24/05/2018, 23:42

Thị trường cổ phiếu

Người ta có thể có hàng trăm cách để đầu tư, muốn chọn được cách tốt nhất thì nhà đầu tư trước hết phải tìm được thông tin cơ bản về các công cụ tài chính mà họ đang xem xét. Trong thị trường chứng khoán thì cổ phiếu là cụng cụ tài chính thường được sử dụng ...

Người ta có thể có hàng trăm cách để đầu tư, muốn chọn được cách tốt nhất thì nhà đầu tư trước hết phải tìm được thông tin cơ bản về các công cụ tài chính mà họ đang xem xét. Trong thị trường chứng khoán thì cổ phiếu là cụng cụ tài chính thường được sử dụng nhất , thường được buôn bán nhiều nhất do tính đại chúng và lượng thông tin nhiều, được phổ biến rộng rói.

Đối với các doanh nghiệp ,các công ty thì việc phát hành cổ phiếu cú lợi hơn là việc phát hành các chứng chỉ nợ. Vì cụng ty nắm giữ tiền mà không phải trả lói theo thời hạn định, đối với việc mua cổ phiếu các cổ đông được nắm giữ cổ phiếu trong công ty, có nghĩa là các cổ đông mới sẽ được chia quyền sở hữu đối với các cổ đông đầu tiên.

Cổ phiếu là một chứng thư, chứng minh quyền sở hữu của một cổ đông đối với một công ty cổ phần, hay cổ phiếu là một giấy chứng nhận việc đầu tư vốn của một chủ thể vào một công ty cổ phần. Các cổ đông không phải là chủ nợ của công ty mà là người hùn vốn cùng công ty hoạt động , là người chủ sở hữu một phần của công ty. Cổ phiếu có thể có nhiều loại tuỳ thuộc vào đơn vị phát hành như : cổ phiếu ưu đói , cổ phiếu biểu quyết , cổ phiếu phổ thông …

+Thứ nhất : Thị trường chứng khoán của Việt Nam mặc dù cũng non trẻ nhưng cũng đó gúp phần rất lớn trong sự tăng trưởng kinh tế của Việt Nam. Và được các chuyên gia nước ngoài đánh giá rất cao và được coi là thị trường đầy tiềm năng. Bên cạnh đó thì chính phủ Việt Nam cũng đó và đang rất quan tâm đến thị trường chứng khoán Việt Nam.

Chính phủ đó cú các nghị quyết và chủ trương liên quan đến chiến lược phát triển của toàn ngành chứng khoán, đẩy mạnh hơn nữa tiến trình cổ phần húa doanh nghiệp Nhà nước đi đôi với phát triển thị trường chứng khoán. Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước được chuyển giao về Bộ Tài chính nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc thúc đẩy thị trường chứng khoán phát triển. Những yếu tố trên đó khiến thị trường cổ phiếu sau một thời gian dài rơi vào tình trạng trầm lắng đó cú sự hồi phục và tăng trưởng mạnh mẽ. Chỉ số VNIndex từ mức 166,94 điểm vào cuối năm 2003 đó tăng lên đến gần 280 điểm (tăng 67,7%) vào đầu tháng 4-2004 và hiện nay khá ổn định ở mức 230 điểm. Với việc giá cổ phiếu tăng mạnh, giới đầu tư đó quan tõm hơn đến thị trường chứng khoán khiến tình hình giao dịch cổ phiếu trên thị trường diễn ra sôi động hơn. Trong năm, Quỹ đầu tư chứng khoán đầu tiên đó được thành lập và được niờm yết chứng chỉ VF1 trên thị trường chứng khoán tập trung. + Thứ hai : Trên thị trường không chính thức, các hoạt động mua bán cổ phiếu diễn ra hết sức sôi động với hơn 100 loại cổ phiếu được giao dịch khá thường xuyên; trong đó có những tên tuổi nổi tiếng như Vinamilk, Giống Cây trồng miền Nam, Dầu Tường An, Dược Hậu Giang, Bảo Minh, Sacombank, ACB, Eximbank… Bên cạnh đó, với nỗ lực đẩy mạnh tiến trình cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước và được khích lệ bởi sự tăng trưởng trở lại của thị trường chứng khoán chính thức, các đợt đấu giá bán cổ phần ra công chúng thật sự “bùng nổ” và thu hút sự quan tâm rất lớn của công chúng đầu tư. Đặc biệt, năm 2004 chứng kiến sự phát triển mạnh mẽ của thị trường trái phiếu Việt Nam. Các đợt phát hành trái phiếu Chính phủ đó diễn ra đều đặn và mức độ thành công cũng khá hơn so với năm trước. Trên thị trường giao dịch, nghiệp vụ mua bán trái phiếu có kỳ hạn đó giúp tăng tính thanh khoản cho thị trường trái phiếu và thực sự đem lại lợi ích cho các đối tượng tham gia mua bán trái phiếu. Các đơn vị chiếm thị phần lớn trên thị trường trái phiếu cũng thu được lợi nhuận đáng kể từ nghiệp vụ này, nổi bật là Cụng ty Chứng khoán Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. Cùng với tốc độ tăng trưởng khá cao của nền kinh tế Việt Nam, tình hình hoạt động kinh doanh của phần lớn công ty niêm yết đều đạt những kết quả khả quan. Các công ty lớn trên thị trường như REE, Gemadept, Sacom … đều hoàn thành kế hoạch lợi nhuận trong năm. Một số công ty như Khahomex, Hacisco… cũng đó thành công trong việc phát hành thêm cổ phiếu để huy động vốn cho các dự án đầu tư mới. Bên cạnh đó, nhờ thị trường khởi sắc hơn và tiến trình cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước diễn ra mạnh mẽ hơn nên hoạt động của các công ty chứng khoán cũng đa dạng hơn và phần lớn đều đạt hiệu quả cao hơn mọi năm. Năm nay cũng chứng kiến sự tham gia mạnh mẽ hơn của các quỹ đầu tư chứng khoán như VEIL, PXP Fund, VF1 và các tổ chức đầu tư khác vào thị trường chứng khoán Việt Nam. Nhờ sự tham gia của các tổ chức này mà thị trường chứng khoán đó cú sự ổn định cần thiết trong một số giai đoạn.

+ Thứ ba : Làn sóng tăng vốn điều lệ của các ngân hàng thương mại cổ phần . Vấn đề tăng cường nội lực tài chính. Sức mạnh từ nội lực sẽ là nguồn gốc để tăng trưởng một cách bền vững chứ không dựa vào nguồn lực từ bên ngoài .Do đó để phát triển thị trường chứng khoán nói chung thì cần phải tăng cường nội lực, củng cố năng lực tài chính một cách vững mạnh. Hiện tại , theo ước tính cả nước ta có khoảng 34 ngân hàng thương mại cổ phần đang hoạt động. Hầu hết là những ngân hàng có tiềm lực tài chính vừa và nhỏ so với quy mô của thế giới, cho nên hầu hết các ngân hàng này đang thực hiện chính sách thắt lưng buộc bụng để tăng vốn điều lệ, nhất là trong hai năm gần đây. Nhờ có hệ số an toàn về vốn ngày càng tăng cao nên khả năng đáp ứng những khoản vay lớn cũng như các dịch vụ hiện đại cho đông đảo khách hàng. Một số đơn vị đó thành cụng với chiến lược tăng vốn của mình và trở thành những ngõn hàng thương mại cổ phần hàng đầu, như: Sacombank hiện có 505 tỷ đồng; ACB với 423,9 tỷ đồng. Kế đến là NHCP Xuất Nhập khẩu với 300 tỷ đồng, ngân hàng quân đội 280 tỉ , ngân hàng VIB 180 tỉ .Các ngân hàng đó thực hiện tăng vốn, mở rộng quy mô hoạt động; chuẩn bị cho thời kỳ hội nhập  với các tổ chức thương mại quốc tế và thực hiện cam kết Hiệp định thương mại Việt - Mỹ; theo đó, ngân hàng sẽ phải đối đầu với những cạnh tranh gay gắt.

Tổng kết báo cáo hàng năm của các ngân hàng thương mại cổ phần cho thấy, các ngân hàng có trách quõn lợi nhuận đạt từ 15-30%, tỷ lệ chia cổ tức đạt 15%. Nợ quá hạn của các ngân hàng đó giảm hơn 7% trong năm vừa qua và chỉ chiếm 6,35% trong toàn hệ thống. Theo các chuyên gia về kinh doanh tiền tệ, mặc dù số vốn điều lệ của các ngân hàng thương mại cổ phần cũng hạn chế nếu so với các ngân hàng liên doanh hay chi nhánh các ngân hàng nước ngoài, nhưng nhờ kinh doanh có hiệu quả trong mấy năm gần đây nên đầu tư vào các ngân hàng thương mại cổ phần đang có sự hấp dẫn hơn nhiều lĩnh vực khác; cổ phiếu các ngân hàng đang được các nhà đầu tư tìm mua. Điều đó cho thấy có một triển vọng lớn khi cổ phiếu các ngân hàng thương mại cổ phần được niêm yết trên thị trường chứng khoán.

 

Trên thực tế, một số ngân hàng thương mại cổ phần khi tăng vốn điều lệ đó bỏn được cổ phiếu của mình cao hơn mệnh giá nhiều lần. Khi ACB có được góp vốn của các cổ đông nước ngoài, lập tức giá cổ phiếu của cổ đông trong nước tăng 1,5 lần so với mệnh giá và cổ phiếu dành cho người nước ngoài đó tăng 2,1 lần. Cổ phiếu Sacombank đó bỏn được gấp 1,8 lần so với mệnh giá. Điều đó cho thấy các nhà đầu tư đó đặt niềm tin lớn vào hoạt động kinh doanh của các ngân hàng thương mại cổ phần.

Tuy nhiên , khi vốn tăng thì lại đặt ra một vấn đề là vấn đề sử dụng vốn như thế nào. Theo bà Bùi Thị Mai, Tổng giám đốc Habubank, việc điều hành một ngân hàng có số vốn điều lệ cả ngàn tỷ đồng hoàn toàn không giống việc điều hành một ngân hàng chỉ vài trăm tỷ vốn điều lệ. Vốn tăng vài trăm phần trăm, song khối lượng công việc tăng có khi đến vài ngàn phần trăm, khả năng bao quát, tầm nhìn, hệ thống thông tin - phản hồi... đều phải tăng và đòi hỏi tốt hơn trước là những áp lực đầu tiên.

Khi cổ đông góp vốn, đồng tiền của họ phải được sử dụng hiệu quả nhất. Cũng theo bà Mai, huy động vốn thì rất nhanh nhưng ngân hàng này đó phải chuẩn bị kế hoạch sử dụng lượng vốn huy động này trong nhiều tháng trời, đảm bảo sử dụng vốn hiệu quả và đem lại nhiều lợi nhuận cho các cổ đông nhất. Vấn đề là làm sao khi mở rộng quy mô phải đảm bảo chất lượng nguồn nhân lực để không ảnh hưởng tới khả năng phục vụ khách hàng, đồng thời bài toán duy trì tỷ lệ cổ tức cao cũng là yờu cầu không hề dễ đối với ban điều hành

+ Thứ tư : Quá trình nhảy vào của các ngõn hàng nước ngoài vào thị trường vốn ở Việt Nam.

Ngân hàng Nhà nước đó quyết định mức sở hữu tối đa của các nhà đầu tư nước ngoài tại ngân hàng cổ phần trong nước là 30%, dự thảo Nghị định về tổ chức tín dụng nước ngoài mua cổ phần của ngân hàng trong nước do NHNN soạn thảo đó được trình Chính phủ. Cho dự như vậy, các ngân hàng nước ngoài dường như vẫn sẵn sàng cho một đợt tăng số tiền góp vốn trong các ngân hàng Việt Nam, đặc biệt là các cổ đông chiến lược nước ngoài tới đây sẽ được sở hữu tới 20% cổ phần tại một ngân hàng Việt Nam.

Mới đây, một số hóng thông tấn nước ngoài đó đưa tin về việc HSBC và ANZ đó sẵn sàng tăng thêm vốn tại Ngân hàng Kỹ thương Việt Nam (Techcombank) và Ngân hàng Sài Gũn Thương tín (Sacombank). Cả hai ngân hàng nước ngoài này đều là các cổ đông chiến lược tại các ngân hàng mà họ đầu tư. Trong năm 2005, HSBC (ngân hàng lớn nhất châu Âu) và ANZ (ngân hàng cung cấp tín dụng lớn thứ 3 tại Australia) đó bỏ ra tương ứng 17,3 triệu USD và 27 triệu USD để mua 10% cổ phần tại Techcombank và Sacombank.

Theo tin đưa ra thì Đại hội cổ đông Techcombank đó thông qua Nghị quyết cú điểm cho phép bán thêm 10% cổ phần cho HSBC khi Nhà nước cho phép mở room lên 20% đối với cổ đông chiến lược nước ngoài. Trả lời Báo Đầu tư Chứng khoán, ông Nguyễn Đức Vinh, Tổng giám đốc Techcombank đó xỏc nhận thông tin này. Theo ụng Vinh, việc bỏn thêm 10% cổ phần cho HSBC đồng nghĩa với việc HSBC trở thành cổ đông lớn nhất tại Techcombank. Điều này cũng nằm trong kế hoạch tăng vốn lên mức khoảng từ 1.500 đến hơn 1.600 tỷ đồng của Techcombank trong năm tới. Việc tăng vốn của Techcombank thông qua việc phát hành thêm cổ phiếu mới, gồm hai phần dành cho cổ đông cũ và cổ đông chiến lược là HSBC.Đối với Techcombank, việc tăng vốn của cổ đông chiến lược tương đối dễ dàng, bởi room dành cho các nhà đầu tư nước ngoài vẫn cũng và HSBC mới là nhà đầu tư nước ngoài duy nhất của ngân hàng này. Nhưng đối với trường hợp của Sacombank sẽ khác, bởi hiện tại ngân hàng này đó sử dụng hết room 30% dành cho cổ đông nước ngoài. Hiện IFC, Dragon Capital và ANZ là 3 nhà đầu tư nước ngoài, mỗi nhà đầu tư nắm giữ 10% cổ phần của ngân hàng này.Mặc dù vậy, không có nghĩa ANZ không thể tăng thêm phần vốn góp bởi khi Sacombank phát hành thêm cổ phiếu để tăng vốn điều lệ, ANZ có thể mua thêm và thay đổi tỷ lệ nắm giữ nếu các nhà đầu tư nước ngoài khác là IFC và Dragon Capital không mua thêm. Điều này không làm ảnh hưởng tới trần tối đa 30% như đó núi trên.Hiện trong 4 ngõn hàng cổ phần cú nhà đầu tư chiến lược nước ngoài là Techcombank, Sacombank, Ngân hàng Á Châu (ACB) và Ngân hàng Ngoài quốc doanh (VPBank) thì ACB và Sacombank đó sử dụng hết room cho nhà đầu tư nước ngoài, Techcombank là 10% và VPBank là 20%.

Qua đó chúng ta có thể thấy được khả năng huy động vốn từ đầu tư gián tiếp của nước ngoài thông qua thị trường chứng khoán mà cụ thể ở đây là thông qua việc mua cổ phiếu để trở thành cổ đông. Tuy nhiên ở đây chúng ta phải lưu ý là việc huy động từ đầu tư nước ngoài phải hết sức phũng trỏnh việc thụn tính của các ngõn hàng nước ngoài đối với các ngân hàng trong nước. Từ đó có thể làm đảo lộn thị trường tài chính của Việt Nam , tránh một cuộc khủng hoảng tài chính nghiêm trọng. Hơn nữa, hầu hết các ngân hàng của Việt Nam hầu hết cũng non trẻ, chưa có nhiều kinh nghiệm trong việc quản lý và sử dụng vốn một cách cú hiệu quả từ các nguồn vốn cú thể huy động được. Từ đó mới thấy hết tầm quan trọng của nguồn vốn.

0