Thích Thanh Từ Trần Hữu Phước, Trần Thanh Từ

Hoà thượng Thích Thanh Từ huý là Trần Hữu Phước, sau đổi lại huý là Trần Thanh Từ, sinh ngày 24/07/1924 (Giáp Tý) tại ấp Tích Khánh, làng Tích Thiện, tỉnh Cần Thơ (nay là tỉnh Vĩnh Long). Thân phụ của Hoà thượng huý Trần Văn Mão, từ nhỏ theo nghiệp Nho, giữ nếp sống thanh bần. Cụ ông theo đạo Cao đài, lập gia đình hơi muộn. Thân mẫu của Hoà thượng huý Nguyễn Thị Đủ quê làng Thiện Mỹ, dòng Thanh Bạch, quận Trà Ôn, tỉnh Cần Thơ. Cụ bà chân chất hiền lành, suốt đời tận tuỵ hy sinh vì chồng vì con. Hoà thượng sinh ra và lớn lên trong hoàn cảnh khó khăn nghèo túng, nhưng Người đã nổi bật những nét riêng từ thuở ấu thơ: trầm mặc, ít nói, thích đọc sách, có chí xuất trần và đặc biệt rất hiếu thảo với Cha Mẹ. Khoảng năm 9 tuổi, nhân theo Cụ ông lên Mốp Văn, Long Xuyên thọ tang người Bác thứ ba, Hoà thượng được đến chùa Sân Tiên trên núi Ba Thê cúng cầu siêu cho Bác. Duyên xưa gặp lại, nghe tiếng chuông chùa ngân dài giữa khoảng thinh không cô tịch, Hoà thượng rúng động như có một nỗi niềm giao cảm tự bao giờ. Bất thần Người xuất khẩu thành thơ: Non đảnh là nơi thú lắm ai, Đó cảnh nhàn du của khách tài. Tiếng mõ công phu người tỉnh giấc, Chuông hồi văng vẳng quá bi ai! Có thể nói rằng chí xuất trần của Hoà thượng nổi dậy kể từ đây. Sớm chìm nổi theo dòng đời và nhất là sống trong thời loạn lạc, Hoà thượng càng thấm thía, càng đau xót nỗi thống khổ của con người. Chí xuất trần của Hoà thượng vì thế càng trở nên mãnh liệt hơn và Người luôn ôm ấp một tâm niệm "Nếu tôi không thể làm một viên linh đơn cứu tất cả bệnh của chúng sanh, ít ra cũng là một viên thuốc bổ giúp cho người bớt khổ." Từ dạo đó trái nhân duyên đã chín muồi, cuộc đời của Hoà thượng rẽ sang một con đường sáng. Ngày 15 tháng 07 năm Kỷ Sửu 1949, sau ba tháng công quả tại chùa Phật Quang, Hoà thượng được Tổ Thiện Hoa chánh thức cho xuất gia với pháp danh là Thanh Từ. Thế là ước nguyện của Người đã được thành tựu. Từ đây Hoà thượng siêng năng theo Tổ công phu bái sám, vừa học giáo lý, vừa dạy trẻ em. Ngoài ra còn phụ trông nom coi sóc mấy chục chú Tiểu trong chùa. Công việc tuy nhiều, song Hoà thượng luôn để tâm học Giáo điển. Năm 1949 -1950, Hoà thượng theo học lớp Sơ đẳng năm thứ ba tại Phật Học Đường Phật Quang. Đến năm 1951, Hoà thượng bắt đầu học lên Trung đẳng. Một khuya nọ, nhân đọc Kinh Lăng Nghiêm đến chỗ Phật chỉ Tôn giả A Nan nhận ra bản tâm chân thật của chính mình qua tánh thấy, tánh nghe, bất giác Hoà thượng xúc động rơi lệ. Phải chăng đây là dấu hiệu cho biết chủng duyên Phật Pháp nhiều đời của Người đã bắt đầu nẩy mầm? Cũng trong năm nầy chùa Phật Quang bị binh biến, Tổ Thiện Hoa phải dời Tăng chúng lên chùa Phước Hậu, Hoà thượng cũng được theo và thọ giới Sa Di tại đây do Tổ Khánh Anh làm Hoà thượng Đàn đầu. Năm 1953 Hoà thượng theo Bổn sư là Tổ Thiện Hoa lên Sài gòn, tiếp tục học lớp Trung đẳng tại Phật Học Đường Nam Việt chùa Ấn Quang. Tại đây, Hoà thượng được thọ giới Cụ túc do Tổ Huệ Quang làm Hoà thượng Đàn đầu. Từ năm 1954 -1959, Hoà thượng học Cao đẳng Phật học tại Phật Học Đường Nam Việt. Những vị đồng khoá cùng ra trường với Hoà thượng như quí Ngài Huyền Vi, Thiền Định, Từ Thông,... Như vậy là ngót mười năm Hoà thượng đã trải qua hai năm Sơ đẳng, ba năm Trung đẳng, bốn năm Cao đẳng. Tốt nghiệp các lớp Phật học xong là đoạn đường Tăng sinh đã hoàn tất. Hoà thượng bước sang thời kỳ hoá đạo. Hoà thượng là một vị Giảng sư trong Giảng sư đoàn của ban Hoằng Pháp, có uy tín lớn thời bấy giờ và được sự mến mộ của Phật tử xa gần. Năm 1960 -1964, Hoà thượng đã giữ những chức vụ trong Phật giáo: - Phó Vụ Trưởng Phật Học Vụ. - Vụ Trưởng Phật Học Vụ. - Giáo sư kiêm Quản viện Phật Học Viện Huệ Nghiêm. - Giảng sư Viện Đại Học Vạn Hạnh và các Phật Học Đường Dược Sư, Từ Nghiêm,... Sau lễ mãn khoá Cao Trung Chuyên Khoa tại Huệ Nghiêm và Dược Sư, Hoà thượng thầm nghĩ với ngần ấy đóng góp cũng phần nào tạm đủ nói lên tấm lòng tri ân và báo ân của mình đối với Thầy Tổ rồi. Hoà thượng liền xin phép với Tổ Thiện Hoa được lui về núi ẩn tu. Chí đã quyết, Hoà thượng dằn lòng dứt áo ra đi, âm thầm một mình một bóng lên chốn non thâm. Hoà thượng đã thật sự giã từ Phật Học Viện, giã từ phấn bảng với năm tháng miệt mài vì tứ chúng. Nhưng hai tiếng "Tăng Ni" vẫn xoáy sâu vào lòng Người, để sau này chút duyên "Thầy Trò" ấy lại gặp nhau và càng thêm son sắt trên đỉnh Tương Kỳ. Tháng 04 năm 1966, Hoà thượng dựng Pháp Lạc thất trên núi Tương Kỳ, Vũng Tàu. Ngôi thất lá vuông vức bốn thước đơn sơ với bộ Đại Tạng Kinh, nhưng đã ấp ủ một thiền Tăng nghèo quyết nhận lại cho kỳ được hạt châu vô giá của chính mình. Đến rằm tháng tư năm Mậu Thân, Hoà thượng tuyên bố nhập thất vô hạn định với lời kiên quyết: "Nếu đạo không sáng, thệ không ra thất." Thế là cửa sài đôi cánh khép. Toàn thể môn nhân qui ngưỡng lên non một lòng mong đợi. Tháng 07 năm 1968, Hoà thượng liễu đạt lý sắc không, thấu suốt thật tướng Bát Nhã. Từ con mắt Bát Nhã trông qua tạng Kinh, lời Phật, ý Tổ hoác toang thông thống. Giáo lý Đại thừa và thâm ý nhà Thiền đã được Hoà thượng khám phá từ công phu thiền định của Người. Ngày 08 tháng 12 năm ấy, Hoà thượng tuyên bố ra thất giữa bao niềm hân hoan của Tăng Ni, Phật tử. Nước cam lồ từ đây rưới khắp, suối từ bi từ đây tuôn chảy. Pháp Lạc thất thật xứng đáng là linh hồn của dòng Thiền Chân Không. Nơi đây, đánh dấu một giai đoạn chuyển mình, một bước ngoặc lớn trong cuộc đời tu của Hoà thượng. Hoài bão tu Thiền đã thai nghén bao năm trong thầm lặng đơn độc của Người, đến đây mới thật sự có điểm khởi phát và lớn dậy, để sau nầy Phật giáo Việt Nam vinh dự có một ngôi sao sáng mở ra trang Thiền sử Việt Nam rực rỡ huy hoàng vào cuối thế kỷ 20. Hoà thượng đã từng nói: "Tôi là kẻ nợ của Tăng Ni và Phật tử. Ai biết đòi thì tôi trả trước, ai chưa biết đòi thì trả sau." Suốt đời Ngài đều dốc hết sức mình lo cho Phật pháp, đặc biệt là làm sống lại Thiền tông đời Trần, tạo điều kiện cho Tăng Ni tu hành tiến bộ. Tăng Ni tu hành có tiến bộ thì Phật pháp mới còn và lớn mạnh được. Sự tu hành tiến bộ của Tăng Ni là niềm vui của Ngài. Ngài nói: "Hoài bão của Thầy đều gởi gắm hết vào sự nỗ lực tu tập của tụi con. Tăng Ni tu có niềm vui, sáng được việc lớn, đó là biết thương tưởng đến Thầy. Bằng ngược lại thì thật là Thầy chưa đủ phước để được vui trước khi nhắm mắt. Bởi vì nguyện vọng khôi phục Thiền tông Việt Nam, đặc biệt là Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử đời Trần của Thầy chưa thành tựu." Các thiền viện sau đây chính thức được Hoà thượng thành lập, làm nơi giáo hoá và hướng dẫn tu hành: - Thiền viện Chân Không, núi Tương Kỳ - Vũng Tàu, thành lập vào tháng 04 năm 1971; dời về Thường Chiếu năm 1986, được phép tái thiết năm 1995. - Thiền viện Thường Chiếu, Long Thành - Đồng Nai, thành lập tháng 08 năm 1974. - Thiền viện Viên Chiếu, Long Thành - Đồng Nai, thành lập tháng 04 năm 1975. - Thiền viện Huệ Chiếu, Bà Rịa - Vũng Tàu, thành lập tháng 04 năm 1979. - Thiền viện Linh Chiếu, Long Thành - Đồng Nai, thành lập tháng 02 năm 1980. - Thiền viện Phổ Chiếu, Bà Rịa - Vũng Tàu, thành lập tháng 06 năm 1980. - Thiền viện Tịch Chiếu, Long Hải, thành lập tháng 07 năm 1987. - Thiền viện Liễu Đức, Long Thành - Đồng Nai. - Thiền viện Trúc Lâm, Đà Lạt - Lâm Đồng, thành lập tháng 04 năm 1993. - Chùa Lân – Thiền viện Trúc Lâm Yên Tử, 2002. - Thiền viện Tuệ Quang, Linh Trung, Thủ Đức, Thành Phố Hồ Chí Minh. - Thiền viện Hương Hải, Long Thành - Đồng Nai. - Thiền viện Đạo Huệ, Long Thành - Đồng Nai. - Thiền viện Tuệ Thông, Long Thành - Đồng Nai. - Thiền viện Quang Chiếu, Forthworth, Texas, Mỹ, thành lập năm 2000. - Thiền viện Đại Đăng, Bonsall, California, Mỹ, thành lập năm 2001. - Thiền viện Đạo Viên, Québec, Canada, thành lập năm 2002. - Thiền viện Bồ Đề, Boston, Mỹ, thành lập năm 2002. - Thiền viện Diệu Nhân, Sacramento, Mỹ, thành lập năm 2002. - Thiền viện Tiêu Dao, Úc. - Ngoài ra, còn có Thiền Thất Ngọc Chiếu, Garden Grove, CA, Mỹ. Thiền Thất Thường Lạc - Pháp. Thiền Trang Hỷ Xả - Úc...... Hoà thượng cũng đã góp sức trùng tu hai Tổ đình Phật Quang và Phước Hậu, Trà Ôn, Vĩnh Long. Hoà thượng giảng và dịch rất nhiều bộ Kinh, Luận và Sử từ Hán văn sang Việt văn. Ngoài ra Hoà thượng còn giảng giải rất nhiều bài pháp phổ thông cho Tăng Ni và Phật tử. Hoà thượng đã đi du hoá và thăm viếng các nước: - Cam-pu-chia (1956) - Ấn Độ, Tích Lan và Nhật Bản (1965) - Trung Quốc (1993) - Pháp (1994 - 2002) - Thuỵ Sĩ (1994) - Indonesia (1996) - Canada (1994 - 2002) - Hoa Kỳ (1994 - 2000 - 2001 - 2002) - Úc châu (1996 - 2002) Ngoài các tác phẩm luận bàn về Phật học, dịch các sách kinh, Thiền sư còn sáng tác thơ Tác phẩm thơ: - Thiền uyển - Những cảm hứng tuỳ cảnh (NXB Thành phố Hồ Chí Minh, 2001, xuất bản với số lượng 10 nghìn cuốn). Bao gồm 12 bài thơ làm rải rác trong nhiều năm tại thiền viện Chân Không, thiền viện Thường Chiếu, thiền viện Trúc Lâm. Hoà thượng Thích Thanh Từ huý là Trần Hữu Phước, sau đổi lại huý là Trần Thanh Từ, sinh ngày 24/07/1924 (Giáp Tý) tại ấp Tích Khánh, làng Tích Thiện, tỉnh Cần Thơ (nay là tỉnh Vĩnh Long). Thân phụ của Hoà thượng huý Trần Văn Mão, từ nhỏ theo nghiệp Nho, giữ nếp sống thanh bần. Cụ ông theo đạo Cao đài, lập gia đình hơi muộn. Thân mẫu của Hoà thượng huý Nguyễn Thị Đủ quê làng Thiện Mỹ, dòng Thanh Bạch, quận Trà Ôn, tỉnh Cần Thơ. Cụ bà chân chất hiền lành, suốt đời tận tuỵ hy sinh vì chồng vì con. Hoà thượng sinh ra và lớn lên trong hoàn cảnh khó khăn nghèo túng, nhưng Người đã nổi bật những nét riêng từ thuở ấu thơ: trầm mặc, ít nói, thích đọc sách, có chí xuất trần và đặc biệt rất hiếu thảo với Cha Mẹ. Khoảng năm 9 tuổi, nhân theo Cụ ông lên Mốp Văn, Long Xuyên thọ tang người Bác t… Thiền uyển - Những cảm hứng tuỳ cảnh (2001)

Hoà thượng Thích Thanh Từ huý là Trần Hữu Phước, sau đổi lại huý là Trần Thanh Từ, sinh ngày 24/07/1924 (Giáp Tý) tại ấp Tích Khánh, làng Tích Thiện, tỉnh Cần Thơ (nay là tỉnh Vĩnh Long).

Thân phụ của Hoà thượng huý Trần Văn Mão, từ nhỏ theo nghiệp Nho, giữ nếp sống thanh bần. Cụ ông theo đạo Cao đài, lập gia đình hơi muộn. Thân mẫu của Hoà thượng huý Nguyễn Thị Đủ quê làng Thiện Mỹ, dòng Thanh Bạch, quận Trà Ôn, tỉnh Cần Thơ. Cụ bà chân chất hiền lành, suốt đời tận tuỵ hy sinh vì chồng vì con.

Hoà thượng sinh ra và lớn lên trong hoàn cảnh khó khăn nghèo túng, nhưng Người đã nổi bật những nét riêng từ thuở ấu thơ: trầm mặc, ít nói, thích đọc sách, có chí xuất trần và đặc biệt rất hiếu thảo với Cha Mẹ.

Khoảng năm 9 tuổi, nhân theo Cụ ông lên Mốp Văn, Long Xuyên thọ tang người Bác thứ ba, Hoà thượng được đến chùa Sân Tiên trên núi Ba Thê cúng cầu siêu cho Bác. Duyên xưa gặp lại, nghe tiếng chuông chùa ngân dài giữa khoảng thinh không cô tịch, Hoà thượng rúng động như có một nỗi niềm giao cảm tự bao giờ. Bất thần Người xuất khẩu thành thơ:

Non đảnh là nơi thú lắm ai,
Đó cảnh nhàn du của khách tài.
Tiếng mõ công phu người tỉnh giấc,
Chuông hồi văng vẳng quá bi ai!

Có thể nói rằng chí xuất trần của Hoà thượng nổi dậy kể từ đây.

Sớm chìm nổi theo dòng đời và nhất là sống trong thời loạn lạc, Hoà thượng càng thấm thía, càng đau xót nỗi thống khổ của con người. Chí xuất trần của Hoà thượng vì thế càng trở nên mãnh liệt hơn và Người luôn ôm ấp một tâm niệm "Nếu tôi không thể làm một viên linh đơn cứu tất cả bệnh của chúng sanh, ít ra cũng là một viên thuốc bổ giúp cho người bớt khổ."

Từ dạo đó trái nhân duyên đã chín muồi, cuộc đời của Hoà thượng rẽ sang một con đường sáng.

Ngày 15 tháng 07 năm Kỷ Sửu 1949, sau ba tháng công quả tại chùa Phật Quang, Hoà thượng được Tổ Thiện Hoa chánh thức cho xuất gia với pháp danh là Thanh Từ. Thế là ước nguyện của Người đã được thành tựu. Từ đây Hoà thượng siêng năng theo Tổ công phu bái sám, vừa học giáo lý, vừa dạy trẻ em. Ngoài ra còn phụ trông nom coi sóc mấy chục chú Tiểu trong chùa. Công việc tuy nhiều, song Hoà thượng luôn để tâm học Giáo điển.

Năm 1949 -1950, Hoà thượng theo học lớp Sơ đẳng năm thứ ba tại Phật Học Đường Phật Quang. Đến năm 1951, Hoà thượng bắt đầu học lên Trung đẳng.

Một khuya nọ, nhân đọc Kinh Lăng Nghiêm đến chỗ Phật chỉ Tôn giả A Nan nhận ra bản tâm chân thật của chính mình qua tánh thấy, tánh nghe, bất giác Hoà thượng xúc động rơi lệ. Phải chăng đây là dấu hiệu cho biết chủng duyên Phật Pháp nhiều đời của Người đã bắt đầu nẩy mầm?

Cũng trong năm nầy chùa Phật Quang bị binh biến, Tổ Thiện Hoa phải dời Tăng chúng lên chùa Phước Hậu, Hoà thượng cũng được theo và thọ giới Sa Di tại đây do Tổ Khánh Anh làm Hoà thượng Đàn đầu.

Năm 1953 Hoà thượng theo Bổn sư là Tổ Thiện Hoa lên Sài gòn, tiếp tục học lớp Trung đẳng tại Phật Học Đường Nam Việt chùa Ấn Quang. Tại đây, Hoà thượng được thọ giới Cụ túc do Tổ Huệ Quang làm Hoà thượng Đàn đầu.

Từ năm 1954 -1959, Hoà thượng học Cao đẳng Phật học tại Phật Học Đường Nam Việt. Những vị đồng khoá cùng ra trường với Hoà thượng như quí Ngài Huyền Vi, Thiền Định, Từ Thông,...

Như vậy là ngót mười năm Hoà thượng đã trải qua hai năm Sơ đẳng, ba năm Trung đẳng, bốn năm Cao đẳng. Tốt nghiệp các lớp Phật học xong là đoạn đường Tăng sinh đã hoàn tất. Hoà thượng bước sang thời kỳ hoá đạo. Hoà thượng là một vị Giảng sư trong Giảng sư đoàn của ban Hoằng Pháp, có uy tín lớn thời bấy giờ và được sự mến mộ của Phật tử xa gần.

Năm 1960 -1964, Hoà thượng đã giữ những chức vụ trong Phật giáo:
- Phó Vụ Trưởng Phật Học Vụ.
- Vụ Trưởng Phật Học Vụ.
- Giáo sư kiêm Quản viện Phật Học Viện Huệ Nghiêm.
- Giảng sư Viện Đại Học Vạn Hạnh và các Phật Học Đường Dược Sư, Từ Nghiêm,...

Sau lễ mãn khoá Cao Trung Chuyên Khoa tại Huệ Nghiêm và Dược Sư, Hoà thượng thầm nghĩ với ngần ấy đóng góp cũng phần nào tạm đủ nói lên tấm lòng tri ân và báo ân của mình đối với Thầy Tổ rồi. Hoà thượng liền xin phép với Tổ Thiện Hoa được lui về núi ẩn tu. Chí đã quyết, Hoà thượng dằn lòng dứt áo ra đi, âm thầm một mình một bóng lên chốn non thâm.

Hoà thượng đã thật sự giã từ Phật Học Viện, giã từ phấn bảng với năm tháng miệt mài vì tứ chúng. Nhưng hai tiếng "Tăng Ni" vẫn xoáy sâu vào lòng Người, để sau này chút duyên "Thầy Trò" ấy lại gặp nhau và càng thêm son sắt trên đỉnh Tương Kỳ.

Tháng 04 năm 1966, Hoà thượng dựng Pháp Lạc thất trên núi Tương Kỳ, Vũng Tàu. Ngôi thất lá vuông vức bốn thước đơn sơ với bộ Đại Tạng Kinh, nhưng đã ấp ủ một thiền Tăng nghèo quyết nhận lại cho kỳ được hạt châu vô giá của chính mình.

Đến rằm tháng tư năm Mậu Thân, Hoà thượng tuyên bố nhập thất vô hạn định với lời kiên quyết: "Nếu đạo không sáng, thệ không ra thất." Thế là cửa sài đôi cánh khép. Toàn thể môn nhân qui ngưỡng lên non một lòng mong đợi.

Tháng 07 năm 1968, Hoà thượng liễu đạt lý sắc không, thấu suốt thật tướng Bát Nhã. Từ con mắt Bát Nhã trông qua tạng Kinh, lời Phật, ý Tổ hoác toang thông thống. Giáo lý Đại thừa và thâm ý nhà Thiền đã được Hoà thượng khám phá từ công phu thiền định của Người.

Ngày 08 tháng 12 năm ấy, Hoà thượng tuyên bố ra thất giữa bao niềm hân hoan của Tăng Ni, Phật tử. Nước cam lồ từ đây rưới khắp, suối từ bi từ đây tuôn chảy. Pháp Lạc thất thật xứng đáng là linh hồn của dòng Thiền Chân Không. Nơi đây, đánh dấu một giai đoạn chuyển mình, một bước ngoặc lớn trong cuộc đời tu của Hoà thượng. Hoài bão tu Thiền đã thai nghén bao năm trong thầm lặng đơn độc của Người, đến đây mới thật sự có điểm khởi phát và lớn dậy, để sau nầy Phật giáo Việt Nam vinh dự có một ngôi sao sáng mở ra trang Thiền sử Việt Nam rực rỡ huy hoàng vào cuối thế kỷ 20.

Hoà thượng đã từng nói: "Tôi là kẻ nợ của Tăng Ni và Phật tử. Ai biết đòi thì tôi trả trước, ai chưa biết đòi thì trả sau." Suốt đời Ngài đều dốc hết sức mình lo cho Phật pháp, đặc biệt là làm sống lại Thiền tông đời Trần, tạo điều kiện cho Tăng Ni tu hành tiến bộ. Tăng Ni tu hành có tiến bộ thì Phật pháp mới còn và lớn mạnh được. Sự tu hành tiến bộ của Tăng Ni là niềm vui của Ngài. Ngài nói: "Hoài bão của Thầy đều gởi gắm hết vào sự nỗ lực tu tập của tụi con. Tăng Ni tu có niềm vui, sáng được việc lớn, đó là biết thương tưởng đến Thầy. Bằng ngược lại thì thật là Thầy chưa đủ phước để được vui trước khi nhắm mắt. Bởi vì nguyện vọng khôi phục Thiền tông Việt Nam, đặc biệt là Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử đời Trần của Thầy chưa thành tựu."

Các thiền viện sau đây chính thức được Hoà thượng thành lập, làm nơi giáo hoá và hướng dẫn tu hành:
- Thiền viện Chân Không, núi Tương Kỳ - Vũng Tàu, thành lập vào tháng 04 năm 1971; dời về Thường Chiếu năm 1986, được phép tái thiết năm 1995.
- Thiền viện Thường Chiếu, Long Thành - Đồng Nai, thành lập tháng 08 năm 1974.
- Thiền viện Viên Chiếu, Long Thành - Đồng Nai, thành lập tháng 04 năm 1975.
- Thiền viện Huệ Chiếu, Bà Rịa - Vũng Tàu, thành lập tháng 04 năm 1979.
- Thiền viện Linh Chiếu, Long Thành - Đồng Nai, thành lập tháng 02 năm 1980.
- Thiền viện Phổ Chiếu, Bà Rịa - Vũng Tàu, thành lập tháng 06 năm 1980.
- Thiền viện Tịch Chiếu, Long Hải, thành lập tháng 07 năm 1987.
- Thiền viện Liễu Đức, Long Thành - Đồng Nai.
- Thiền viện Trúc Lâm, Đà Lạt - Lâm Đồng, thành lập tháng 04 năm 1993.
- Chùa Lân – Thiền viện Trúc Lâm Yên Tử, 2002.
- Thiền viện Tuệ Quang, Linh Trung, Thủ Đức, Thành Phố Hồ Chí Minh.
- Thiền viện Hương Hải, Long Thành - Đồng Nai.
- Thiền viện Đạo Huệ, Long Thành - Đồng Nai.
- Thiền viện Tuệ Thông, Long Thành - Đồng Nai.
- Thiền viện Quang Chiếu, Forthworth, Texas, Mỹ, thành lập năm 2000.
- Thiền viện Đại Đăng, Bonsall, California, Mỹ, thành lập năm 2001.
- Thiền viện Đạo Viên, Québec, Canada, thành lập năm 2002.
- Thiền viện Bồ Đề, Boston, Mỹ, thành lập năm 2002.
- Thiền viện Diệu Nhân, Sacramento, Mỹ, thành lập năm 2002.
- Thiền viện Tiêu Dao, Úc.
- Ngoài ra, còn có Thiền Thất Ngọc Chiếu, Garden Grove, CA, Mỹ. Thiền Thất Thường Lạc - Pháp. Thiền Trang Hỷ Xả - Úc......

Hoà thượng cũng đã góp sức trùng tu hai Tổ đình Phật Quang và Phước Hậu, Trà Ôn, Vĩnh Long.

Hoà thượng giảng và dịch rất nhiều bộ Kinh, Luận và Sử từ Hán văn sang Việt văn. Ngoài ra Hoà thượng còn giảng giải rất nhiều bài pháp phổ thông cho Tăng Ni và Phật tử.

Hoà thượng đã đi du hoá và thăm viếng các nước:
- Cam-pu-chia (1956)
- Ấn Độ, Tích Lan và Nhật Bản (1965)
- Trung Quốc (1993)
- Pháp (1994 - 2002)
- Thuỵ Sĩ (1994)
- Indonesia (1996)
- Canada (1994 - 2002)
- Hoa Kỳ (1994 - 2000 - 2001 - 2002)
- Úc châu (1996 - 2002)

Ngoài các tác phẩm luận bàn về Phật học, dịch các sách kinh, Thiền sư còn sáng tác thơ

Tác phẩm thơ:
- Thiền uyển - Những cảm hứng tuỳ cảnh (NXB Thành phố Hồ Chí Minh, 2001, xuất bản với số lượng 10 nghìn cuốn). Bao gồm 12 bài thơ làm rải rác trong nhiều năm tại thiền viện Chân Không, thiền viện Thường Chiếu, thiền viện Trúc Lâm.
Hoà thượng Thích Thanh Từ huý là Trần Hữu Phước, sau đổi lại huý là Trần Thanh Từ, sinh ngày 24/07/1924 (Giáp Tý) tại ấp Tích Khánh, làng Tích Thiện, tỉnh Cần Thơ (nay là tỉnh Vĩnh Long).

Thân phụ của Hoà thượng huý Trần Văn Mão, từ nhỏ theo nghiệp Nho, giữ nếp sống thanh bần. Cụ ông theo đạo Cao đài, lập gia đình hơi muộn. Thân mẫu của Hoà thượng huý Nguyễn Thị Đủ quê làng Thiện Mỹ, dòng Thanh Bạch, quận Trà Ôn, tỉnh Cần Thơ. Cụ bà chân chất hiền lành, suốt đời tận tuỵ hy sinh vì chồng vì con.

Hoà thượng sinh ra và lớn lên trong hoàn cảnh khó khăn nghèo túng, nhưng Người đã nổi bật những nét riêng từ thuở ấu thơ: trầm mặc, ít nói, thích đọc sách, có chí xuất trần và đặc biệt rất hiếu thảo với Cha Mẹ.

Khoảng năm 9 tuổi, nhân theo Cụ ông lên Mốp Văn, Long Xuyên thọ tang người Bác t…

Thiền uyển - Những cảm hứng tuỳ cảnh (2001)

Bài liên quan

Thái Bá Tân

Nhà thơ, dịch giả Thái Bá Tân sinh ngày 27-2-1949 (trong giấy khai sinh: 1950). tại xã Diễn Lộc, huyện Diễn Châu, Nghệ An. Ông hiện sống ở Hà Nội, nhà số B9, Ngõ 164, Nguyễn Văn Cừ, Gia Lâm, quận Long Biên, có vợ và một con gái. Ông tốt nghiệp đại học ngoại ngữ Matxcơva (1967-1974), đã từng làm ...

Huy Dung Nguyễn Huy Dung

Huy Dung (1931-) tên thật là Nguyễn Huy Dung, là thầy thuốc, nhà thơ, sinh ở thành phố Vinh, nguyên quán ở Mọc Thượng Đình (Thanh Xuân, Hà Nội). Năm 18 tuổi (1949) ông thoát ly hoạt động cách mạng. Tốt nghiệp Đại học Y và làm thầy thuốc hơn 40 năm (bác sĩ chuyên khoa tim mạch từ năm 1959 đến nay), ...

Mai Ngọc Thanh

Mai Ngọc Thanh sinh năm 1933 tại Ghép, xã Quảng Chính, huyện Quảng Xương, tỉnh Thanh Hoá, nguyên Tổng thư ký Hội Văn học Nghệ thuật Thanh Hoá nhiệm kỳ I. Nguyên Giám đốc, Tổng biên tập Nhà xuất bản Thanh Hoá. Hội viên Hội Xuất bản Việt Nam. Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam. Tác phẩm thơ đã xuất bản: - ...

Trúc Linh Lan Thạch Thị Liễu, Nguyễn Thị Đồng Bằng

Trúc Linh Lan tên thật là Thạch Thị Liễu, bút danh của bà còn có Nguyễn Thị Đồng Bằng, công tác tại Nhà nuôi trẻ mồ côi Hoa Mai, Cần Thơ. Uỷ Viên Ban Thường Vụ Hội VHNT Tỉnh Hậu Giang, Phó Tổng Biên tập Tạp Chí VNHG, PCT Hội VHNT tỉnh Hậu Giang, Hội viên Hội nhà báo Việt Nam. Tác phẩm văn học: - 02 ...

Trần Ngọc Tuấn

Nhà thơ Trần Ngọc Tuấn sinh năm tại Quảng Ngãi, hiện đang làm trong tờ báo "Sức sống" tại cộng hòa Czech.

Thu Trang

Thu Trang sinh năm 1932 tại Hà Nội. Tác phẩm: - Nói sao cho vợi - Ngược dốc - Điều ước

Nguyễn Đức Toàn

Nguyễn Đức Toàn (1929-) là hoạ sĩ, nhạc sĩ, thi sĩ, nghệ sĩ ưu tú, cựu sinh viên trường Mỹ thuật Đông Dương, tác giả của hàng loạt các ca khúc được yêu thích như: Biết ơn Võ Thị Sáu, Hà Nội trái tim hồng, Tình em biển cả. Ông quê ở thôn Quế Ổ, xã Chi Lăng, huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh. Nguyên Uỷ viên ...

Tôn Nữ Hỷ Khương

Tôn Nữ Hỷ Khương tên thật là Công Tằng Tôn Nữ Hỷ Khương, sinh năm 1937 tại Vỹ Dạ, Huế, là con của nhà thơ nổi tiếng Ưng Bình Thúc Giạ Thị. Hiện bà sống tại TP Hồ Chí Minh. Hội viên Hội Nhà văn TP Hồ Chí Minh. Tác phẩm đã xuất bản: - Đợi mùa trăng (thơ, 1964) - Mộng thanh bình (thơ, 1970) - Còn gặp ...

Tụ Vinh Nguyễn Sư Giao

Tụ Vinh tên thật là Nguyễn Sư Giao, sinh ngày 22-8-1935 (Ất Hợi), là con ông Nguyễn Trọng Khả và bà Hà Thị Tuất. Quê tại làng Tịnh Yên, tổng Đại An, huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam (nay là làng Tịnh Đông Tây, xã Đại Lãnh, Đại Lộc, Quảng Nam) nằm bên dòng sông Vu Gia. Tác giả lấy hai chữ đầu của tên ...

Trần Tuấn Kiệt Sa Giang

Trần Tuấn Kiệt sinh ngày 1/6/1939 tại Sa Ðéc, do đó có bút hiệu là Sa Giang. Thuở bé ông tản cư ở Đồng Tháp Mười, sống với bà ngoại. Đã có lần ông cưỡi trâu vượt sông Cửu Long, từ Đồng Tháp Mười về Sa Đéc. Năm 11 tuổi ông lên Sài Gòn học âm nhạc. Ông đậu hạng nhất thổi sáo ở trường quốc gia Âm nhạc ...

Mới nhất

THPT Đinh Tiên Hoàng

THPT Đinh Tiên Hoàng đang không ngừng nỗ lực phát triển trở thành một ngôi trường với chất lượng giảng dạy tốt nhất, tạo ra những thế hệ học sinh chất lượng

THPT Thực nghiệm

Trường THPT Thực Nghiệm trực thuộc Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam. Trường là cơ sở giáo dục đào tạo công lập trong hệ thống giáo dục quốc dân và trong hệ thống các trường phổ thông của thành phố Hà Nội. Trường dạy học theo chương trình giáo dục Trung học phổ thông của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Tiếp ...

THPT Đông Kinh

Khẩu hiệu hành động: “ Hãy đặt mình vào vị trí cha mẹ học sinh để giảng giải giáo dục và xử lý công việc ” “ Tất cả vì học sinh thân yêu ”

THPT Hà Nội Academy

Những rào cản còn tồn tại kể trên sẽ được vượt qua bởi những công dân toàn cầu tích cực với nhiệm vụ chung tay xây dựng một thế giới tốt đẹp hơn thông qua việc nghiên cứu và tìm kiếm giải pháp cho những vấn đề toàn cầu bao gồm, nhưng không giới hạn ở nhân quyền, đói nghèo và công bằng xã hội. Nhận ...

http://thptkimlien-hanoi.edu.vn/

Qua 40 năm nỗ lực phấn đấu trong các hoạt động giáo dục, vượt khó khăn, thiếu thốn về cơ sở vật chất, trường THPT Kim Liên đã tạo dựn được uy tín vững chắc, là 1 trong 5 trường THPT hàng đầu của Thủ đô có chất lượng giáo dục toàn diện không ngừng nâng cao và trở thành địa chỉ tin cậy của các bậc ...

THPT Tô Hiến Thành

Trường THPT Tô Hiến Thành được thành lập từ năm học 1995-1996, theo quyết định của Ủy Ban nhân dân tỉnh Thanh Hóa. Đến tháng 6/2010, trường chuyển đổi loại hình sang công lập. Suốt 20 năm phát triển, thầy, cô giáo, thế hệ học sinh đã phấn đấu vượt qua mọi khó khăn, gian khổ, từng bước phát triển ...

THPT Mai Hắc Đế

Trường THPT Mai Hắc Đế được thành lập năm 2009, sau gần 10 năm xây dựng và phát triển, Trường đã trở thành một địa chỉ tin cậy trong đào tạo bậc THPT trên địa bàn Hà Nội.

Trường Trung học phổ thông Nguyễn Gia Thiều

Nhìn lại chặng đường gần 60 năm xây dựng và trưởng thành , các thế hệ giáo viên và học sinh trường Nguyễn Gia Thiều có thể tự hào về truyền thống vẻ vang của trường ; tự hào vì trường đã đóng góp cho đất nước những Anh hùng , liệt sĩ , những người chiến sĩ , nhà khoa học , trí thức , những cán bộ ...

Trường Trung học phổ thông MV.Lô-mô-nô-xốp

Sứ mệnh Xây dựng Hệ thống giáo dục Lômônôxốp có môi trường học tập nền nếp, kỉ cương, chất lượng giáo dục cao; học sinh được giáo dục toàn diện, có cơ hội, điều kiện phát triển phẩm chất, năng lực và tư duy sáng tạo, tự tin hội nhập.

Trường Trung học phổ thông Quốc tế Việt Úc Hà Nội

Trường thực hiện việc giảng dạy và học tập theo chương trình do Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành, thực hiện thời gian học tập theo biên chế năm học do Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định. Song song với chương trình này là chương trình học bằng tiếng Anh được giảng dạy bởi đội ngũ giáo viên bản ngữ giàu ...