Thuyết minh về cây tre Việt Nam.
Cây tre là một cây khẳng khiu nhưng có nhiều công dụng. Lá tre thường được người Việt Nam lấy để gói bánh vào dịp Tết Đoan Ngọ. Thân tre thì dùng để làm đũa, muỗng; các thợ thủ công cũng đã tận dụng thân tre để đan thành giỏ tre, rổ tre Bài làm 1 ; nhân dân ta thường đong dầu, ...
Cây tre là một cây khẳng khiu nhưng có nhiều công dụng. Lá tre thường được người Việt Nam lấy để gói bánh vào dịp Tết Đoan Ngọ. Thân tre thì dùng để làm đũa, muỗng; các thợ thủ công cũng đã tận dụng thân tre để đan thành giỏ tre, rổ tre
Bài làm 1
; nhân dân ta thường đong dầu, đong nước mắm khi mua bán bằng ông tre. Trong quán ăn ở vùng nông thôn, người ta cũng chẻ nhỏ thân tre để làm tăm cho khách dùng sau bữa ăn. Đôi khi người nông dân cũng dùng thân tre để nhóm bếp.
Tre có một số loại thông dụng như tre gai, tre xanh, tre ngà, tre rừng... Bên cạnh đó nócòn có anh em bà con như lồ ô, trúc, tầm vông... Tre xanh lúc còn sông có màu xanh mượt, đốt dài và bóng nhẵn, đường kính của thân tre trưởng thành khoảng từ 6cm đến 8cm‘, cao không đến 10m. Tre gai kích thước ốm và thấp hơn, lá cũng mỏng manh hơn nhưng ở mỗi đốt tre mọc ra rất nhiều nhánh, gai sắc, nông dần thường trồng thành hàng rào chông trộm. Tre ngà là loại tre có thân sọc vàng xen lẫn với sọc xanh rất đẹp, người ta thường trồng làm cảnh. Tre rừng thì không trồng được, mọc hoang trong rừng nên thường không tươi tốt lắm. Ngược lại, lồ ô là loại tre rừng khổng lồ, bề ngang và chiều cao gấp hai, ba lần tre xanh. Nó mọc thành từng bụi, từng hàng như rừng, trong vùng đất hoang. Người ta đốn lấy thân làm nhà tranh, nhà sàn rất chắc chắn. Lồ ô to lớn bao nhiêu thì trúc lại mảnh mai, yếu ớt bấy nhiêu, vì thân rỗng và kích thước nhỏ bé. Có hai loại trúc là trúc xanh và trúc vàng. Gần đây nước ta có nhập thêm một ít trúc kiểng gọi là trúc Nhật. Những cây trúc kiểng này có hình dạng đặc biệt, thân màu vàng óng, lá xanh mượt mà rất được mọi người ưa chuộng, trồng làm cảnh và thường bày ở mái hiên, phòng khách.
Bài làm 2
Từ bao đời nay, cây tre đã có mặt hầu khắp các nẻo đường đất nước và gắn bó thủy chung với cộng đồng dân tộc Việt Nam. Cây tre đã đi vào văn hoá Việt Nam như một hình ảnh bình dị mà đầy sức sống, dẻo dai chống chịu thiên tai, gió bão và giặc ngoại xâm. Đặc biệt trong tâm thức người Việt, cây tre chiếm vị trí sâu sắc và lâu bền hơn cả, được xem như là biểu tượng đẹp cho con người Việt Nam, đất nước Việt Nam.
Cây tre, cây nứa, cây vầu, trúc,... và nhiều loại tre bương khác là loại cây thuộc họ lúa. Tre có thân rễ ngâm, sống lâu mọc ra những chồi gọi là măng. Thân rạ hóa mộc có thểcao đến 10 -18m, ít phân nhánh. Mỗi cây có khoảng 30 đốt,... Cả đời cây tre chỉ ra hoa một lần và vòng đời của nó sẽ khép lại khi tre ra hoa. Cây tre có sức sống tuyệt vời ở cả những vùng đất bạc màu, cằn cỗi hay đất bị ô nhiễm. Bộ rễ của cây tre có tác dụng ổn định nhất, chống xói mòn đất, xói lở bờ sông, tre mọc dày có thể làm giảm cường độ của gió, giảm sự tàn phá của những cơn bão và gió lốc. Có mặt ở nhiều nước châu Á như: Ấn Độ, Trung Quốc, Nhật Bản, Triều Tiên, Philippines, Indonesia từ xa xưa, cây tre cũng gằn bó với người nông dân Việt Nam từ nghìn năm rồi. Hình ảnh làng quê Việt Nam từ xưa gắn liền với luỹ tre làng, những bụi tre gai ken dày chắn gió bão thiên tai và che chắn cho mỗi làng Việt trước trộm đạo giặc cướp và kẻ xâm lược, thiên tai. Không thể kể hết công dụng của tre đối với người nông dânViệt Nam: làm nhà cửa, làm vô số vật dụng: cái cần câu, cái vó cất tôm cất tép, cái đó, bè mảng, cái càu ao và cả những cái cầu bắc qua những con mương, con kênh nhỏ. Tre từng được sử dụng phổ biến để làm đồ gia dụng: bàn ghế, giường chõng, các loại vật dụng sinh hoạt từ cái đòn gánh và đôi quang, tre còn được dùng như một thứ “tủ lạnh” thông thoáng để bảo quản thức ăn và chống chó, mèo, chuột hữu hiệu, đến cái khung cửi, cái xa quay sợi, cái rỗ, cái rá, cái dần, cái sàng gạo, cái rế đựng nồi, cái gáo múc nước, cái bừa, cái cào, cái ách khoác lên cồ con trâu cày đến con dao cật nứa cắt rốn lúc chào đời, cái quạt nan, đôi đũa, cái tăm... nhiều thứ vật dụng làm bằng tre còn được dùng đến ngày nay. Đấy là còn chưa nói tới các loại vật dụng của nhà nông, cũng như nhiều loại vũ khí thời xưa. Cây nêu dựng lên trước cửa nhà vào dịp năm mới thời xưa để trừ ma quỷ, cái ống đựng bút và quản bút lông của các nhà nho mà những năm gần đây về nơi thôn dã ta còn thầy, đến những cánh diều mà hôm nay con trẻ còn chơi... tất cả đều làm từ tre. Vật dụng ngày càng có vẻ thuận tiện hơn, có vẻ đẹp đẽ hơn đã đẩychúng ta xa rời thứ cây nhiều lợi ích như thế. Bao đời tổtiên người Việt khai phá đồng bằng Bắc Bộ được như ngày hôm nay là do đắp đê chống lụt, trị thuỷ. Những triền đê được giữ vững trước nước lụt, bão tố, ngoài phần công sức của người Việt xưa bao đời bồi đắp, thì còn có phần công sức của những bụi tre có tác dụng giữ đất, chống xói lở.
Tre còn được dùng chủ yếu làm nguyên liệu giấy, chỉ một số loại tre trúc được trồng làm cây cảnh được coi là “có giá trị kinh tế”. Cây tre có nhiều công dụng, trong đó lá tre, thân tre, nước ởcây tre non, vỏ cây tre... đều là những vị thuốc quý. Lá tre (trúc diệp) vị nhạt, ngọt, tính hàn có tác dụng giải nhiệt, thanh tấm, tiêu đờm dùng chữa phát sốt, nhiễm khuẩn, ra mồ hôi. Nước tre non (trúc bạch) vị đắng ngọt, tính mát có tác dụng tiêu khát, trừ đờm, thanh nhiệt, vỏ cây tre (trúc như) vị ngọt, tính lạnh. Có tác dụng thanh nhiệt, lương huyết, trừ phiền, an thai.
Cây tre gần gũi với người Việt Nam cũng như cây lúa. Cùng với cây đa, bến nước, sân đình một hình ảnh quen thuộc, thân thương của làng Việt cổtruyền là những bụi tre làng, rồi hàng tre bát ngát quanh lăng Bác gợi bao nỗi niềm. Tre hiến dâng bóng mát cho đời và sẵn sàng hy sinh tất cả. Từ măng tre ngọt bùi đến bẹ tre làm nón, từ thân tre cành lá đến gốc tre đều góp phần xây dựng cuộc sống.
Cây tre đã gắn bó với bao thăng trầm của lịch sử nước nhà. “...Đất nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre và đánh giặc...”. Không phải ngẫu nhiên sự tích loại tre thân vàng được người Việt gắn với truyền thuyết về Thánh Gióng. Hình ảnh Thánh Gióng nhổ bụi tre đằng ngà đánh đuổi giặc Ân xâm lược đã trởthành biểu tượng cho sức mạnh chiến thắng thần kì, đột biến của dân tộc ta đối với kẻ thù xâm lược. Trải qua nhiều thời kì lịch sử, các lũy tre xanh đã trở thành “pháo đài xanh” vững chắc chống quân xâm lược, chống thiên tai, đồng hóa. Tre thật sự trởthành chiến lũy và là nguồn vật liệu vỏ tận để chế tạo vũ khí tấn công trong các cuộc chiến. Chính cây chống tre, ngọn tầm vông góp phần rất lớn trong việc đánh đuổi quân xâm lược để giành độc lập, tự do cho Tổ quốc: “Tre giữ làng, giữ nước, giữ mái nhà tranh, giữ đồng lúa chín,...”.
Gần gũi và thân thiết với dân tộc, cây tre đã từng là nguồn cảm hứng vô tận trong văn học, nghệ thuật. Từ những câu chuyện cổtích, đến các ca dao, tục ngữ đều có mặt của tre. Đã có không ít tác phẩm nỗi tiếng viết về tre: Cây tre Việt Nam của Thép Mới và bài thơ cùng tên của thi sĩ Nguyễn Duy,... Tre còngóp mặt trong những làn điệu dân ca, điệu múa sạp phổ biến hầu khắp cả nước. Và nó là một trong những chất liệu khá quan trọng trong việc tạo ra các nhạc khí dân tộc như : đàn tơ rưng, sáo, kèn,... Tre đi vào cuộc sống của mỗi người, đi sâu thẳm vào tâm hồn người Việt. Mỗi khi xa quê hương, lữ khách khó lòng quên được hình ảnh lũy tre làng thân thương, những nhịp câu tre êm đềm... Hình ảnh của tre luôn gợi nhớ về một làng quê Việt Nam mộc mạc, con người Việt Nam thanh cao, giản dị mà chí khí.
Trong quá trình hội nhập quốc tế và hiện đại hóa thì tre lại trở thành những tácphẩm văn hóa có giá trị thẩm mĩ cao được nhiều khách nước ngoài ưa thích, dùng để trang trí ở những nơi sang trọng: đèn chụp bằng tre, đĩa đan bằng tre...
Có thể thấy rằng bản lĩnh bản sắc của người Việt và văn hóa Việt có những nét tương đồng với sức sống và vẻ đẹp của cây tre đất Việt. Tre không mọc riêng lẻ mà sống thành từng lũy tre, rặng tre. Đặc điểm cố kết này tượng trưng cho tính cộng đồng của người Việt. Tre có rễ ngấm sâu xuống lòng đất, sống lâu và sống ở mọi vùng đất. Chính vì thế tre được ví như là con người Việt Nam cần cù, siêng năng, bám đất bám làng: “Rễ siêng không ngại đất nghèo, Tre bao nhiêu rễ bấy nhiêu cần cù”. Tre cùng người Việt Nam trải qua bao thăng trầm của lịch sử, qua bao cuộc chiến tranh giữ nước tre xứng đáng là hình ảnh biểu tượng cho tính kiên cường, bất khuất của người Việt Nam, là cái đẹp Việt Nam.
Dù cuộc sống có nhiều đổi thay, tre không còn bát ngát các vùng quê ôm làng ôm xóm, chiều về khói rơm không còn quấn quýt bên tre.Nhưng cây tre vươn thẳng gắn bó thuỷ chung với cộng đồng dân tộc Việt Nam, cây tre lại cùng với người Việt Nam vươn lên, vượt qua những thử thách của thời đại.