Phân tích tình huống tác phẩm Vợ nhặt
– Bài số 1 Kim lân là nhà văn sáng tác ở cả hai giai đoạn: trước và sau năm 1945, ông viết không nhiều những đã có những tác phẩm sáng giá, thậm chí đã có nhiều kiệt tác. Sở trường của Kim Lân là truyện ngắn. Cuộc sống con người ở làng quê Việt Nam đồng bằng Bắc Bộ là đề tài chính trong ...
– Bài số 1
Kim lân là nhà văn sáng tác ở cả hai giai đoạn: trước và sau năm 1945, ông viết không nhiều những đã có những tác phẩm sáng giá, thậm chí đã có nhiều kiệt tác. Sở trường của Kim Lân là truyện ngắn. Cuộc sống con người ở làng quê Việt Nam đồng bằng Bắc Bộ là đề tài chính trong sáng tác của Kim Lân cũng là đề tài ông có sự gắn bó và hiểu biết sâu sắc.
"Vợ nhặt" được coi là kiệt tác trong sự nghiệp sáng tác của Kim Lân cũng là một truyện ngắn xuất sắc của văn xuôi Việt Nam hiện đại.
Tiền thân của truyện ngắn "Vợ nhặt" là một chương trong tiểu thuyết "Xóm ngụ cư" được Kim Lân viết ngay sau 1945 tới 1954, nhà văn dựa vào một phần cốt truyện cũ để viết "Vợ nhặt" do đó tác phẩm không chỉ là kết quả của một quá trình suy ngẫm, gọt giũa về nội dung và nghệ thuật mà còn mang âm hưởng của thời đại trong thời điểm đất nước được giải phóng (1954).
Một trong những yếu tố quan trọng giúp tạo ra những giá trị tư tưởng và nghệ thuật đặc sắc cho truyện ngắn chính là việc Kim Lân đã xây dựng thành công tình huống truyện độc đáo.
Tình huống là hòan cảnh của vấn đề, hàm chứa những mâu thuẫn, éo le, những trớ trêu, ngang trái, đòi hỏi con người cần có trình độ hay hành động thích ứng; qua đó mà tự bộc lộ tâm hồn, tính cách, trí tuệ hay số phận của mình.
1. Tình huống xuất hiện ngay nhan đề của tác phẩm.
"Vợ nhặt" là một nhan đề tạo ra những ấn tượng sâu sắc, kích thích sự tò mò chú ý của người đọc, hé mở tình huống đặc sắc của tác phẩm.
• "Nhặt" là một động từ chỉ những hành động ngẫu nhiên, thờ ơ, không chủ tâm để lấy một vật gì đó thường là ở dưới đất lên, một vật hoặc quá nhỏ bé nên không ai để ý, hoặc không còn giá trị nên đã bị vứt bỏ.
• " Vợ" là một phần quan trọng trong cuộc đời người đàn ông, lấy vợ là một trong những việc lớn của đời người, một việc thường được thể hiện theo phong tục truyền thống của người Việt với các bước mai mối, rạm hỏi, cưới xin…. Với từ "nhặt"làm định ngữ, nhan đề "Vợ nhặt" đã khiến người đọc phần nào suy đóan được phẩm chất, giá trị của người vợ khi được nhặt về như cỏ rác, cũng đồng thời hình dung được tình cảm của người chồng khi một việc lớn lao, trọng đại của đời người lại được thực hiện bởi một hành động ngẫu nhiên, thờ ơ, không chủ tâm.
Bởi thế, nhan đề "Vợ nhặt" với sự hàm chứa những mâu thuẫn éo le sẽ giúp nhà văn phản ánh tình cảnh thê thảm và thân phận tủi cực của những người nông dân nghèo trong nạn đói năm 1945.
2. Tình huống được tạo dựng trên cơ sở những mâu thuẫn trớ trêu được đẩy đến tận cùng giới hạn.
a. Sự trớ trêu đầu tiên xuất hiện ở nhân vật Tràng – chủ thể của hành động nhặt vợ.
Tràng là ngươờ mà ngay trong hoàn cảnh bình thường cũng rất ít khả năng lấy được vợ – hắn là dân ngụ cư lép vế trong làng xã, lại nghèo khổ, xấu xí, thô kệch và hơi dở tính, vậy mà Tràng lại lấy được vợ thậm chí chóng vánh, dễ dàng đến mức chính hắn cũng không thể tin nổi.
b. Sự trớ trêu thứ hai đặt ra ở hòan cảnh nhặt vợ của Tràng. Hôn nhân là biểu tượng của cuộc sống gia đình, của sự sinh con đẻ cái, của sự sống. Vậy mà vịêc nhặt vợ của Tràng lại diễn ra vào thời điểm khủng khiếp nhất của năm 1945, khi làng ngụ cư bao trùm trong không khí lạnh lẽo, chết chóc. Từ âm thanh của tiếng hờ khóc người chết, tiếng quạ gào lên từng hồi thê thiết, từ mùi ẩm thối của rác rưởi, mùi gây của xác chết, từ bóng tối tràn ngập khắp làng và nhất là hình ảnh người sống dật dờ, xanh xám như những bóng ma bên những người chết "còng queo" chưa kịp chôn cất.
Đó là thế giới của cái chết, của cõi âm. Thật trỡ trêu khi đó lại là cái nền cho cuộc hôn nhân kì lạ của Tràng. Tình huống éo le đã được tạo ra bởi sự đối đầu khốc liệt giữa sự sống và cái chết, giữa hạnh phúc và khổ đau, giữa hi vọng và tuyệt vọng, giữa cái ấm áp của tình người, giữa sự lạnh lẽo thê lương của chết chóc.
c. Tình huống trớ trêu ấy đã gây ra sự ngạc nhiên cho tất cả mọi người: dân xóm ngụ cư thì thầm, phỏng đóan, bà cụ Tứ không tin nổi vào mắt mình và ngay cả Tràng cũng ngờ ngợ, bàng hoàng như đang trong một giấc mơ.
3. Giá trị của tình huống
Như vậy, việc một anh con trai nghèo khổ, xấu xí lại nhặt được vợ một cách chóng vánh, dễ dàng chỉ bằng bốn bát bánh đúc và mấy câu đùa tầm phơ tầm phào ngay trong những năm tháng đói khát khủng khiếp nhất của quê hương, đất nước; đó là một chuyện lạ, là một tình huống đặc sắc giúp nhà văn gửi gắm những vấn đề lớn lao của cuộc sống con người, đưa đến cho tác phẩm những giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc.
3.1 Giá trị hiện thực
Tình huống kì lạ, độc đáo ấy đã giúp nhà văn phản ánh chân thực bức tranh hiện thực của làng quê VN khi việc nhặt vợ của Tràng chính trong nạn đói năm 1945, qua đó mà bộc lộ những nét sâu sắc nhất của tư tưởng nhân dạo. Không chỉ dừng lại ở bề mặt hiện thực với hình ảnh của bóng tối lạnh lẽo, của những đám người "dắt díu" nhau "xanh xám", "dật dờ", của những xác người "còng queo" hay âm thanh của tiếng quạ kêu "thê thiết", Kim Lân còn phản ánh bề sâu của hiện thực khi sự đói khát khiến giá trị cũng trở nên rẻ rúng, những điều đẹp đẽ, thiêng liêng của cuộc sống nên bi hài, chua chát. Qua câu chuyện nhặt vợ của Tràng, Kim Lân đã phản ánh bức tranh hiện thực ở cả bề mặt và bề sâu, đã thể hiện lòng xót thương da diết với số phận con người, tác phẩm cũng đồng thời là bản cáo trạng lên án, tố cáo mạnh mẽ tội ác của thực dân Pháp và phát xít Nhật đẩy nhân dân ta vào nạn đói khủng khiếp nhất trong lịch sử dân tộc.
a. Sự đói khát đã khiến cho hình hài, bộ dạng con người trở nên tiều tụy, thê thảm. Trẻ con xóm ngụ cư ủ rũ như những ông già, người lớn mặt "u tối", "hốc hác", người vợ nhặt mặc bộ quần áo "rách tả tơi như tổ đỉa", khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn hai con mắt
b. Sự đói khát đã khắc họa cả nhân cách con người. Điều này thể hiện chua xót nhất trong nhân vật người vợ nhặt.
Một người đàn bà phải vứt bỏ những ý tứ, những phép tắc xã giao, những xấu hổ, sĩ diện, bấu víu vào một câu hò đàu để kiếm miếng ăn thật; phải gạt phăng miếng trầu xã giao, lễ nghĩa để trọn bốn bát bánh đúc mong lấp đầy cái dạ dày, phải vứt bỏ cả lễ giáo và sự tự trọng bám vào một câu đùa tầm phơ tầm phào để theo không một người đàn ông xa lạ mong tìm chốn nương thân, hi vọng chạy trốn cái đói. Miếng ăn ngày đói đã trở thành sự khởi đầu và đích đến của một mối quan hệ thiêng liêng, trở thành yếu tố chi phối khốc liệt với nhân cách con người.
c. Sự đói khát khiến cuộc sống trở nên đau đớn, kì quái, con người không được sống cho ra con người.
"Vợ nhặt" là câu chuyện về một cuộc sống hôn nhân kì lạ: chàng và người đàn bà xa lạ nên vợ nên chồng bởi một câu hò bâng quơ (có hình ảnh của miếng ăn)! Một câu đùa tầm phơ tầm phào và bốn bát bánh đúc – cuộc hôn nhân không phải do tình yêu mà chỉ là "duyên kiếp" của những con người khốn khổ với nhau bắt đầu vì miếng ăn còn sau và khát vọng để chạy trốn cái đói, giá trị con người trở nên rẻ rúng, thảm hại: vợ vốn là thành phần quan trọng, đẹp đẽ trong cuộc đời người đàn ông lại được nhặt về như cỏ rác, việc lấy vợ vốn thiêng liêng trọng đại lại giống như một trò đùa óai ăm.
Tất cả những sự việc liên quan đến việc hôn nhân này đều bị hạ giá thê thảm: cô dâu cắp chiếc nón "rách tàn", mặc bộ quần áo tả tơi như tổ đỉa về nhà chồng, hai hào dầu đã là xa xỉ, hoang phí cho đám cưới, ngày đưa dâu chỉ có hai bóng người lủi thủi, âm thầm, lặng lẽ về làng, trong một buổi chiều ảm đạm, trong cái lạnh lẽo đầy âm khí của những làn gió ngăn ngắt thổi về từ ngòai đồng. Đêm thôn phảng phất mùi đốt đống giấm của nhà có người chết và tiếng khóc tỉ tê… Bữa cơm đầu tiên mẹ chồng đãi nàng dâu mới cũng thật thảm "giữa cái mẹt rách có độc một lùm rau chuối thái rối và một đĩa muối ăn với cháo… niêu cháo lõng bõng, mỗi người được có lưng lưng hai bát đã hết nhẵn" để rồi sau đó cháo cám trở thành cỗ cưới trong nỗi tủi hờn, ai óan của mọi người.
3.2 Tư tưởng nhân đạo
Không dừng lại ở sự xót thương cho thân phận con người qua bức tranh hiện thực ngày đói, Kim Lân còn thể hiện tư tưởng nhân đạo sâu sắc của mình trong việc khẳng định, ngợi ca, trân trọng và thể hiện niềm tin vào bản chất tốt đẹp của những con người biết vượt lên trên cái đói, cái thảm đạm để sống, để yêu thương, để vui và hi vọng.
a. Sự đói khát ko làm con người mất đi lòng nhân ái.
Lòng nhân ái đã thể hiện ngay trong việc nhặt vợ của Tràng, chia sẽ miếng ăn với một người xa lạ, đói khát không hẳn chỉ là bốc đồng, chia sẻ cuộc đời với một người đàn bà khốn khổ, xấu xí không hẳn là liều lĩnh đằng sau sự bốc đồng, liều lĩnh ấy là sự nhân ái. Ngay cách Tràng giới thiệu vợ với mẹ đầy trân trọng hàm ơn: "Nhà tôi nó về làm bạn với tôi ấy, u ạ", Kim Lân đã cho thấy trong lòng người đàn ông nghèo khổ và nhân hậu ấy chỉ có tình nghĩa, yêu thương mà khôg hề có sự rẻ rúng, khinh thường người "vợ nhặt".
Lòng nhân hậu, vị tha đặc biệt tập trung ở những nỗi niềm và cách ứng xử của bà cụ Tứ. Trước việc nhặt vợ óai ăm của con trai, trước việc phải gánh thêm một miệng ăn giữa những ngày đói khát, lòng bà cụ ngổn ngang những buồn vui tủi mừng lo những mọi nỗi niềm của bà đều xuất phát từ tình cảm xót thương vô bờ bến với cả con trai và con dâu. Khi chấp nhận người đàn bà đói khát làm con dâu, bà cụ Tứ đã bỏ qua không chỉ lễ giáo thông thường mà cả sự ám ảnh khủng khiếp của cái đói, của chết chóc, chấp nhận cưu mang một con người khốn khổ để vun đắp cho hạnh phúc con cái.
Biết trân trọng, yêu thương, biết chia sẻ, quan tâm, lo lắng cho nhau ngay trong cảnh khốn cùng. Đó là biểu hiện cao nhất của lòng nhân ái; câu chuyện nhặt vợ của Tràng đã cho thấy tấm lòng nhân ái của con người đã không thể bị hủy diệt trước sự đói khát, thậm chí trước sự đe dọa ghê gớm của cái chết.
b. Sự đói khát không làm con người mất đi khát vọng hạnh phúc.
Quyết định nhặt vợ liều lĩnh của Tràng, sau một thoáng phân vân, do dự, những "khuôn mặt hốc hác, u tối" của những người dân xóm ngụ cư "bỗng rạng rỡ hẳn lên" khi nhìn thấy Tràng dẫn vợ về trong buổi chiều chạng vạng; cảm giác mới mẻ, hạnh phúc trong lòng Tràng vào sáng hôm sau; nét mặt nhẹ nhõm, tươi tỉnh của bà cụ Tứ… Đó là những biểu hiện rõ nhất của niềm khát khao hạnh phúc, niềm mong ước được tìm đến với nhau, được sum vầy trong những mái ấm gia đình… – khát vọng ấy vẫn tồn tại trong tâm hồn những con người đang sống trên bờ vực hủy diệt.của sự đói khát.
Khát vọng hạnh phúc thương trực và bị khuất lấp sau nỗi đói khát đã xuất hiện một cách thật bất ngờ trong diễn biến tâm lí của người vợ nhặt.
• Lúc đầu, thị đi theo Tràng chỉ vì miếng ăn và hi vọng chạy trốn cái đói, khi tận mắt nhìn thấy gia cảnh nghèo khổ của Tràng, thị đã không nén nổi tiếng thờ dài thất vọng, buồn bã và tủi hổ – sự hiện hữu trong ngôi nhà ấy không phải là miếng ăn thị đang tìm kiếm mà là cái đói thị đang chạy trốn. Đó là lúc thị hòan tòan có thể quay đi, bước ra khổ người đàn ông nghèo khổ ấy, hoàn toàn có thể biến thật thành đùa như trước đó đã biến đùa thành thật.
• Vậy mà, thị vẫn ở lại, có lẽ thị đã đột ngột tìm thấy những điều thị không dám nghĩ đến trong hòan cảnh khốn khổ, đó là một gia đình hạnh phúc, những điều còn quí giá hơn cả miếng ăn, đó chính là tấm lòng nhân hậu của những người đã cưu mang, đùm bọc thị khi chính họ cũng đang đói khát. Có lẽ chính những điều đó đã khiến người đàn bà từng bất chấp tất cả để lăn xả vào miếng ăn, bám riết lấy sự sống phải ngạc nhiên, xúc động và hiểu rằng khi bước qua chiếc cổng tre nhà Tràng, trở thành người vợ hiền, dâu thảo, nếu may mắn sống qua những tháng ngày đói khát, thị sẽ có được hạnh phúc, có được mái ấm gia đình.
c. Sự đói khát không làm con người mất đi những khát vọng vào một tương lai tươi sáng, tốt đẹp hơn.
Việc Tràng mua hai hào dầu thắp đèn và nhất là thái độ đồng tình của bà cụ Tứ với việc làm có vẻ xa xỉ, bốc đồng của con trai: "Ừ, thắp lên một tí cho sáng sủa", đã cho thấy trong lòng những con người đang sống bên bờ vực của cái chết hình như vẫn ấp ủ một niềm tin mong manh và mãnh liệt về sự thay đổi cuộc đời, biết đâu từ sau niềm vui tỏa ra bởi ánh sáng của ngọn đèn dầu bé nhỏ, không gian sống của họ cũng sẽ bắt đầu sáng sủa hơn? Lần đầu tiên trong một truyện ngắn ngập chìm bóng tối, ánh sáng kì diệu, chói lóa đã trở lại trong buổi sáng hôm sau, đó cũng là ánh sáng của niềm vui, niềm hi vọng vào sự đổi đời, ánh sáng của nguồn sinh khí rạo rực tỏa ra trong cuộc sống gia đình.
Những lời bà cụ tứ động viên các con bằng triết lí dân gian: "Ai giàu ba họ ai khó ba đời", lo toan, cắt đặt công việc, việc bà cùng con dâu thu dọn cửa nhà cho quang quỏe, ý nghĩ ngây thơ, cảm tính mà thật vững chắc khi cho rằng chỉ cần thu xếp cửa nhà cho quang quỏe thì cuộc đời có thể khác đi, làm ăn có cơ khấm khá hơn!.. – đó là những chi tiết cho thấy người lao động không bi quan, tuyệt vọng, niềm tin vào sự tốt đẹp trong cuộc sống, niềm hi vọng vào một tương lai tươi sáng hơn luôn là nguồn sức mạnh để có thể vượt qua "cái đói", "cái thảm đạm".
Đặc biệt hình ảnh "lá cờ đỏ phấp phới" trong tâm trí Tràng ở cuối truyện đã khẳng định chắc chắn hơn cho niềm tin của những con người đói khát, đó là hình ảnh cho thấy khát vọng của những người dân xóm ngụ cư và mấy mẹ con Tràng không hề viển vông, hão huyền, đó là tín hiệu chắc chắn của sự đổi đời đã và sẽ hiện hữu trong hiện thực cuộc sống.
Tạo dựng một tình huống đặc sắc bởi sự tập trung cao độ yếu tố tương phản, những trớ trêu, éo le khi con người bị đẩy đến vực thẳm của cái đói, Kim Lân đã bộc lộc nỗi xót thương cho số phận con người, sự căm phẫn với bọn thực dân Pháp và phát xít Nhật đã đẩy nhân dân ta vào nạn đói khủng khiếp nhất trong lịch sử. Tuy nhiên cốt lõi sâu xa nhất trong tư tưởng của tác phẩm không chỉ dừng lại ở căm giận và xót thương mà chính là việc nhà văn đã thể hiện niềm tin yêu, trân trọng với con người đã khẳng định được ý nghĩa của truyện: "Trong sự túng đói quay quắt, trong bất cứ hòan cảnh khốn khổ nào, người nông dân ngụ cư vẫn khao khát vươn lên trên cái chết, cái thảm đạm để mà vui, để mà hi vọng… Khi đói, người ta không nghĩ đến con đường chết mà chỉ nghĩ đến con đường sống. Dù ở trong tình huống bi thảm đến đâu, dù kề bên cái chết vẫn khao khát hạnh phúc, vẫn hướng về ánh sáng, vẫn tin vào sự sống, vẫn hi vọng vào tương lai, vẫn muốn sống, sống cho ra con người"(Kim lân – 1985).
– Bài số 2
Nạn đói năm 1945 đã làm xúc động biết bao văn nghệ sĩ. Tố Hữu có bài Đói! Đói!, Nguyên Hồng có Địa ngục, Nguyễn Đình Thi có Vợ bờm, Tô Hoài có Mười năm… Kim Lân đóng góp vào đề tài trên một truyện ngắn xuất sắc – Vợ nhặt. Vợ nhặt đã tái hiện được cuộc sống ngột ngạt bức bối, không khí ảm đạm chết chóc của nạn đói khủng khiếp nhất trong lịch sử đồng thời cũng cho người đọc cảm nhận được sự quý giá của tình người và niềm tin của con người trong tình cảnh bi đát. Một trong những yếu tố làm nên sức cuốn hút của Vợ nhặt chính là ở chỗ nhà văn đã sáng tạo một tình huống truyện độc đáo, hấp dẫn.
Tình huống truyện đã làm nổi bật giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo của tác phẩm.
Vợ nhặt diễn ra trên bối cảnh của nạn đói năm 1945. Cái họa chết đói năm ấy là một cái họa khủng khiếp, không chỉ đói xóm, đói làng mà đói nửa đất nước từ Trung Bộ đến Bắc Bộ, từ thu đông năm 1944 đến xuân hè năm. Hậu quả là hơn hai triệu rưỡi đồng bào ta chết đói. Cái nghèo, cái đói đã từng được văn học đề cập đến. Nhưng cái nghèo, cái đói trong những tác phẩm của Ngô Tất Tố, Nam Cao làm ta thương cảm rơi nước mắt, còn cái đói trong tác phẩm của Kim Lân đã hiện hình cái chết. Cái chiết khiến ta kinh khiếp rụng rời. Cuộc sống đã bị đẩy đến thế cùng. Ngay từ đầu truyện đã hiện lên màu sắc tang thương của tử khí. Cái chết hiện thành hình “những xác người nằm còng queo, sáng nào đi chợ cũng thấy vài ba cái thây”. Cái chết hiện ra trong màu xanh xám của những người đang sống. Cái chết hiện ra trong “mùi gây của xác người, mùi khét của những đống rấm ở những nhà có người chết”. Cái chết hiện ra trong âm thanh thê thiết của tiếng quạ trên những cây gạo, tiếng hờ khóc tỉ tê như “vẳng lên từ cõi âm”. Cuộc sống bị bao vây trong không khí của sự chết chóc. Kẻ sống thì ủ rũ, hốc hác, bủng beo, gầy xọp, xám xịt. Đến Tràng, một người to béo, lưng rộng như lưng gấu cũng bước từng bước một đầu chúi về đằng trước như bị cái đói đè hẳn xuống. Cái chết lan tràn mọi nơi, cái sống chỉ còn thoi thóp, leo lét.
Giữa khung cảnh đó, Tràng, một người nông dân ở xóm ngụ cư vừa xấu vừa thô lại nghèo đói, không ai thèm để ý vậy mà bỗng dưng lại “nhặt” được vợ. Đây là một tình huống truyện đặc sắc, hấp dẫn. Từ tình huống này, truyện nổi bật ý nghĩa hiện thực và ý nghĩa nhân bản cao đẹp.
Tràng là một nhân vật có ngoại hình xấu. Trên “gương mặt thô kệch” là “hai con mắt nhỏ tí”, “quai hàm bạnh ra”. Đã thế, hình như Tràng còn dở người bởi “hắn có tật vừa đi vừa nói nhảm”, đôi khi “ngửa cổ lên cười hềnh hệch”. Tất cả những đường nét ấy cùng với dáng đi lầm lũi mỗi khi trở về xóm ngụ cư đã thể hiện rõ thân phận nghèo hèn của Tràng. Lời ăn tiếng nói của Tràng cũng cộc cằn, thô kệch như chính ngoại hình của anh ta, khi thì “rích bố cu", khi thì “làm đếch gì có vợ”, lại còn chửi cả những con chó “mẹ bố chúng mày”. Gia cảnh của Tràng cũng rất ái ngại: bố mất, mẹ già, nhà nghèo phải đi kéo xe bò thuê kiếm ăn. Nguy cơ “ế vợ” đã rõ. Đã vậy lại gặp năm đói khủng khiếp, cái chết luôn luôn đeo bám. Trong lúc không một ai (kể cả Tràng) nghĩ đến chuyện vợ con của anh ta thì đột nhiên Tràng có vợ. Một buổi chiều nhập nhoạng, có người đàn bà theo Tràng về làm vợ. Họ lủi thủi đi vào xóm ngụ cư trong khung cảnh tràn ngập tử khí, bóng đen của cái chết đói bao phủ mọi ngõ ngách. Trong hoàn cảnh đó, Tràng “nhặt” được vợ là nhặt thêm một miệng ăn cũng đồng thời là nhặt thêm tai họa cho mình, đẩy mình đến gần hơn với cái chết. Vì vậy, việc Tràng có vợ là một nghịch cảnh éo le, vui buồn lẫn lộn, cười ra nước mắt. Dân xóm ngụ cư ngạc nhiên, họ tò mò bàn tán: “Ai đấy nhỉ?”. Họ mừng cho Tràng, muốn chia sẻ với Tràng nhưng nguy cơ chết đói có thể ập xuống ngay nên họ lại lo cho anh: “biết có nuôi nổi nhau sóng qua được cái thì này không?”. Mọi người lo cho Tràng là lo cho cái sống bởi lúc này cái sống đang phải đối mặt với cái chết. Cái sống – cái chết đang giành giật nhau xung quanh cái ăn. Mọi người cùng nín lặng.
Bà cụ Tứ, mẹ Tràng lại càng ngạc nhiên hơn khi trông thấy người đàn bà đứng ngay đầu giường con mình lại chào mình bằng u. Bà lão chẳng hiểu gì, mãi đến khi Tràng nhắc: “Nhà tôi đấy u ạ. Nó mới về làm bạn với tôi đấy u ạ”, bà lão mới “cúi đầu nín lặng” với nỗi lo riêng mà rất chung: “Biết chúng nó có nuôi nổi nhau sống qua được cơn đói khát này không?”.
Bản thân Tràng cũng bất ngờ với chính hạnh phúc của mình: “Nhìn thị ngồi ngay giữa nhà đến bây giờ hắn vẫn còn ngờ ngợ”. Thậm chí sáng hôm sau Tràng vẫn chưa hết bàng hoàng.
Tình huống truyện mà Kim Lân xây dựng vừa bất ngờ lại vừa hợp lí. Nếu không phải giữa năm đói khủng khiếp ấy thì ai chịu lấy Tràng. Vả lại, Tràng lấy vợ có cheo cưới gì đâu. Tràng “nhặt” được vợ còn người vợ thì “theo không” Tràng. Nhưng nghịch cảnh lại chính là ở đó. Người như Tràng nuôi thân chẳng xong, nguy cơ chết đói đang rình rập mà Tràng còn dám lấy vợ.
Việc lấy vợ của Tràng cũng là nghịch cảnh của tình huống. Người Việt Nam bao đời nay coi việc lấy vợ là một trong ba việc lớn của đời người. Bởi vậy lấy vợ phải được tiến hành một cách thận trọng, tổ chức một cách long trọng. Ở đây thì ngược lại, Tràng lấy vợ mà như nhặt được một đồ vật bị ai đó đánh rơi hay vứt đi. Nhặt vợ là cái khốn cùng của cuộc sống. Cái đói quay quắt dồn đuổi đến mức người đàn bà chủ động gợi ý đòi ăn: “ăn gì thì ăn, chả ăn giầu”. Chỉ vì đói quá mà người đàn bà tội nghiệp này ăn luôn và “ăn liền một chặp bốn bát bánh đúc”. Chỉ cần vài lời nửa đùa nửa thật: “Này, nói đùa chứ có về với tớ thì ra khuân hàng cùng về” thị đã chấp nhận theo không Tràng. Giá trị con người bị phủ nhận khi chỉ vì cùng đường đói khát mà phải trở nên trơ trẽn, liều lĩnh, bất chấp cả e thẹn. Cái đói đã bóp méo cả nhân cách con người. Thật đau đớn khi chỉ với bốn bát bánh đúc đã se duyên được hạnh phúc. Đám cưới cũng thật là cả một sự mỉa mai. Con đường “đón dâu” chỉ có hai người với một gia sản tòng teng côi cút trong buổi chiều chạng vạng. Về nhà, cảnh hoang toàng với “một bát cháo loãng thếch”, một nồi “chè khoán” (thực chất là cháo cám) mà chỉ cần gợm một miếng cho vào miệng đã thấy “đắng chát, nghẹn bứ”. Một nỗi tủi hờn leo vào tâm trí mọi người. Họ cắm mặt ăn mà không dám nhìn nhau. Cái mong manh của sự sống, cái nguy cơ chết đói hiện ra trong bữa ăn đầu tiên.
Hạnh phúc của con người thật mỏng manh, tội nghiệp. Cái đói, cái chết đến gõ cửa cả làng, cả nước, hủy hoại cả ước mơ, khát vọng của con người đến nỗi “nhặt” được vợ mà còn lo “không biết có qua nổi”. Cái hạnh phúc “trời cho” của Tràng, của gia đình bà cụ Tứ cứ phải diễn ra giữa không khí thê lương, ảm đạm của chết chóc, của tiếng hờ khóc tỉ tê, tiếng quạ kêu trên những cây gạo… Kim Lân nói với chúng ta tất cả những điều đó để chúng ta chua xót cho cuộc đời, cho số phận con người.
Tóm lại, đặt nhân vật vào tình huống truyện đặc sắc, tình cảnh trớ trêu, éo le đó, Kim Lân đã làm nổi bật ý nghĩa hiện thực sâu sắc của tác phẩm. Vợ nhặt có sức tố cáo mạnh mẽ mà không cần tới những lời kết tội bọn thực dân, phát xít.
Tình huống truyện độc đáo cũng đã bộc lộ giá trị nhân đạo tích cực của tác phẩm. Điều mà Kim Lân muốn nói là: trong bối cảnh bi thảm, giá trị nhân bản không mất đi, con người vẫn cứ muốn được là con người, muốn được nên người và muốn cuộc đời thừa nhận họ như những con người. Nhà văn đã viết về “một nỗi khổ êm ái” bởi trong cảnh cùng cực đói khát và chết chóc, con người vẫn hướng tới sự sống. Tràng lấy vợ là để tiếp tục sự sống, để sinh con đẻ cái, để hướng đến tương lai. Đó chính là sức sống bất diệt của Vợ nhặt. Người đàn bà đi theo Tràng cũng để chạy trốn cái đói, cái chết để hướng đến sự sống. Bà cụ Tứ, một bà lão nhưng lại luôn nói đến chuyện tương lai, chuyện sung sướng về sau, nhen lên niềm hi vọng cho dâu con. Đó chính là sức sống bất diệt của Vợ nhặt.
Đặc biệt tình người, lòng nhân ái, sự cưu mang đùm bọc của những con người nghèo đói là sức mạnh để họ vượt lên cái chết. Lời nói của Tràng có thể có ý đùa cợt nhưng thái độ của Tràng đối với người phụ nữ đói khát không hề là một sự đùa cợt. Xuất phát điểm là ở tình người. Bên trong con người có vẻ thô ráp xù xì là một tấm lòng nhân ái. Trong hoàn cảnh lúc ấy, nhường nhau miếng ăn là cả một nghĩa cử cao đẹp, hào hiệp. Thấy người phụ nữ quả quyết theo mình, Tràng rất lo nhưng lại không nỡ từ chối. Cái chặc lưỡi của Tràng là cái chặc lưỡi đầy tính nhân văn, đầy lòng nhân ái. Khi quyết định gắn mạng sống của mình với người phụ nữ ấy, trong Tràng nảy sinh những tình cảm mới mẻ. Nhà văn đã rất tinh tế khi miêu tả sự biến đổi này: cảm giác êm dịu của một anh Tràng lần đầu tiên đi cạnh cô vợ mới “cưới”; cảm giác lâng lâng hạnh phúc của anh ta khi sáng mai thức dậy thấy mình là người đã có gia đình. Chi tiết “hai hào dầu” thật cảm động và giàu ý nghĩa. Câu nói chân thật đến hồn nhiên của Tràng: “vợ mới vợ miếc cũng phải cho nó sáng sủa một tí chứ” ẩn chứa cả một sự trân trọng con người hết sức lớn lao. Đâu phải cứ “vợ nhặt” thì thế nào cũng được, vứt đi cũng được.
Nên nhớ, một nhân vật của Nam Cao (Điền trong Giăng sáng) – trí thức hẳn hoi và cũng chưa rơi vào tình cảnh bi đát như Tràng nhưng đã lấy ánh sáng của đêm trăng để “tiết kiệm hai xu dầu” (2 hào gấp 10 lần 2 xu). Với Tràng, hai hào dầu không chỉ thể hiện sự trân trọng con người. Đó còn là sự trân trọng hạnh phúc bởi hạnh phúc thật đáng quý và cũng thật mong manh. Ánh sáng của ngọn đèn dầu đêm ấy sẽ là ánh sáng của tình người, sự ấm áp của hạnh phúc đồng thời cũng là ánh sáng của niềm tin và hi vọng. Tràng đã thắp lên trong ngôi nhà tồi tàn giữa xóm ngụ cư tăm tối một đốm sáng của niềm tin vào một ngày mai tốt đẹp hơn.
Người vợ nhặt của Tràng được Kim Lân miêu tả rất ít song đây là một nhân vật không thể thiếu. Sự có mặt của con người này đã là một đột biến, một bước ngoặt. Thiếu người phụ nữ này thì Tràng vẫn chỉ là anh cu Tràng của ngày xưa, bà cụ Tứ vẫn mòn mỏi, lặng thầm trong đau khổ và cả xóm ngụ cư nữa, chắc chắn không ấm áp lên được. Người phụ nữ xuất hiện không tên, không tuổi, không quê, trong tư thế “vân vê tà áo dài đã rách bợt” như “rơi” vào giữa thiên truyện để Tràng “nhặt” làm vợ. Từ chỗ nhân cách bị bóp méo vì cái đói, thiên chức, bổn phận làm vợ, làm dâu được đánh thức khi người phụ nữ này quyết định gắn sinh mạng mình với Tràng. Chị cũng nảy sinh những tình cảm mới mẻ, cũng biết “trách yêu” chồng, đặc biệt là cách cư xử mộc mạc, dáng vẻ e thẹn khi về làm dâu nhà người, cách vun đắp, thu vén cho “căn nhà hạnh phúc”. Chính chị đã làm cho niềm hi vọng của mọi người trỗi dậy khi kể chuyện ở Bắc Giang, Thái Nguyên người ta đi phá kho thóc Nhật.
Khi nói về ước vọng ở tương lai, niềm tin vào hạnh phúc… ta dễ nghĩ đến những người trẻ tuổi nhưng Kim Lân lại khám phá ra một nét độc đáo. Đó là bà cụ Tứ. Không phải ngẫu nhiên mà nhà văn dành tới gần nửa thiên truyện để viết về bà cụ Tứ và cũng không phải vô tình mà bà cụ Tứ là nhân vật duy nhất nhà văn miêu tả không có những nét hài hước, sự kính trọng thấm đượm trong từng câu văn. Bà cụ Tứ là hiện thân của nỗi khổ con người: khổ vì nghèo, vì đói, vì chồng chết phải nuôi con một mình và khổ hơn vì sắp đi gặp ông nhà rồi mà vẫn không lo được vợ cho con. Người mẹ ấy đã nhìn cuộc hôn nhân éo le của con thông qua toàn bộ nỗi đau khổ của cuộc đời bà. Bà lo lắng trước thực tế quá nghiệt ngã. Bà mừng một nỗi mừng sâu xa. Từ ngạc nhiên đến xót thương nhưng trên hết vẫn là tình yêu thương, lòng nhân hậu. Bà nói với con những lời khuyên nhủ chân thành. Hai tiếng “u – con” vừa ấm cúng vừa chan chứa tình thương. Dường như bà cố giấu những lo lắng để mà vui, mà mừng. Bà đã chuẩn bị thêm cho đôi vợ chồng mới cưới một món ăn đặc biệt trong bữa cơm ảm đạm đầu tiên. Bà gọi là “chè khoán” cũng là để dâu con dễ nuốt cái món nấu bằng cám ấy. Rồi bà khen “ngon đáo để”, bà an ủi động viên, so sánh “xóm ta khối nhà còn chẳng có cám mà ăn”. Cho đến khi ai nấy “nghẹn bứ” không nuốt nổi nhưng rồi không ai nỡ nói ra vì họ đã cố tránh cho nhau những tổn thương, vì họ biết trân trọng tình cảm mà người khác mang lại cho mình. Có được một bữa ăn dù là cám trong lúc cả xã hội đang chết đói là hạnh phúc đáng quý mà bà mẹ đã mang lại cho các con. Cũng chính bà cụ là người nói nhiều nhất về tương lai, một tương lai rất cụ thể thiết thực với những gà, lợn, ruộng, vườn… một tương lai khiến các con tin tưởng bởi nó không quá xa vời.
Tình cảm yêu thương, cưu mang, đùm bọc nhau của những con người cùng cảnh ngộ trong khi cái đói, cái chết đang rình rập là cái phần đẹp nhất trong mỗi nhân vật của Kim Lân. Giữa cái đói khủng khiếp, con người vẫn giữ được những tình cảm tốt đẹp, tấm lòng nhân hậu vị tha là điều không dễ dàng. Các nhân vật của Kim Lân khác với các nhân vật của Nam Cao ở chỗ đó. Nếu Nam Cao muốn rung những hồi chuông cảnh báo về nguy cơ băng hoại tình người, băng hoại nhân cách con người và gửi đi thông điệp: “Hãy cứu lấy con người!” thì Kim Lân muốn khẳng định tình người cao đẹp và giá trị con người không bao giờ bị hủy diệt. Kim Lân muốn gửi đi thông điệp: “Hãy tin ở con người”.
Nhặt được vợ là thế cùng. Đoạn kết mở ra thế biến: “Ngoài đình làng bỗng dội lên một hồi trống dồn dập” và trong óc Tràng hiện lên “đám người đói đi trên đê sộp và lá cờ đỏ bay phấp phới”. Kim Lân đã khéo léo mở ra đoạn kết vừa bất ngờ vừa hợp lí. Hình ảnh lá cờ đỏ trong tâm trí của mẹ con Tràng vừa xa vừa gần, vừa cụ thể vừa trừu tượng. Hình ảnh ấy hứa hẹn một tương lai tươi sáng, tốt đẹp vượt khỏi cảnh ngộ bi đát. Điều này cũng góp phần lí giải tại sao nhà văn chọn bối cảnh không gian cho thiên truyện của mình từ một buổi chiều u ám đến một buổi bình minh tươi đẹp. Đây cũng chính là chỗ khác nhau cơ bản trong giá trị hiện thực và nhân đạo của văn học cách mạng so với dòng văn học hiện thực phê phán trước đó.
– Bài số 3
Trong nền văn xuôi Việt Nam hiện đại, Kim Lân trở thành một gương mặt độc đáo, chứng tỏ quy luật thú vị: Sáng tác nghệ thuật “quý hồ tinh bất quý hồ đa”. Kim Lân viết không nhiều, trong 50 năm lao động nghệ thuật, ông chỉ có hai tập truyện ngắn nhưng mỗi tác phẩm của ông ra đời luôn tạo được ấn tượng sâu sắc cho độc giả. Trong đó Vợ nhặt là tác phẩm tiêu biểu nhất, hội tụ, kết tình tài năng nghệ thuật của Kim Lân. Truyện ngắn này hấp dẫn người đọc ngay từ tình huống truyện độc đáo.
Truyện ngắn Vợ nhặt từng được nhiều người không ngần ngại gọi là kiệt tác. thần bút Vợ nhặt có tiền thân là truyện Xóm ngụ cư được viết ngay sau Cách mạng tháng Tám. Người Việt Nam ai đã từng sống qua năm 1945 chắc khó có thể quên nạn đói khủng khiếp cướp đi sinh mạng hai triệu đồng bào. Nếu Cách mạng tháng Tám là một cơn bão táp lịch sử lớn thì đứng trước cơn bão ấy dân tộc ta đã phải trải qua không khí ngột ngạt, cùng cực của cái đói. Đó chính là bối cảnh hiện thực của truyện ngắn Vợ nhặt. Dựa trên nền hiện thực ấy Kim Lân đã sáng tạo tình huống truyện độc đáo để diễn tả niềm vui, hạnh phúc và khát vọng sống ở những người lao động nghèo khổ.
Tình huống truyện là sự kiện đặc biệt của đời sống được nhà văn sáng tạo theo lối lạ hóa.
Nói như Nguyễn Minh Châu, “tình huống truyện là lát cắt, là khúc của đời sống nhưng qua đó, ta hiểu được trăm năm của đời thảo mộc”. Có thể nói tình huống là một môi trường để nhân vật bộc lộ sắc nét tính cách của mình. Trong truyện Vợ nhặt, đó là tình huống “nhặt” được vợ.
Truyện ngắn thông thường được xây dựng trên một tình huống độc đáo. Chính từ đây tính cách và số phận của nhân vật, chủ đề tác phẩm được thể hiện rõ nét. Tính cách độc đáo, tình huống truyện mà Kim Lân sáng tạo nên ngay từ cái tên tác phẩm Vợ nhặt. Xưa nay lấy vợ lấy chồng luôn được xem là sự kiện hệ trọng của một đời người. Vậy mà Tràng bỗng dưng nhặt được vợ về như nhặt một thứ rơi vãi ngoài đường. Một người đàn ông nghèo túng, xấu xí, lại là dân ngụ cư thế mà được một người đàn bà tự nguyện theo về làm vợ hẳn hoi. Kì lạ hơn nữa là Tràng dám đem vợ về giữa những ngày đói kém, khi cái chết vì đói đang rình rập đe dọa. Kim Lân mở đầu truyện bằng một cuộc trở về đầy lạ lùng. So với những lần trước thì lần trở về này chẳng có gì khác về thời gian, về con đường quanh co nhưng lần này Tràng mang một tâm trạng khác hẳn. Niềm khấp khởi trong lòng người đàn ông nghèo khổ được vợ ấy toát lên nơi gương mặt, ánh mắt: “mặt hắn có vẻ gì phởn phơ khác thường”. Hắn tủm tỉm cười một mình và hai mắt thì sáng lên lấp lánh. Phút chốc Tràng quên hết đói khổ ê chề trước mắt mà chỉ thấy tình nghĩa với người đàn bà đi bên. Phải thấu hiểu và trân trọng niềm vui hạnh phúc ở người dân nghèo khổ đến chừng nào mới diễn tả được cảm giác này “một cái gì mới mẻ lạ lẫm mơn man khắp da thịt Tràng tựa hồ có một bàn tay vuốt nhẹ sống lưng”. Sự xuất hiện của người đàn bà ấy đã khuấy động lên cái không khí tối sầm của xóm ngụ cư nghèo khổ. Bọn trẻ con chạy theo trêu Tràng, còn người lớn thì xôn xao bàn tán. Thoạt đầu họ nghĩ đó là bà con Tràng nhưng rồi dáng vẻ e thẹn, ngượng ngùng của người đàn bà nọ đã mách người ta về sự thực. Một lúc sau bỗng có tiếng cười lên rung rúc “Hay là vợ anh cu Tràng? Ư khéo là vợ anh cu Tràng thật anh em ạ, trông chị ta thèn thẹn hay đáo để”.
Kim Lân đã quan sát tài tình một tình huống thú vị và diễn tả nó đúnp bằng lời ăn tiếng nói của người quê.
Sự xuất hiện của người đàn bà lạ khiến mọi người xóm ngụ cư ngạc nhiên đã đành, thú vị hơn nữa là chính Tràng cũng ngạc nhiên. Người trong cuộc, người đã dẫn vợ về mà cứ ngạc nhiên với việc mình đã có vợ. Khi đã đem người đàn bà vào nhà nhìn thị ngó ngoáy giữa nhà mình mà Tràng cứ đi ra đi vào suy nghĩ vẩn vơ. “Ra hắn có vợ rồi đẩy ư? Hà!”. Việc xảy ra thật hắn cũng không ngờ, hắn cũng chỉ “tâm phơ tâm phào”, đâu có hai bận ấy thế mà thành vợ thành chồng. Từ thuở cha sinh mẹ đẻ đến giờ Tràng đâu đã được một người con gái nào để ý đến. Thậm chí đến sáng hôm sau ngày có vợ Tràng vẫn chưa hết ngạc nhiên. Buổi sáng ấy, Tràng trở dậy muộn hơn, trong người cảm thấy lửng lơ êm ái như vừa trong giâc mơ đi ra “Việc hắn có vợ đến hôm nay hắn vẫn còn ngỡ ngàng như không phải”. Người đàn ông nghèo khổ ấy chưa thể thích ứng với niềm vui khá mới mẻ, với bước ngoặt quá đột ngột trong đời mình.
Tại sao có sự việc lạ lùng trên, có những sự ngạc nhiên ấy? Như thể giải đáp cho người đọc, Kim Lân ngược dòng thời gian hai lần tầm phơ tầm phào mà nên vợ nên chông, ở đây, chúng ta được chứng kiên nghệ thuật đảo ngược trình tự thời gian của Kim Lân. Chuyện Tràng có được vợ thật buồn cười, chỉ hai lần tình cờ gặp gỡ, chỉ mấy câu nửa đùa nửa thật mà người đàn bà nọ bám lấy Tràng, đã sẵn sàng trao gửi cuộc đời mình nơi Tràng. Nhưng nghĩ ra ta thấy thị còn biết bám vào đâu nữa. Dân gian có câu Chết đuối bám phải cọc thì chính là tình cảnh của người phụ nừ này. Đằng sau tiếng cười, người đọc nhận ra một sự thật xót xa, đó chính là cái đói và chi có cái đói khủng khiếp là tác nhân duy nhất để đẩy hai con người ấy lại gần với nhau rồi nên vợ nên chồng. Đây chẳng có màu sắc của tình yêu hay tình nghĩa, chỉ hai lần gặp gỡ mà người đàn bà nọ biến đổi khác hẳn. Lần trước thị còn lon ton chạy lại đẩy xe cho Tràng, còn liếc mắt cười tít khiến chàng sung sướng lắm. Nhưng lần sau vừa thấy Tràng đang uống nước ở cổng chợ tỉnh thì thị từ đầu sầm sầm chạy đến rồi sưng sỉa trách móc. Cái đói đã làm thị tiều tụy, hốc hác khiến Tràng chưa thể nhận ra “hôm nay thị rách quá, áo quần tả tơi như tô đỉa, thị gây xọp hẳn đi. Trên cái khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ nhìn thấy còn hai con mắt”. Khi được mời ăn hai con mắt trũng hoáy của thị tức thì sáng rực lên. Thị sà xuống ăn một chặp bốn bát bánh đúc liền chẳng chuyện trò gì. Quả là cái đói khiến con nguời ta mất hết thể diện, quên hết tình tứ. Chính từ đây ta nhận ra một phần giá trị hiện thực lớn lao của truyện ngăn Vợ nhặt. Câu chuyện của người phụ nữ này sống dậy thảm cảnh đói năm 1945 mà dân tộc ta đã phải gánh chịu. Cúng từ đây chúng ta hiểu vì sao Kim Lân không đặt cho người vợ nhặt của Tràng một tên riêng mà lại dùng đại từ chung là “thị”’ Nào cần một cái tên riêng cho thân phận của người phụ nữ này vì ở thị có bóng dáng của bao người phụ nữ lúc bây giờ. Không biết bao nhiều người vì cái đói, vì sự sinh tôn cũng đành cư xử như thị. Trong thảm cảnh ấy, thị không hơn gì một cái rơm, cái rác mà người ta có thể nhặt được ở nơi đầu đường xó chợ. Phải chăng đó là ý nghĩa tiêu biểu, điển hình của nhân vật. Dầu sao chuyện nên vợ nên chồng cũng đã thành sự thật. Trở về hiện tại, người đọc chúng ta lại đứng trước sự chờ đợi mới liệu bà cụ Tứ có chấp nhận người vợ nhặt của Tràng không?”. Cuộc sống của gia đình này rôi đây sẽ ra sao, mọi người cư xử với nhau như thế nào. Kim Lân đã đặt các nhân vật của mình vào tình huống thử thách éo le để khám phá vẻ đẹp của tình thương, của khát vọng hạnh phúc. Ở đây là rách ít đùm rách nhiều. Ngay mẹ con Tràng cũng đang lo lắng với miếng ăn, chuyện cái chết vì đói đe dọa. Vậy mà họ vẫn sẵn sàng che chở, cưu mang người đàn bà ấy. Bà cụ Tứ vui vé chấp nhận người con dâu, an ủi, động viên vợ chồng Tràng chịu khó bảo nhau mà làm ăn. Buổi tối ấy ngọn đèn dầu được thắp lên trong căn nhà lạnh lẽo, tâm tối bấy lâu nay. Ánh sáng của ngọn đèn hay chính là ánh sáng của niềm vui mang đến với những con người nghèo khổ. Từ tình huống này, Kim Lân đã khẳng định được rằng những người đói không hướng đến cái chết mà chí hướng đến sự sống, dù phải ở hoàn cảnh đói khổ nghiệt ngã đến mấy người dân lao động vẫn biết vui với những gì mình đang có, vân lâp lánh Niềm tin vào tương lai.
Thiên truyện khép lại bằng hình ảnh Tràng ngồi tư lự nhớ đến Việt Minh. Trong đầu Tràng vẫn thấy hình ảnh đám người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới. Vậy là Kim Lân đã mở ra trước mắt các nhân vật của mình dự cảm về sự đấu tranh, về sự đổi đời. Không biết bà cụ Tứ, không biết vợ chồng Tràng có vượt qua nổi cơn đói mà sống đến ngày cách mạng thành công hay không? Dẩu sao khép lại trang cuối cùng của truyện ngán Vợ nhặt người đọc vẫn mong, vẫn tin
Rằng họ sẽ là một trong số những người góp phần làm nên cơn bão táp Cách mạng tháng Tám.
Là hạt nhân của cấu trúc thể loại, tình huống truyện trong Vợ nhặt đóng vai trò rất quan trọng giúp nhà văn dựng được chân dung nhân vật một cách sắc nét đồng thời thể hiện được tự nhiên, sâu sắc tư tưởng nghệ thuật của nhà văn. Đến với truyện ngắn Vợ nhặt, chúng ta bắt gặp một cái nhìn ưu ái của người lao động, một ngòi bút tài hoa khi dựng tình huống, khi tả cảnh, tả người. Kim Lân cứ dân người đọc đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác. Vợ nhặt gồm nhiều tình huống được thay đổi linh hoạt nhờ sự tổ chức nghệ thuật của nhà văn. Bởi thế đây là tác phẩm đa dạng đan xen nhiều màu sắc thẩm mĩ. Ở đây có đen tối nghiệt ngã khác thường mà cũng tươi sáng lấp lánh lạc quan, vừa hài mà cũng vừa bi. Nói cách khác, đây là câu chuyện cười ra nước mắt để người đọc thấm thía hơn cái nghèo, cái đói và niềm vui sống đáng quý của người dân lao động.
– Bài số 4
Tình huống truyện giữ vai trò quan trọng trong sự thành công của một truyện ngắn. Tình huống là một sự kiện giúp nhân vật bộc lộ các mối quan hệ, khả năng ứng xử, tính cách, đôi khi tình huống truyện còn tạo ra những bước ngoặt lớn trong cuộc đời các nhân vật. Thông qua tình huống truyện tác giả gửi gắm tới độc giả những tâm tư, tình cảm, chủ đề của tác phẩm. Đối với truyện ngắn Vợ nhặt, nhà văn Kim Lân đã xây dựng được một tình huống truyện rất độc đáo, hấp dẫn những cũng đầy nghịch cảnh éo le.
Truyện ngắn Vợ nhặt lấy bối cảnh nạn đói khủng khiếp năm Ất Dậu (1945). Một không gian năm đói được mở ra trước mắt bạn đọc với những con người “hốc hác, u tối” giống bóng ma xanh xám, dật dờ, ngoài đường xác người chết ngổn ngang “ba bốn cái thây nằm còng queo bên đường”, “không khí vẩn lên mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người” càng tô đậm thêm cảnh tang tóc, thê lương. Giữa bối cảnh ấy anh Tràng một anh chàng nông dân vừa nghèo, vừa xấu, lại là dân ngụ cự, vậy mà thông qua vài câu nói đùa bâng quơ lại có người gọi là “vợ” theo về. Đây quả là một tình huống vừa lạ vừa độc và không bị trùng lặp với bất kỳ truyện ngắn nào từ trước từ giờ.
Khi nhìn thấy anh Tràng có vợ theo về mọi người trong xóm Ngụ Cư lạ lắm, họ lo cho anh “Ôi chao! Giời đất này còn rước cái của nợ đời về. Biết có nuôi nổi nhau sống qua được cái thì này không?”. Bà cụ Tứ mẹ anh là người hiểu anh nhất cũng tỏ ra rất bất ngờ khi thấy anh có vợ. Thấy có người đàn bà nào đứng ngay ở đầu giường con mình, bà cụ cứ ngơ ngác tự hỏi: “ Quái sao lại có người đàn bà nào ở trong ấy nhỉ? Sao lại chào mình bằng u? Ai thế nhỉ?” Bà cụ cảm thấy khó hiểu. Nghèo như con bà ai người ta thèm lấy mà có vợ được. Bà nghĩ giữa cái nạn đói quái ác này nuôi thân chẳng nổi thì lấy gì nuôi nổi vợ con? Bản thân Tràng thì vẫn chưa tin rằng mình đã có vợ, anh vẫn lâng lâng chưa thực sự tin vào hiện tại, anh ta “ vẫn ngờ ngợ như không phải thế”.
Thông qua một tình huống bất ngờ, oái oăm như vậy tác giả Kim Lân đã giúp các nhân vật bộc lộ sâu sắc tính cách và khắc họa rõ nét tâm trạng của mỗi người. Bà cụ Tứ tâm trạng đầy mâu thuẫn, bà vừa vui mừng vừa tủi, vừa thương vừa lo lắng:”Chao ôi, người ta dựng vợ gả chồng cho con trong lúc trong nhà ăn nên làm nổi, những mong sinh con đẻ cái mở mày mở mặt sau này”. Lòng bà cụ ngổn ngang đầy lo lắng. Mừng vì dù sao con mình cũng có vợ “ừ, thôi thì các con phải duyên phải kiếp với nhau u cũng mừng lòng..”, nhưng xen vào đó là nỗi tủi nhục của người mẹ già yếu khó khăn, lam lũ:”người ta gặp bước khó khăn, đói khổ này, người ta mới lấy đến con mình. Mà con mình mới có vợ được..”
Anh Tràng có vợ vừa mừng vừa lo. Mới đầu anh ta thấy “chợn”, nhưng liền sau đó chặc lưỡi mặc kệ. Trên đường đưa vợ về nhà, thấy người ta tò mò nhìn ngó, “ mặt hắn có một vẻ gì phớn phở khác thường. Hắn tủm tỉm cười nụ một mình và hai mắt sáng lên lấp lánh”. Niềm hạnh phúc đến với anh quá bất ngờ đến nỗi anh ta không tin rằng mình đã có vợ. Mãi đến sáng hôm sau anh vẫn còn thấy “ trong người êm ái lửng lơ như vừa ở trong giấc mơ đi ra”. Và chính niềm vui ấy làm cho anh thấy mình đã trưởng thành thật sự, lúc này anh cảm thấy lo lắng cho tương lai của anh, của mẹ, của vợ và cả những đứa con anh sau này nữa.
Tuy là nhân vật phụ nhưng lại được chú ý nhiều nhất đó chính là nhân vật Thị. Đối với người khác lấy chồng là chuyện thiêng liêng cả đời nhưng đối với người phụ nữ này thì chỉ là một cái “tặc lưỡi” cho xong. Chị ta không biết Tràng là ai, tốt xấu thế nào, nhà cửa ra sao. Chỉ qua vài câu chuyện tào lao và bốn bát bánh đúc Thị đã theo về làm vợ người ta. Cái đói cái nghèo đã đẩy người đàn bà đến chỗ chẳng còn biết xấu hổ là gì, mất hết ý thức tự trọng, thấy mình không hơn gì cái rơm cái rác, người ta có thể nhặt được nơi đầu đường xó chợ.
Thông qua tình huống truyện nhặt được vợ của anh Tràng tác giả Kim Lân đã tên án tố cáo tội ác của đế quốc Nhật và Pháp. Chúng đã gây ra cho dân ta nạn đói khủng khiếp năm 1945. Tác giả đã đưa độc giả đến với câu chuyện của một gia đình xóm Ngụ Cư nghèo khổ, đến với câu chuyện lấy được vợ của anh Tràng bằng vài bát bánh đúc. Tác giả buộc người đọc phải trăn trở, phải suy nghĩ, day dứt mãi không thôi khi mà thân phận con người bị khinh thường, dẻ dúng không bằng cỏ rác.
Tình huống truyện đầy éo le nghịch cảnh đã đẩy nhân vật bên bờ vực cái chết, nhưng qua tâm trạng của các nhân vật chúng ta cảm thấy ấm lòng vì họ vẫn còn niềm tin vào sự sống, vào tình yêu vào cái gọi là “tình cảm gia đình”. Họ mơ ước về một cuộc sống gia đình hạnh phúc, ấm no, có mẹ có vợ, có chồng và cả những đứa con. Đó là những ước mơ rất đỗi giản dị. họ vẫn luôn tin vào một ngày mai tươi sáng giống như các cụ xưa vẫn nói “không ai giàu ba họ, không ai khó ba đời”. Niềm tin đó như được chắp thêm đôi cánh khi ánh sáng Cách mạng với lá cờ đỏ Việt Minh bay phấp phới xuất hiện trong câu chuyện của bà mẹ gà và đôi vợ chồng trẻ trong bữa cơm đoàn viên đầu tiên của gia đình họ.
Tác phẩm Vợ nhặt đã đưa người đọc đến với cuộc sống ấm áp đầy tình người của gia đình bà cụ Tứ. Khi gấp lại cuốn truyện chúng ta cảm thấy xót xa xen lẫn hạnh phúc với những thân phận con người trong xã hội lúc bấy giờ, càng khâm phục tài năng viết truyện ngắn của tác giả Kim Lân đặc biệt là khả năng xây dựng tình huống truyện.
Thanh Bình tổng hợp