người viết, nhưng hay nhất vẫn là do tự chủ nhân làm ra.

Mỗi câu đối gồm hai vế có số chữ bằng nhau, ý nghĩa và luật bằng trắc đối chọi hoặc tương hợp nhau. Câu đối thể hiện những cảm nhận sâu sắc về thiên nhiên và cuộc sống trần thế, về năm mới và mùa xuân, đề cao đạo lý cùng những quan niệm đẹp, cầu mong mọi việc tốt lành… Mơ ước năm mới vui vẻ, hạnh phúc, làm ăn phát đạt và có nhiều bạn bè

Dịp tết, thường phải có câu đối đỏ. Màu đỏ vốn được coi là màu rực rỡ nhất và theo quan niệm dân gian, là biểu tượng của sức sống mãnh liệt (máu, lửa). Nó vừa nổi trội vừa hài hòa với màu xanh của bánh chưng, màu vàng của hoa mai… làm tươi sáng thêm không khí tết, tạo cảm giác ấm áp trong mùa xuân mới.

Từ xa xưa, Tết Nguyên Đán đã trở thành một bộ phận hợp thành nét văn hóa đặc sắc của người dân Việt Nam. Nó là một phần không thể thiếu trong đời sống tinh thần của người Việt. Nó được thể hiện trên nhiều phương diện, như: chúc tuổi, lì xì,….và đặc biệt qua phong tục dán câu đối Tết. Đó là nét văn hóa cần được duy trì và phát triển.

  • Mâm ngũ quả trong ngày Tết của người Việt.

Mâm ngũ quả mà ta thường thấy trên bàn thờ mọi gia đình Việt không chỉ làm cho ngày Tết thêm sinh động mà còn mang nhiều ý nghĩa thiêng liêng.

Theo thuyết duy vật cổ đại, tất cả mọi vật chất đều được tạo nên bởi 5 yếu tố ban đầu gồm: kim loại (kim), gỗ (mộc), nước (thủy), lửa (hỏa) và đất (thổ) – gọi là ngũ hành. Tư tưởng này xâm nhập sâu sắc vào đời sống văn hóa của các dân tộc phương Đông. Tục lệ chưng mâm ngũ quả trên bàn thờ ngày Tết của người Việt Nam là một trong những biểu hiện của tư tưởng này.
Mâm ngũ quả là mâm trái cây có năm loại quả khác nhau. Tùy theo đặc điểm tự nhiên, phong tục tập quán và quan niệm, người dân mỗi vùng, miền có cách chọn các loại quả đặc trưng mang ý nghĩa riêng.
Nếu căn cứ theo màu sắc trong triết lý phương Đông thì mâm ngũ quả phải có 5 loại quả với 5 màu khác nhau:

Đầu tiên là chuối xanh – ứng với mùa xuân (hành mộc). Nải chuối như bàn tay ngửa, hứng lấy những gì tinh túy nhất của mùa xuân để đọng thành quả ngọt; nó còn có ý nghĩa che chở, bao bọc.

Thứ hai là quả Phật thủ màu vàng – tượng trưng hành thổ nên được đặt ở giữa, trong lòng nải chuối. Phật thủ là loại quả có mười cánh múi chụm lên như 10 ngón tay nên dân gian gọi là tay Phật. Phật thủ được trưng lên bàn thờ với niềm cầu mong được bàn tay Phật trời ban phúc lộc. Nếu không tìm được Phật thủ, có thể thay bằng quả bưởi chín vàng, cũng mang ý nghĩa tương tự. 
Tiếp theo, 3 loại quả khác có các màu đỏ (ứng với mùa hạ – hành hỏa) như ớt sừng, cam – quýt chín, trứng gà, hồng…; màu trắng (ứng với mùa thu – hành kim) như roi, đào; màu đen (ứng với mùa đông – hành thủy) như mận, hồng xiêm…

Nếu như ở miền Bắc, hầu như tất cả các loại quả đều có thể bày lên bàn thờ, kể cả quả ớt mang vị cay đắng, miễn sao mâm ngũ quả trông đẹp mắt là được; thì người miền Nam lại có sự kiêng cữ. Mâm ngũ quả của người miền Nam không bao giờ có chuối, vì loại quả này tên gọi có âm giống từ “chúi”, thể hiện sự nguy khó. Quả cam cũng không được có mặt trong mâm ngũ quả ngày Tết, vì câu “quýt làm cam chịu”… Bàn thờ là nơi trang trọng nhất trong mỗi gia đình, mỗi căn hộ, là nơi để tâm linh mỗi người ước nguyện hướng tới những gì tốt đẹp hơn. Tết nếu thiếu bàn thờ thì cái hoang tàn xô đến, niềm cô quạnh dâng đầy, và hình như ta không còn là người dân Việt nghìn năm trọng tình, hiếu nghĩa, biết ơn tiên tổ nữa. Bàn thờ có chân đèn, chân nến, đỉnh đồng, đài nước, hộp sắc vua phong, tam sự hay ngũ sự… Và ngày Tết, không thể thiếu hương sắc, hình ảnh của mâm ngũ quả.

Mâm ngũ quả làm cho quang cảnh Tết và không gian thờ cúng trong mỗi gia đình Việt thêm ấm áp, rực rỡ mà hài hòa; thể hiện sinh động ý nghĩa triết học – tín ngưỡng – thẩm mỹ, đồng thời cũng chứa đựng ước vọng của con người.

  • Bánh chưng: 

Là loại bánh duy nhất có lịch sử lâu đời trong ẩm thực truyền thống Việt Nam còn được sử sách nhắc lại, bánh chưng có vị trí đặc biệt trong tâm thức của cộng đồng người Việt và nguồn gốc của nó có thể truy nguyên về truyền thuyết liên quan đến hoàng tử Lang Liêu vào đời vua Hùng thứ 6. Sự tích trên muốn nhắc nhở con cháu về truyền thống của dân tộc; là lời giải thích ý nghĩa cũng như nguồn cội của của Bánh Chưng, Bánh Giầy trong văn hóa, đồng thời nhấn mạnh tầm quan trọng của cây lúa và thiên nhiên trong nền văn hoá lúa nước.

 

Từ khóa tìm kiếm nhiều:

  • van thuyet minh ve tet nguyen dan
  • hãy thuyết minh về tết nguyên ₫án
  • thuyet minh tet nguyen dan
  • thuyet minh ve tet nguyen dan
0