21/02/2018, 09:42

Phân tích nhân vật Tnú trong tác phẩm Rừng xà nu

– Bài số 1 Nguyễn Trung Thành là một nhà văn giàu tài năng. Ông có những thành công nổi bật ngay từ sáng tác đầu tay (Đất nước đứng lên, giải nhất về tiểu thuyết, giải thưởng của đội văn nghệ Việt Nam trao tặng 1954 – 1955). Trong cả hai cuộc kháng chiến của dân tộc ông gắn bó mật thiết với ...

– Bài số 1

Nguyễn Trung Thành là một nhà văn giàu tài năng. Ông có những thành công nổi bật ngay từ sáng tác đầu tay (Đất nước đứng lên, giải nhất về tiểu thuyết, giải thưởng của đội văn nghệ Việt Nam trao tặng 1954 – 1955). Trong cả hai cuộc kháng chiến của dân tộc ông gắn bó mật thiết với chiến trường Tây Nguyên. Nhà văn sống hòa đồng, hiểu biết nhiều về lòng khát khao độc lập, tự do, tinh thần cách mạng quật khởi, bất khuất của đồng bào dân tộc thiểu số. Đó cũng là một trong những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến thành công của truyện ngắn Rừng xà nu được ông sáng tác vòa mùa hè 1954, khi đế quốc Mĩ tấn công quyết liệt miền Nam nước ta. Tác phẩm này đã đạt giải thưởng văn nghệ Nguyễn Đình Chiểu 1965 và được in trong tập Trên quê hương những anh hùng Điện Ngọc. Tnú là hình tượng nhân vật được Nguyễn Trung Thành xây dựng rất thành công trong thiên truyện.

Trước hết, ta thấy Tnú là một con người rất gắn bó với cách mạng, gan góc, dũng cảm, linh hoạt, táo bạo và trung thực. Ngay từ thuở nhỏ, Tnú đã dám một mình vào rừng tiếp tế cho anh Quyết, cán bộ cm mà không sợ bị bắt treo cổ lên cây vả đầu làng hay bị chặt đầu cột tóc treo đầu súng như anh Xút, bà Nhan. Còn khi học chữ thua Mai thì “nổi nóng, đập bể cái bảng nứa trước mặt Mai và anh Quyết, bỏ ra suối ngồi một mình suốt ngày”, “cầm hòn đá, tự đập vào đầu, chảy máu ròng ròng”. Khi bị giặc vây các ngả đường, Tnú “leo lên một cây cao nhìn quanh một lượt rồi xé rừng mà đi”. Qua sông, “không thích lội chỗ nước êm, cứ lựa chỗ thác mạnh mà bơi ngang, vượt lên một nước, cưỡi lên thác bang bang như một con cá kình” vì nghĩ rằng: “qua chỗ nước êm, thằng Mĩ – Diệm hay phục, chỗ nước mạnh nó không ngờ”. Một lần, ngậm vào miệng cái thư định vượt thác thì bị giặc bắt phục kích, Tnú linh hoạt, nhanh trí nuốt luôn cái thư. Khi bị giặc bắt, quấn giẻ lên mười đầu ngón tay, lấy lửa đốt, Tnú không kêu lên một tiếng nào mà còn trợn mắt nhìn kẻ thù trừng trừng: “Anh không cảm thấy lửa ở mười đầu ngón tay nữa. Anh nghe lửa cháy trong lồng ngực, cháy ở bụng. Máu anh mặn chat đầu lưỡi. Răng anh cắn nát môi anh rồi. Anh không kêu lên (…) Tnú không thèm, không thể kêu van”. Mặc dù mỗi ngón tay chỉ còn hai đốt và phải chứng kiến tận mắt kẻ thù giết hại vợ con nhưng Tnú vẫn vượt lên mọi đau đớn, bi kịch cá nhân hang hái gia nhập bộ đội Giải phóng để trả thù cho quê hương và những người thân.

Mặt khác, Tnú là một con người có tính kỉ luật cao. Mặc dù ba năm đi lực lượng vũ trang của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam, phải xa quê hương, xa mái ấm gia đình, xa người thâ, xa bạn bè, nỗi nhớ choán đầy cả cõi lòng nhưng anh không tự ý về thăm làng. Anh xin giấy phép của cấp trên, có chữ kí của người chỉ huy, trung thực trình cho chị Dít và dân làng kiểm tra trong chuyến về phép. Sau một đêm nghỉ phép, anh trở lại đơn vị đúng qui định, gửi lại sau lưng một khoảng trời nhung nhớ, luyến lưu.

Hơn nữa, Tnú là một con người giàu tình yêu thương. Anh yêu bản làng tha thiết. Anh xúc động khi trở về thăm làng. Anh vừa đi theo sự hướng dẫn tận tình của bé Heng, vừa bồi hồi nhớ lại những kỉ niệm ngày trước. Gặp lại môt cây lớn ngã ngang đường, anh nhớ lại lúc cây này chưa ngã, anh đã gặp Mai lần đầu. Chính Mai đã bày tỏ tình yêu chân thành, thắm thiết đối với anh. Mai cầm hai bàn tay anh lúc ấy còn lành lặn, “ứa nước mắt khóc, không phải như một đứa trẻ nữa mà như một người con gái đã lớn, vừa xấu hổ vừa yêu thương. Kỉ niệm đó cắt vào lòng anh như một nhát dao cứa. Anh trợn mắt lên, như những lúc bị tra tấn đau quá trước đây”. Anh thổn thức nỗi lòng khi nhận ra tiếng chày dồn dập của làng anh – “tiếng chày chuyên cần, rỗn rã của những người đàn bà và những cô gái Strá, của mẹ anh ngày xưa, của Mai, của Dít”. Tiếng chày ấy chính là trung tâm nỗi nhớ day dứt, nhớ mênh mang khiến ngực đập liên hồi dù cố giữ bình tĩnh và “ chân cứ vấp mãi mấy cái rễ cây ở chỗ quẹo vào làng”. Còn khi cụ Mết dẫn anh ra mái nước đầu làng, đu đã rửa ở suối rồi, nhưng anh vẫn xúc động để cho vòi nước của làng mình giội lên khắp người như ngày trước. Thêm vào đó, anh là người yêu thương vợ con da diết. Không đi Kon Tum mua vải được, anh tự tay xé đôi tấm đồ (mảnh vải đắp) duy nhất của mình ra để làm tấm choàng cho Mai địu con. Trong cơn bi kịch, nấp ở gốc cây cạnh máng nước đầu làng, nhìn thấy cảnh kẻ thù hành hạ vợ con một cách man rợ, thú tính, lòng anh quặn thắt, tái tê. Anh đã bứt đứt hàng chục trái vả mà không hề hay biết. Rồi anh bỏ gốc cây, “chồm dậy”, “hét dữ dội”, “nhảy xổ vào bọn lính”. Hai cánh tay rộng lớn như hai cánh lim chắc của anh ôm chặt lấy mẹ con Mai. Anh nguyền rủa: “Đồ ăn thịt người, tau đây! Tnú đây!…” nhưng anh đã không cứu được vợ con thoát khỏi bàn tay hung bạo, đẫm máu của bọn giặc dữ. Đó là nỗi xót xa, đau đớn, cay đắng nhất của một người chồng, một người cha. Hơn nữa, yêu thương mọi người bằng tất cả tấm lòng mình: vì lẽ đó nên Tnú vừa về đến làng, dân làng từ trẻ đến già như lũ trẻ, bé Heng, các cô gái, anh Pre, chị Blom, bà cụ Leng, bà già Prôi, ông già Tâng, cụ Mết đều ré lên, reo lên, vồn vã, vây chặt quang Tnú mừng rỡ không xiết.

Đặc biệt, Tnú là một con người có lòng căm thù giặc sâu sắc. Chứng kiến cảnh người thân bị hành hạ tàn nhẫn, ngọn lửa căm thù trong lòng Tnú bốc cháy ngùn ngụt. Hai con mắt của anh như hai cục lửa lớn. Khi bị giặc dùng nhục hình, anh thét lên một tiếng. Chỉ một tiếng thôi. Nhưng tiếng thét của anh bỗng vang dội thành nhiều tiếng thét dữ dội hơn! Sau này, anh dứt khoát, lạnh lùng trừng trị đích đáng kẻ đã gây tàn tật cho mình. “Anh bóp chết kẻ thù bằng chính hai bàn tay cụt của mình”.

Nhìn chung, cuộc đời và vẻ đẹp riêng của nhân vật Tnú được kết tụ lại trong hai bàn tay ấn tượng: bàn tay hận thù và bàn tay rửa thù.

Có thể nói, Tnú là hình tượng nhân vật mang ý nghĩa điển hình cho số phận và con đường cách mạng của dân làng Xô Man. Bi kịch của cuộc đời Tnú không phải là bi kịch riêng của một cá nhân. Cả làng Xô Man có không ít người có số phận cay đắng, đau đớn, chua xót, ngậm ngùi, bất hạnh như nhân vật Tnú. Vậy nên, bi kịch cuộc đời Tnú mang ý nghĩa điển hình. Vả lại, Tnú là một anh hùng. Cụ Mết, anh Quyết, Mai, Dít, bé Heng cũng là những anh hùng. Cả làng Xô Man anh hùng. Do đó, Tnú là biểu tượng cao đẹp cho những phẩm chất anh hùng, hiên ngang, bất khuất, kiên cường, dũng cảm của núi rừng Tây Nguyên. Hơn thế nữa, con đường cách mạng của nhân vật Tnú gắn liền với con đường cách mạng do anh Quyết làm đại diện, gắn liền với con đường cách mạng của dân làng Xô Man, gắn liền với con đường đấu tranh giải phóng dân tộc dưới sự lãnh đạo sáng suốt, tuyệt vời của Đảng ta. Vì vậy, hành động cách mạng của Tnú có sức thôi thúc, ảnh hưởng đến toàn bộ dân làng: “Thế là bắt đầu rồi. Đốt lửa trên! Tất cả người già, người trẻ, người đàn ông, người đàn bà, mỗi người phải tìm lấy một cây giáo, một cây mác, một cây vụ, một cây rựa. Ai không có thì vót chông, năm trăm cây chông. Đốt lửa lên!”.

Tóm lại, nhân vật Tnú trong truyện ngắn Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành là một hình tượng mang vẻ mĩ học sâu sắc và dạt dào chất sử thi. Tnú chính là nhân vật điển hình đại diện cho cả cộng đồng, sống chết với cộng đồng, gắn bó mật thiết, chặt chẽ với số phận lich sử của cộng đồng. Tnú xứng đáng là một trong những nhân vật tiêu biểu nhất của chủ nghĩa anh hùng Cách mạng Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước.

– Bài số 2

Nguyễn Trung Thành là nhà văn trưởng thành trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ. Ông là nhà văn có công đưa mảnh đất Tây Nguyên hoang sơ đến với văn học hiện đại Việt Nam. Truyện ngăn Rừng xà nu là tác phẩm tiêu biểu của ông. Tác phẩm đã xây dựng thành công hình tượng nhân vật Tnú, người con kết tinh mọi vẻ đẹp của nhân dân Tây Nguyên trên nền tập thể nhân dân anh hùng và hình tượng rừng xà nu hùng vĩ trong những ngày kháng chiến chống Mĩ gay go, ác liệt.

Rừng xà nu (1965) ra mắt lần đầu tiên trên Tạp chí văn nghệ quân giải phóng miền Trung Trung bộ (số 2- 1965), sau đó được in trong tập Trên quê hương những anh hùng Điện Ngọc.

Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, hiệp định Giơ-ne-vơ được kí kết, đất nước chia làm hai miền. Kẻ thù phá hoại hiệp định, khủng bố, thảm sát, lê máy chém đi khắp miền Nam. Cách mạng rơi vào thời kì đen tối. Đầu năm 1965, Mĩ đổ quân ồ ạt vào miền Nam và tiến hành đánh phá ác liệt ra miền Bắc. Rừng xà nu được viết vào đúng thời điểm mà cả nước ta trong không khí sục sôi đánh Mĩ. Tác phẩm được hoàn thành ở khu căn cứ của chiến trường miền Trung Trung bộ.Thông qua câu chuyện về những con người anh hùng ở một buôn làng hẻo lánh, bên những cánh rừng xà nu bạt ngàn, xanh bất tận, tác giả đã đặt ra một vấn đề có ý nghĩa lớn lao của dân tộc và thời đại: Để cho sự sống của đất nước và nhân dân mãi mãi trường tồn, không có cách nào khác hơn là phải cùng nhau đứng lên, cầm vũ khí đứng chống lại kẻ thù tàn ác.

Tnú là nhân vật trung tâm của tác phẩm. Câu chuyện về cuộc đời anh là câu chuyện được sử thi hóa qua lời kể của cụ Mết. Cuộc đời Tnú gắn liền với cuộc đời làng Xô Man. Âm hưởng sử thi chi phối tác giả trong khi xây dựng nhân vật này. Tác giả xuất phát từ vấn đề cộng đồng để phản ánh đời tư của Tnú. Tnú được xây dựng như hình tượng một nhân vật mang tính lí tưởng. Nhà văn lấy nguyên mẫu từ anh Đề, người dân tộc Xơ-đăng, ỏ Tây Nguyên. Năm 1959, anh Đề đã cùng mười chàng trai trong bản giết toàn bộ một tiểu đội lính Diệm và bắt đầu cuộc chiến đấu vũ trang.

Tnú là con của dân làng Xô Man. Dân làng Xô Man nuôi dưỡng, đùm bọc anh, cưu mang anh. “Nó là người Sa Trá mình, cha mẹ nó chết sớm, làng Xô Man này nuôi nó. Đời nó khổ nhưng bụng nó sạch như nước suối làng ta”. Chính tình thương yêu của đồng bào đã đem lại cho anh niềm tin yêu cuộc sống, tin vào chính mình, gắn bó sâu sắc với bản làng quê hương, với những gì thân thuộc như tiếng chày giã gạo của những cô gái, con nước mát lạnh đầu bản, những cụ già, những em nhỏ, …sau ba năm đi lực lượng, được về thăm làng, Tnú thấy bồi hồi, xúc động trước cảnh vật thân thuộc quê hương.

Ngay từ nhỏ anh đã là người gan dạ, dám đi tiếp tế lương thực cho cán bộ, làm liên lạc cho cán bộ từ xã lên huyện. Và cũng từ đấy Tnú bộc lộ một trí tuệ hơn người. “Nó không thích lội nước chỗ êm cứ lựa chỗ thác mạnh mà bơi, vượt lên mặt nước, cưỡi lên thác băng băng như con cá kình” bởi theo Tnú “Qua chỗ nước êm thàng Mĩ – Diệm hay phục, qua chỗ nước mạnh nó không ngờ”. Giặc vây các ngả dường thì Tnú leo lên một cây cao, nhìn quanh một lượt rồi xé rừng mà đi, lọt qua tất cả các vòng vây. Tnú nghe theo anh Quyết, cố học chữ để sau này thay anh lãnh đạo cách mạng. Quyết tâm học chữ của Tnú thể hiện dứt khoát trong hành động tự đạp hòn đá vào đầu, máu chảy ròng ròng khi cậu thua Mai trong việc nhớ những con chữ. Tnú từ nhỏ đã tâm niệm trong đầu câu nói của cụ Mết: Cán bộ là Đảng, Đảng còn, núi nước này còn.

Tnú là hiện thân của sự trung thành tuyệt đối với cach mạng, với Đảng, là hiện thân của sự khoẻ mạnh với bộ ngực rộng rãi, hai cánh tay khoẻ chắc như lim, là sự bất khuất kiên cường đã được thử thách qua tra tấn dã man và sự tù đày cuả kẻ thù. Tnú cường tráng như một cây xà nu lớn. Tnú không hề biết sợ hãi, không hề biết khuất phục dù tàn bạo có hiện hình trong mũi súng hay lưỡi dao chém ngang dọc trên lưng. Trong một lần chuyển thư của anh Quyết gửi về huyện, Tnú bị giặc bắt. Họng súng chĩa vào tai lạnh ngắt, Tnú kịp nuốt luôn cái thư. Giặc giam cầm, tra khảo Tnú dã man, lưng Tnú dọc ngang vết dao chém nhưng anh quyết không khai một lời. Anh tìm cách vươt ngục về làng và tiếp tục sự nghiệp lãnh đạo dân làng chuẩn bị chiến đấu. Sức mạnh của anh dường như tăng thêm bởi sự hun đúc của một tình yêu lớn với một người con gái luôn luôn hiền dịu, nhượng nhìn, của một gia đình hạnh phúc cùng Mai và đứa con nhỏ.

Vậy mà bằng ấy cái có, Tnú đã không cứu dược mẹ con Mai khỏi bị kẻ thù giết hại. Cuộc đời Tnú gắn liền với những đau thương mà không chỉ riêng anh gánh chịu. Cái đau đớn mang trên thân xác Tnú là hiện hữu cái đau thương của dân làng Xô Man trong chiến tranh Mái ấm gia đình từng là mơ ước của biết bao đôi thanh niên ấy bỗng chốc tan nát bởi sự tàn ác của kẻ thù. Mai và con anh bị kẻ thù giết chết ngay trước mắt anh. Tnú không cứu được vợ, được con, đau đớn hơn chính bản thân anh cũng trở thành nạn nhân của sự bạo tàn mà kẻ thù đang sử dụng. Vì Tnú cũng chỉ có tay không giữa quân thù đầy vũ khí. Hình ảnh mười đầu ngón tay rừng rực cháy bởi nhựa xà nu như mười ngọn đuốc không chỉ có ý nghĩa tố cáo tội ác quân thù hay nói lên lòng dũng cảm của người chiến sĩ cách mạng mà còn nói lên một chân lí sâu sắc và tàn nhẫn: khi một Tnú có ý chí mà tay không thì ngay thứ nhựa xà nu thân thiết cái khối chất thơm ngào ngạt và như đọng nắng quê hương kia cũng có thể trở thành ngọn lửa hủy diệt chính những bàn tay vẫn hằng ngày chăm sóc, vun trồng cho nương rẫy.

Tnú không cứu được mẹ con Mai. Không thể chiến đấu với quân thù bằng tay không và lòng căm thù mù quáng. Nhưng Tnú không chìm đắm trong đau thương mất mát, anh biết vượt qua nỗi đau ấy, biến đau thương thành căm hơn và tôi luyện ý chí chiến đấu. Bị giặc bắt sau khi Mai chết, Tnú không nghĩ đến bản thân mà chỉ lo lắng đến việc ai sẽ tiếp tục lãnh đạo dân làng kháng chiến khi Đảng phát lệnh. Chỉ còn cách cầm vũ khí, lúc đó lửa xà nu sẽ tắt trên bàn tay của Tnú. Lửa xà nu chỉ còn soi xác giặc ngổn ngang. Núi rừng Xô Man sẽ ào ào rung động. “Chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo …”. Đó là một chân lí lớn của cách mạng miền Nam: phải dùng bạo lực cách mạng để chống lại bạo lực phản cách mạng.

Sau khi được cụ Mết và thanh niên giải thoát bằng chính giáo mác anh và buôn làng mài, Tnú gia nhập lực lượng chính quy. Và có lẽ việc Tnú đi lực lượng cũng bắt nguồn từ lí tưởng đó. Anh đi lực lượng để hiện thực hóa việc “cầm giáo” mà cụ Mết truyền dạy và cũng để có điều kiện chiến đấu chống lại kẻ thù xâm lược. Ra đi để trả thù nước, rửa thù nhà. Dù bàn tay anh mỗi ngón chỉ còn hai đốt, nhưng cử động được có nghĩa là cầm súng được. Anh đi bộ đội, trở thành tấm gương lớn soi sáng cả một thế hệ ở làng Xô Man. Đối với dân làng, Tnú là một biểu tượng cho sức mạnh, niềm tin và ý chí. Bên cạnh cụ Mết, người cha tinh thần, Tnú là hiện thân của những khát vọng vươn lên. Mỗi một việc làm của anh đều đem lại sự nhận thức cho mọi lứa tuổi. Anh về thăm quê, cấp trên cho chỉ có một đêm, mặc dù nhớ làng bản, nhớ người thân nhưng anh vẫn vui vẻ bởi có chấp hành nghiêm túc nội qui quân đội mới là Tnú. Chính những lúc vui vẻ nhất, anh định đùa nhưng những ánh mắt chờ đợi của mọi người anh lại thôi. Bởi ở anh một lời nói, một hành động đều có thể để lại một tầm ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống và tinh thần của người dân Xô Man.

Khi xây dựng nhân vật Tnú, Nguyễn Trung Thành đặc biệt dụng công miêu tả đôi bàn tay của anh. Từ đôi bàn tay này, người đọc có thể thấy hiện lên không những cả cuộc đời mà cả những tính cách của nhân vật. Khi còn lành lặn, bàn tay Tnú là bàn tay nghĩa tình, thẳng thắn. Đấy là bàn tay cầm phấn học chữ do cán bộ dạy, bàn tay cầm đá ghè vào đầu để trừng phạt cái tội không nhớ mặt chữ, bàn tay đặt lên bụng để chỉ cộng sản ở đây… Tuy vậy ấn tượng mạnh nhất về đôi bàn tay của Tnú chính là đoạn cao trào của truyện, cũng là đọan đời bi tráng nhất của nhân vật. Giặc quấn giẻ tẩm dầu xà nu vào mười đầu ngón tay và đốt. “Mười ngón tay anh đã trở thành mười ngọn đuốc”, thiêu cháy cả ruột gan Tnú, anh “nghe lửa cháy trong lồng ngực, cháy ở trong bụng. Máu anh mặn chát ở đầu lưỡi”. Chứng kiến cảnh kẻ thù dã man đốt hai bàn tay của Tnú, dân làng Xô Man không thể kiềm chế được nữa đã bột phát vùng lên tiêu diệt lũ giặc, mở ra tràn sử đấu tranh mới của dân làng. Từ đây bàn tay của Tnú thành tật nguyền, mỗi ngón chỉ còn hai đốt và như một chứng tích về tội ác của kẻ thù mà Tnú mang theo suốt đời. Đến cuối tác phẩm, bàn tay tật nguyền đấy vẫn tiếp tục cầm súng giết giặc, vẫn có thể giết chết tên chỉ huy đồn địch dù nó cố thủ trong hầm. Như vậy, có thể nói bàn tay Tnú được miêu tả trải dài theo suốt cả câu chuyện. Dường như mọi nét tính cách cũng như số phận và chiến công của Tnú đều gắn liền với hình ảnh hai bàn tay ấy.

Cũng như nhiều nhân vật văn học thời chống Mĩ, Tnú được xây dựng bằng bút pháp lãng mạn, giầu chất lí tưởng, là kết tinh vẻ đẹp anh hùng của người dân Tây Nguyên. Qua nhân vật này Nguyễn Trung Thành muốn thể hiện một số phận nhất là con đường của nhân dân Tây Nguyên, nhân dân Miền Nam trong quá trình đấu tranh giải phóng: cần phải dùng bạo lực cách mạng để chống lại bạo lực phản cách mạng.

– Bài số 3

Truyện ngắn Rừng xà nu là tác phẩm xuất sắc viết về đề tài miền núi, đề tài chiến tranh, cách mạng. Truyện ngắn này đã đạt giải thưởng Văn học Nguyễn Đình Chiểu năm 1965. Rừng xà nu phản ánh cuộc đấu tranh của đồng bào Tây Nguyên chống Mĩ Ngụy, làm ngời lên lòng yêu nước bất khuất và sức sống kiên cường của người dân Tây Nguyên nói riêng, đồng bào miền Nam nói chung. Tác phẩm Nguyễn Trung Thành nổi bật ở cảm hứng lãng mạn và khuynh hướng sử thi trong văn học giai đoạn 1945 – 1975. Nổi bật lên trong truyện ngăn Rừng xà nu là nhân vật Tnú.

Tnú là hình tượng điển hình cho tính cách người dân Tây Nguyên, điển hình cho con đường đẩu tranh đến với cách mạng của người dân Tây Nguyên, làm sáng tỏ một chân lí thời đại đánh Mĩ: “chúng nó đã cầm súng mình phải cầm giáo”. Qua hình tượng nhân vật Tnú, người đọc còn thấy được nghệ thuật giàu chất sử thi ở truyện ngắn Rừng xà nu.

Ở Tnú vừa có những tính cách đặc trưng riêng, vừa điển hình cho tính cách Tây Nguyên Tnú là người có tính cách trung thực, gan góc, dũng cảm, cái chất Tây Nguyên này đã thấm sâu vào Tnú từ khi còn nhỏ. Lúc Tnú và Mai dẫn đường tiếp tế lương thực cho cán bộ, được anh Quyết dạy cho cái chữ. Học chữ thua Mai. Tnú đã đập vỡ bảng, lấy đá đập vào chảy máu để đưa được cái chữ vào trong đầu. Điều đó chứng tỏ Tnú là một cậu bé có nghị lực và gan góc, kiên cường. Sự gan góc, dũng cảm của cậu bé Tây Nguyên này càng bộc lộ khi đối diện với kẻ thù. Làm liên lạc mang tài liệu cho cán bộ, gặp địch Tnú nuốt luôn tài liệu. Khi kẻ thù tra tấn đánh đập anh, chúng hỏi cộng sản đâu, Tnú dõng dạc đặt tay lên bụng trả lời "Ở đây này”.

Ở nhân vật Tnú, hình tượng đôi bàn tay gây một ấn tượng sâu sắc, hình tượng hai bàn tay là hình tượng mang tính cách, hai bàn tay khi còn lành lặn là đôi bàn tay nghĩa tình. Đôi bàn tay ấy còn biết cầm phấn học cái chữ anh Quyết dạy cho, cũng đôi bàn tay ấy đã lấy đá ghè đầu tự trừng phạt mình khi không học được cái chữ. Khi Tnú thoát ngục Kon Tum trở về, Mai đón anh ở tận đầu làng, chị cầm đôi bàn tay Tnú mà rưng rưng nước mắt. Đôi bàn tay Tnú bị giặc đốt giờ mỗi ngón chỉ còn hai đốt, vĩnh viễn không bao giờ mọc lại. Nhưng với đôi bàn tay cụt đốt ấy Tnú vẫn cầm vũ khí lên đường chiến đấu. Đó là đôi bàn tay mang sức mạnh căm hờn.

Trong cuộc sống cũng như chiến đấu, Tnú có tính kỉ luật cao, tuyệt đối trung thành với cách mạng.

Tham gia lực lượng đấu tranh đánh Mĩ, Tnú rất nhớ quê hương nhưng anh chỉ về thăm quê khi được phép của cấp trên. Bằng rừng, lội suối qua bao hiểm nguy Tnú mới về đến làng nhưng anh cũng chỉ ở lại quê đúng một đêm rồi lại lên đường về đơn vị.

Khi Tnú bị giặc đốt mười đầu ngón tay Tnú vẫn không kêu nửa lời: “Anh không cảm thấy lửa ở mười đầu ngón tay nữa. Anh nghe lửa cháy trong lồng ngực, cháy ở ngực máu anh mặn chát ở đầu lưỡi, rằng anh cắn nát môi anh rồi. Tnú cắn răng chịu đựng bởi anh tâm niệm lời dặn anh Quyết, lời dặn của Đảng “người cộng sản không thèm kêu van”. Lòng trung thành tuyệt đối với cách mạng của Tnú cũng giống như lòng trung thành của cụ Mết – người già bản vẫn thường dặn con cháu: "Đảng còn, sông núi này còn". Từ lòng trung thành đối với cách mạng Tnú đã lên đường chiến đấu, mang theo niềm vui, sự tin tưởng vào thắng lợi cách mạng.

Tnú là người giàu lòng yêu thương nhưng cũng cháy bỏng căm hờn. Yêu thương hay căm hờn đều mang tính cách Tây Nguyên.

Tnú là người bạn nghĩa tình khi Mai còn nhỏ, người yêu thủy chung của Mai khi đà trưởng thành và là người chồng, người cha đầy trách nhiệm. Ke thù không bắt được Tnú, chúng đã bắt Mai và đứa con nhỏ đánh đập, hành hạ dã man để lung lạc tinh thần Tnú. Chứng kiên cảnh Mai và đứa con nhỏ bị dùng gậy sắt đánh đập dã man, Tnú xông ra cứu mặc dù trong tay không có vũ khí. Động lực nào đã thôi thúc Tnú để anh xông vào kẻ thù với tất cả sức mạnh rừng thiêng. Động lực ghê gớm chỉ xuất phát từ một trái tim cháy bỏng yêu thương và căm hờn. Tnú cũng là người con nghĩa tình của buôn làng. Anh lớn lên trong sự yêu thương đùm bọc của người dân Strá. Tnú gắn bó tha thiết với mảnh đất quê hương với những cánh rừng xà nu. Anh thuộc lòng từng con đường mòn, từng con suối nhỏ. Anh lên đường chiến đẩu để giải phóng quê hương. Tnú xứng đáng là tấm gương chung để cụ Mết giáo dục con cháu.

Lòng căm thù của Tnú cũng mang tính cách Tây Nguyên. Tnú mang trong mình ba mối thù lớn: mối thù bản thân, gia đình và buôn làng. Lưng Tnú dọc ngang những vết dao chém, mười ngón tay anh bị đốt, là những chứng tích tội ác của kẻ thù mà anh mang theo suốt đời. Vợ con anh bị chết thảm khốc dưới cây gậy sắt của giặc, là mối thù lớn của gia đình mà anh không bao giờ quên. Những cánh rừng xà nu bị giặc tàn phá, những người dân vô tội làng Xô Man bị giặc sát hại là mối thù mà anh không đội trời chung với Mĩ – Ngụy. Mang trong tim ba mối thù lớn ấy, với đôi bàn tay mỗi ngón chỉ còn hai đốt anh vẫn cầm vũ khí đi tìm những thằng Dục để trả thù. Đối với Tnú đã là giặc thì thằng nào cũng tàn ác như thằng Dục. Cuối cùng Tnú đã giết chết tên chỉ huy đồn địch nay trong hầm cố thủ của hắn. Anh trừng phạt kẻ thù không phải bằng súng, bằng dao mà bằng chính đôi bàn tay trừng phạt, đôi bàn tay quả báo. Kẻ thù đã gây tội ác thì chúng phải chết bằng chính chứng tích mà chúng gây nên.

Tnú không chỉ điển hình cho tính cách Tây Nguyên mà còn điển hình cho con đường đấu tranh đến với cách mạng của người dân Tây Nguyên. Làm sáng tỏ chân lí thời đại đánh Mĩ: “chúng nó đã câm súng mình phải cầm giáo”.

Bi kịch của Tnú là bi kịch cá nhân nhưng đồng thời là bi kịch mang ý nghĩa điển hình cho con đường đấu trành đến với cách mạng của người dân làng Xô Man. Người dân Strá cũng phải chịu bao đau thương như Tnú. Bà Nhan bị chặt đầu, cắt tóc, bêu đầu súng. Anh Xút bị treo cổ lên cây và đầu làng. Mảnh đất và cánh rừng xà nu bị đạn pháo giặc tàn phá, cả rừng xà nu không cây nào không bị thương. Bi kịch Tnú khi chưa cầm vũ khí cũng là bi kịch của người dân làng Xô Man khi chưa giác ngộ chân lí: “Chúng nó cầm súng mình cầm giáo” (lời cụ Mết).

Tnú hội tụ trong mình sức mạnh cá nhân, sức mạnh thể chất và cả sức mạnh tinh thần. Anh cường tráng như một cây xà nu lớn. Chứa trong lồng ngực anh là sức mạnh phi thường, hoang dại của núi rừng Tây Nguyên. Chảy trong huyết quản anh là dòng máu anh hùng của Tây Nguyên bất khuất có từ thời Đăm San. Tnú gan góc, dũng cảm, không có sức mạnh tàn bạo nào có thể khuất phục được anh, dù sự tàn bạo ấy hiện hình thành lưỡi dao, thành mũi súng hay ngọn lửa…

Với sức mạnh cá nhân to lớn nhưng khi Tnú tay không trước kẻ thù tàn bạo có vũ khí thì anh vẫn thất bại đau đớn.

Vợ con anh vẫn chết một cách thảm khốc. Anh không cứu được Mai và đứa con thơ, bản thân anh bị giặc bắt, bị giặc đốt mười đầu ngón tay. Lửa đốt bàn tay Tnú lại là lửa chảy từ nhựa xà nu. Cái thứ nhựa xà nu hiền lành, cái khói thơm ngạt ngào như đọng lắng quê hương ấy lại trở thành ngọn lửa hủy diệt chính đôi bàn tay đã vun trồng nên rừng xà nu, đôi bàn tay ấy đã từng chăm sóc cho cây xà nu. Đây là bài học xót xa, đau đớn khi người dân không cầm được vũ khí trước kẻ thù tàn bạo.

Tnú được cứu khi người dân Xô Man cầm vũ khí đứng lên tiêu diệt kẻ thù. Sau bao ngày vào rừng mài dao, mài rựa rèn giáo, rèn mác, sau bao ngày chuẩn bị vũ khí người dân Strá đã nhất tế nổi dậy, đi đầu là cụ Mất. Với sức mạnh của lòng yêu quê hương đất nước, họ đã chém gục thằng Dục, giết cả tiểu đội lính ác ôn. dập lửa cứu đôi bàn tay Tnú và giải cứu cho anh. Người dân làng Xô Man đã nổi dậy với cả sức mạnh tinh thần và sức mạnh võ trang để giải phóng buôn làng.

Con đường đấu tranh của Tnú từ sự bột phát đến tham gia lực lượng vũ trang đánh Mĩ là con đường đấu tranh từ tự phát đến tự giác của người dân làng Xô Man. Con đường ấy chính là phải vũ trang đứng lên chiến đấu tiêu diệt kẻ thù dưới sự lãnh đạo của Đảng.

Nếu truyện ngắn Rừng xà nu đậm chất dân tộc và chất sử thi thì hình tượng nhân vật Tnú là sự minh chứng cho đặc điểm nghệ thuật này.

Tnú mang tính cách Tây Nguyên. Điển hình cho tính cách Tây Nguyên đó chính là tính cách của những người trung thực, gan góc, dũng cảm. Những con 

người giàu lòng yêu thương mà cũng cháy bỏng căm hờn. Những con người có lòng tin tuyệt đối vào cách mạng. Để khắc hoạ tính cách nhân vật Tnú, nhà văn chú ý miêu tả ngôn ngữ đối thoại thẳng thắn, ngắn gọn, chú ý miêu tả mạnh mẽ quyết liệt. Nếu cụ Mết có khí thế ào ạt như thác lũ Tây Nguyên thì Tnú có tinh thần kiên cường, bất khuất, tư thế vững chãi như núi rừng Tây Nguyên.

Cuộc nổi dậy của người dân Xô Man và cuộc đời bi tráng của Tnú được kể lại trong đêm anh về thăm làng. Duới mái nhà ưng (nhà rông), những người dân làng Xô Man quây quần bên bếp lửa trong không khí một đêm thiêng liêng, bên bếp lửa bập bùng lời người già bản cất lên: “Nghe rõ chưa, các con, rõ chưa. Nhớ lấy, ghi lấy. Sau này tao chết rồi, phải nói lại cho con cháu: Chúng nó đã cầm súng mình phải cầm giáo”. Lời kể của cụ Mết trầm hùng vang lên như lời phán truyền của lịch sử. Nó gợi lại không khí của những lời kê “khan” rất quen thuộc ở người dân Tây Nguyên, những bài kê khan như hát suốt đêm nói về bộ tộc, bộ lạc, nói về chiến công của những người anh hùng. Cuộc đời bi tráng của Tnú và cuộc nổi dậy của dân làng Xô Man là câu chuyện của hiện tại nhưng qua lời kể khan của cụ Mết thì câu chuyện của hiện tại đã mang không khí màu sắc lịch sử. Chính điều này đã tạo nên một khoảng cách sử thi, đã tạo nên sự chiêm ngưỡng mang tính chất sử thi. Nhân vật Tnú qua lời kê khan của cụ Mết làm người đọc liên tưởng đến vẻ đẹp của những người anh hùng, dũng sĩ của bản trường ca, các bản sử thi Tây Nguyên.

Tiếp theo hình tượng nhân vật anh hùng Núp trong tiểu thuyết Đất nước đứng lên, Nguyễn Trung Thành (một bút danh khác của Nguyên Ngọc) đã xây dựng thành công nhân vật Tnú – một nhân vật mang tính cách điển hình cho Tây Nguyên bất khuất. Với Đất nước đúng lên viết trước đó và Rừng xà nụ viết trong thời kì kháng chiến chống Mĩ, Nguyên Ngọc thuộc số nhà văn đầu tiên đã mở cánh cửa văn học vào Tây Nguyên. Và trên mảnh đất này ông đã xây dựng được những lâu đài nghệ thuật trong kí ức của người đọc và cho đến hôm nay Nguyên Ngọc vẫn là nhà văn viết đúng nhất, hay nhất về Tây Nguyên.

– Bài số 4

Vào một đêm ngoài rừng mưa rì rào như gió nhẹ, dưới ánh lửa xà nu bập bùng, tất cả dân làng Xôman già trẻ gái trai nghe cụ Mết, một già làng có thân hình vạm vỡ quắc thước, mắt sáng xếch ngược, râu rài ngang ngực kể về cuộc đời đầy bi hùng của Tnú.
Lúc còn bé đến khi trở thành chiến sĩ.

Tnú là người con của dân làng Xôman, cha mẹ mất sớm và được dân làng cưu mang, nuôi dưỡng. Cũng như người dân làng "có cái bụng thương núi, thương nước", Tnú đã sớm có lòng yêu thương nhân dân, làng xóm. Từ tấm lòng này, Tnú đã mở rộng thành tình yêu gắn bó trung thành thủy chung sâu nặng với Cách mạng, cán bộ Cách mạng. Bởi ngay từ khi còn là một cậu bé, Tnú được cụ Mết, người gìn giữ và truyền ngọn lửa Cách mạng từ thế hệ này sang thế hệ khác cho hay: "Cán bộ là Đảng. Đảng còn nước non này còn". Vì vậy ngay từ chặng đầu của cuộc đời, Tnú đã xuất hiện với tư cách của người anh hùng Tây Nguyên thời chống Mỹ. Dù còn nhỏ, Tnú đã sớm tỏ ra gan góc táo bạo, đầy quả cảm như Kim Đồng, Lê Văn Tám, Vừ A Dính… Bất chấp sự vây lùng khủng bố dã man của kẻ thù, chặt đầu những người đi nuôi cán bộ – đầu anh Xút, bà Nhan đang bị chúng treo lủng lẳng đầu bản xóm, Tnú đã cùng với Mai xung phong vào rừng bảo vệ  anh Quyết, một cán bộ trung kiên của Đảng. Đây là một công việc vô cùng khó khăn và đầy nguy hiểm nhưng Mai à Tnú đã làm rất tốt để dân làng Xô man mãi tự hào " Năm năm chưa hề có cán bộ bị giặc bắt hoặc bị giết ở trong rừng".

Tnú còn là một người có phẩm chất chính trực, trong sáng, trung thực, thẳng thắn như cây xà nu. Tnú quyết tâm học cho được cái chữ Cụ Hồ để trở thành cán bộ giỏi thay anh Quyết, nếu không may anh Quyết bị hy sinh. Tnú có cái đầu sáng lạ lùng trong việc tìm đường rừng để đưa thư cho anh Quyết. Nhưng Tnú học chữ hay quên. Bởi vậy, khi học chữ thua Mai, Tnú đã tự trừng phạt cái tội hay quên của mình bằng cách "cầm hòn đá tự đập vào đầu mình máu chảy ròng ròng". Hành động này có cái gì đó hơi nóng nảy, nông nổi  nhưng nó biểu lộ ý chí, quyết tâm sắt đá của một con người có chí khí, vì không học được chữ nên tự trừng phạt mình cho đau cho nhớ mà cố gắng hơn.

Làm liên lạc chuyển thư cho anh Quyết, Tnú có cái đầu sáng lạ lùng. Vốn là con người nhanh trí, táo bạo thích mạo hiểm, Tnú không bao giờ đi đường mòn, bị giặc vây các nẻo đường, Tnú leo lên cây cao xé rừng mà đi vượt qua mọi vòng vây. Tnú không vượt qua suối những nơi nước cạn dễ đi mà thường băng qua những con thác hiểm như cưỡi lên lưng con cá kình. Có lần vượt qua thác, chuẩn bị lên bờ thì họng súng đen ngòm đã chĩa vào gáy  lạnh ngắt. Tnú kịp nuốt lá thư của anh Quyết vào bụng bảo đảm bí mật. Tnú bị giặc giam cầm ở ngục tù Kontum với biết bao đòn roi, thương tích. Địch tra tấn hỏi "Cộng sản ở đâu?" Tnú đã không ngần ngại đặt tay lên bụng và nói: "cuộc sống ở đây này!".Và lưng Tnú lại hằn lên những vết dao chém ngang dọc của kẻ thù. Đúng Tnú là con người rất giàu phẩm chất thủy chung, trung thành với Cách mạng mà bất khuất hiên ngang trước kẻ thù "Uy vũ không thể khuất phục".       

Ba năm sau, Tnú vượt ngục trở về trực tiếp lãnh đạo dân làng Xô man đánh giặc. Và Mai, người bạn từ thuở thiếu thời, đã cùng Tnú trưởng thành qua năm tháng đầy thử thách khốc liệt của chiến tranh nay đã là vợ của Tnú. Đứa con trai kháu khỉnh vừa đầy tháng là hoa trái đầu mùa của mối tình thơ mộng và thủy chung ấy. Hạnh phúc gia đình lứa đôi của Tnú đang đẹp như trăng rằm lung linh tỏa sáng cả núi rừng Tây Nguyên. Song kẻ thù tàn bạo dã man đã đập vỡ tổ ấm hạnh phúc của Tnú một cách không tiếc thương. Chúng đã giết vợ con anh bằng cây gậy sắt, hòng uy hiếp tinh thần Cách mạng của Tnú, người cầm đầu, linh hồn của cuộc nổi dậy. Đoạn văn diễn tả sự bất lực của Tnú trước cái chết của vợ con thật bi thương tràn đầy xúc cảm và ấn tượng "Anh đã bứt đứt hàng chục trái vả mà không hay. Anh chồm dậy… bụng anh có lửa đốt. Chỗ hai con mắt anh bây giờ là hai cục lửa lớn". Căm thù đau nhói trong tim và bừng cháy trong hai con mắt – một chi tiết thật dữ dội. Tnú nhảy vào giữa đám lính, hai cánh tay như cánh gỗ lim của anh ôm chặt lấy mẹ con Mai. Nhưng không còn kịp nữa!

Tnú bị bắt, bị trói. Vợ và con chết cả rồi nhưng Tnú không khóc. Anh ghìm nén nỗi đau, cố gắng vượt qua bi kịch cá nhân để tiếp tục sống và chiến đấu. Trước cái chết cận kề, Tnú không hề run sợ mà anh cảm thấy mình thật bình thản. Anh nghĩ "Đứa con chết rồi. Mai chắc cũng đã chết. Mình rồi cũng chết thôi". Nhưng Tnú không sợ, điều làm Tnú day dứt và băn khoăn nhất chính là không sống được đến ngày cùng dân làng Xô man đánh giặc, rồi khi có lệnh của Đảng cho đánh ai sẽ lãnh đạo dân làng Xô man? Tnú hoàn toàn không nghĩ đến mình nữa, Tnú đã đặt cái chung, cái nhiệm vụ lên trên bi kịch của mình. Đó là thái độ biến đau thương thành hành động. Giặc dùng giẻ tẩm nhựa xà nu để đốt mười đầu ngón tay của Tnú. Chúng định dùng lửa để thiêu rụi ý chí đấu tranh của dân làng Xô man. Nhưng chúng đã nhầm. Chúng đã vô tình thắp lên ngọn lửa đồng khởi, ngọn lửa đấu tranh của dân làng Xô man. Một ngón, hai ngón rồi ba bốn ngón của Tnú bốc cháy. Không gì đượm băngd lửa Xà nu. Mười ngón tay của Tnú nhanh chóng thành mười ngọn đuốc sống. Kì lạ thay, người Cộng Sản ấy không hề kêu van, dù "răng anh đã cắn nát môi anh rồi". Đúng rồi, Tnú không thèm kêu van nhưng Tnú đã thét lên một tiếng "Giết". Tiếng thét ấy làm rung chuyển núi rừng, làm lay động tâm can con người. Và cộng hưởng cùng tiếng thét ấy là tiếng chân người chạy rầm rập trên nhà Ưng, tiếng cụ Mết ồ ồ "Chém! Chém hết!", Tiếng thét ấy trở thành ngòi nổ làm bùng cháy cả khối thuốc nổ căm hờn của dân làng Xôman. Trong phút chốc họ đã: xác 10 tên giặc nằm ngổn ngang quanh đống lửa.

Cuộc đời bi tráng của Tnú đã làm sáng tỏ một chân lý giản dị mà sâu xa của cuộc sống được cụ Mết truyền dạy cho con cháu: "sau này, tao chết rồi, bay còn sống phải nói lại cho con cháu: Chúng nó đã cầm súng, mình phải cấm giáo". Đó là chân lý của Cách mạng được nảy sinh từ mảnh đất Tây Nguyên thấm máu và nước mắt. Đó là một chân lý thật nghiệt ngã nhưng tất yếu: Phải dùng bạo lực cách mạng để chống lại bạo lực phản cách mạng. Vũ trang chiến đấu là con đường tất yếu tự giải phóng của nhân dân.
Vượt qua bi kích cá nhân, trở thành người chiến sĩ, cán bộ có tinh thần kỷ luật cao.

Từ đây cả dân làng Xôman vùng dậy cầm lấy giáo mác… làm vũ khí chống lại súng đạn tối tân tàn bạo của Mỹ – Nguỵ. Và chặng đường cầm vũ khí của Tnú được nối tiếp bằng việc "đi lực lượng". Tnú đã vượt qua mọi đau thương và bi kịch cá nhân, tham gia lực lượng giải phóng quân để quét sạch tất cả những thằng Dục, kẻ thù không đội trời chung với vợ con anh – còn tồn tại trên đất nước Việt Nam này.  Khi đã trở thành chiến sĩ giải phóng quân, Tnú là một cán bộ có tinh thần kỷ luật cao: tuy nhớ quê hương gia đình, nhưng phải cấp trên cho phép mới về đúng một đêm như quy định trong giấy phép.   

Hình ảnh Tnú gắn liền với một hình tượng độc đáo: bàn tay.

Nhân vật Tnú không chỉ hấp dẫn độc giả chúng ta bởi những phẩm chất, tính cách anh hùng; bởi bút pháp mang đậm màu sắc sử thi bi tráng và tính chất triết lý của nó, mà còn hấp dẫn bởi tính chất hình tượng của tác phẩm. Một trong những hình tượng giàu nghệ thuật, ý nghĩa thẩm mỹ và tạo lên một sức ám ảnh đặc biệt cho độc giả là hình ảnh bàn tay của Tnú. Đây là một hình tượng như có một số phận riêng, gắn bó mật thiết với cuộc đời Tnú, góp phần tô đậm thêm những nét phẩm chất, tính cách cao đẹp của anh. Đó là bàn tay của trung thực, tình nghĩa, từng cầm phấn viết chữ anh Quyết dạy cho; từng đặt lên bụng mình mà nói: "Cộng sản ở đây này". Bàn tay ấy cũng đã từng được Mai nắm chặt mà khóc bằng những giọt nước mắt nóng bỏng yêu thương đồng cảm, lúc Tnú vượt ngục trở về… Khi giặc đốt 10 đầu ngón tay Tnú, bàn tay trở thành chứng tích của tội ác và lòng hận thù mà Tnú mang theo suốt cả cuộc đời. Lòng hận thù ấy đã biến bàn tay Tnú thành bàn tay quả báo – 10 ngọn đuốc từ ngón tay Tnú đã châm bùng lên ngọc lửa nổi dậy của dân làng Xôman. Bàn tay chỉ còn hai đốt mỗi ngón vẫn cầm giáo, cầm súng để Tnú lên đường rửa hận. Và cuối cùng với chính bàn tay ấy, Tnú đã xiết vào cổ họng tất cả những thằng Dục tàn ác hơn cả dã thú.

Như vậy, câu chuyện bi tráng về cuộc đời Tnú vừa có ý nghĩa cụ thể, cá thể, vừa có ý nghĩa điển hình tiêu biểu của người anh hùng đại diện cho số phận và con đường đi của các dân tộc Tây Nguyên trong thời đại đấu tranh giải phóng. Nhân vật Tnú còn có cái gì đó phảng phất như những anh hùng trong các trường ca Đam San, Xinh Nhã.

Thanh Bình tổng hợp

0