Thế Lữ Nguyễn Thứ Lễ

Nhà thơ Thế Lữ tên thật là Nguyễn Thứ Lễ, sinh tháng 10 năm Đinh Mùi (1907). Trong quyển Thi nhân Việt Nam có ghi sau đây: “nơi sinh Thế Lữ lấy làm lạ, người nhà nói là Thái Hà, ấp Hà Nội, còn thi sĩ thì cứ tưởng là Lạng Sơn, nơi đã ở từ khi còn bé đến năm 11 tuổi. 11 tuổi xuống Hải Phòng học đến năm thứ 3 Thành chung thì bỏ” . Có chân trong Tự lực văn đoàn và các toà soạn: Báo Phong hoá , Ngày nay , Tinh hoa . Đã xuất bản: Mấy vần thơ , Vàng và máu , Bên đường Thiên Lôi , Gió trăng ngàn , Trại Bồ Tùng Linh , Ba hồi kinh dị , Con quỷ truyền kiếp , Lê Phong phóng viên , Gói thuốc lá , Đòn hẹn , Mấy vần thơ, tập mới (1962). Hiện nay Thế Lữ ở miền Bắc. Văn nghệ -- ngoài ấy là thứ văn nghệ hiện thực, một chiều hướng với xã hội chủ nghĩa. Chúng ta đứng trên bìnhđiện thi ca, và thơ khác với những tính chất tuyên truyền, khác với những lý thuyết chính trị. Chúng ta không đề cập đến con người của Thế Lữ ngày nay mà chỉ nhớ đến Thế Lữ của thời vang bóng ngày xưa, thời: Thế Lữ của thi ca lãng mạn và Thế Lữ, một thi nhân có công trong phong trào thơ mới tiền chiến. Giỗ giấc ngủ thanh bình ta tìm về Thế Lữ... hình ảnh nhà tiên thi đó hiện ra bồng lớn trên những dãy ngân hà của thế giới thần tiên. Ô hay! cái thành công của cuộc đời nào đâu đã là chân lý, những vần thơ thực thế nào phải là thơ. Hoài Chân - Hoài Thanh bởi quá nặng tình với đời mà quên rằng... tâm hồn phiêu lưu về nẻo kỳ mộng của khách thơ không phải trong gió bụi. Có bao giờ người ta mới nhìn thấy được trong cái lạnh lùng tạnh vắng của hư không, của hắc ám, của hoan lạc, của trần ai bụi phủ. Nó hiện lên cảnh trí thanh bình. Ta hãy đi tìm trở về non nước chiêm bao... vì chiêm bao mới thực là lẽ sống của lòng người. Chúng ta cầu mong những linh hồn quá đau thương hãy về quần tụ cả trong thế giới thần tiên đó, với ngày tháng lung linh mộng, để mà lắng nghe giọng hót của một loài chim truyền kỳ chớp cánh giữa đảo quạnh mù sương, mang lại tiếng nói của mùa xuân vĩnh cửu. Bao nhiêu lao khổ nhục nhằn, những thực tại bi thảm đó chưa vừa ư mà còn gọi nhau đá đấm! Bao nhiêu lương tâm bị xô xé chưa vừa ư, còn phanh phui toan mang gót giầy đinh mà dẫm lên... bao nhiêu điêu tàn đổ vỡ trên cõi đời chưa vừa ư mà cứ hiu hiu dở tuồng anh hùng tuấn sĩ... để tàn gục vì trò định mệnh. Một giòng thơ nhẹ nhàng có tác dụng đẹp và cao nhã hơn nghn trang lý thuyết khó cỗi. Cái nụ cười mà bọn trưởng giả trí thức... các nhà tư tưởng lấy đôi mắt gọng kính mà nhìn bốn chân trời bát ngát của thơ thì thực có nhìn thấy gì đâu, chỉ thấy màu hoang tàn đổ xiêu trong cặp kính màu bệnh hoạn ấy thôi. Thời kỳ Thế Lữ là một thời mà người ta còn một niềm tin vào thi ngữ với vũ trụ thơ của mộng tình. Một thời pha màu sương khói của đường thi và tuyết mơ của văn học tây phương mười tám... thời kỳ mà trên tinh thần thi ca còn có một đền mộng của lịch sử nhân gian... còn có một niềm kính yêu với tạo vật... nhất là còn yên ổn để chơi thơ... thơ mà không chơi thì đếch có ra gì cả... Thơ mà làm như Tố Hữu sau này thì đếch phải thơ... không hiểu Nàng thơ quí phái như thế, bắt nàng thơ vùi trong hầm mỏ tro than thì nàng thơ sẽ chết gục ngay... xin đừng biện luận về thơ nữa các ngài duy vật ạ! Cỏ cây giao tình, xuân sắc đượm ngát hương thơm... lòng người mơn trớn, trong hoa chim mách lẽo, gió mơn trớn hoa và hoa điểm tô cho vườn ngự của nhân gian thêm phần diễm ảo, cảnh nào bằng trong Mộng ảnh : Người đẹp đứng bên nguồn Óng ả như mình liễu Mai tóc lả lơi buông Mặc gió cành trêu ghẹo Thơ đến kỳ tuyệt là điểm linh hồn trong mộng ảnh lung linh, ngôn ngữ rực sáng như ngọn hải đăng giữa mù sương đó là thơ không biện luận, không giải thích... Thơ có viễn tượng, nghệ thuật thơ siêu thực là nối được viễn tượng ngôn ngữ chứ không phải tạo những hình bóng quái dị, một tâm-não loạn, một lương tri quê quặc, ghê khiếp... xin các ngài đừng nghĩ là người viết bài khinh hay oán cõi đời, muốn làm cho lẽ đời cao đẹp, không phải cựa quyậy ở trong cõi tù túng được: Trèo lên trên đỉnh non cao Nghe lời chim gọi, gió dào dạt thưa... để nhìn thấy: Sóng rờn đôi mắt lung lay Tình xuân nồng đượm đôi mày thanh thanh Cười duyên đắm đuối trời tình Lòng ta như muốn tan thành hư không để cảm biết được cái chân lý: Ta ôm thiếu nữ trong lòng Người yêu thoắt biến thành bông hoa rừng Sự thật ở đâu, thoát ẩn thoát hiện cả cái nhan sắc của trần gian này cũng hồ nhu ảo, như chân... mộng và thực giao thoa, chỉ còn lại gì, thưa... còn lại: Bông hoa nay vẫn còn hương Lòng ta còn mối đau thương không cùng Đính hoa ở một bên lòng Ngàn năm tiếc giấc mơ màng khi xưa Mộng ngàn năm... đó là viễn tượng, đó là tình thiên thu, đó là cái mà định mệnh ác liệt không làm tan nát được, còn tất cả xin thưa... chỉ là hư ảnh, chỉ là phù du thôi... đau lòng mà nhìn cái hiện hoạt cõi đời như thế; chỉ có những vần thơ nhẹ tuyệt mù sương mỏng mới tạo được cái nghĩa phù du mà vô cùng vĩnh viễn đó: Hỏi xem mây có duyên gì, Mà con chim én đi về lững lơ Bởi vì trong cõi đời: Cũng như em tâm hồn ta đã lạnh Tự lâu rồi, từ cái thuở xa xăm Niềm hoài vọng ý thiết tha, bám chặt mười ngón tay vào cõi đời, nhất mực yêu từng ngọn cây cuốn lá, từng bước xuôi ngược gian nan muốn nghe được cả nỗi sầu nhân thế trong tiếng hát cung đàn, giữa phường lầu xanh, giữa hồ trăng hay tận hoàng hôn ngất lạnh. Tình yêu nghệ thuật, say đắm vẻ đẹp, thông cảm khổ đau, và tìm về một chân trời mộng tưởng hào hoa đó là cái lẽ đẹp say đắm của nhà thi sĩ ở giữa Hà-nội mưa phùn... Và đó là giấc mộng vàng... mộng tưởng quá xa xôi, đầm thấm và trẻ trung của một thuở thanh bình ngày nọ... Nguồn: Trần Tuấn Khải, Thi ca Việt Nam hiện đại Nhà thơ Thế Lữ tên thật là Nguyễn Thứ Lễ, sinh tháng 10 năm Đinh Mùi (1907). Trong quyển Thi nhân Việt Nam có ghi sau đây: “nơi sinh Thế Lữ lấy làm lạ, người nhà nói là Thái Hà, ấp Hà Nội, còn thi sĩ thì cứ tưởng là Lạng Sơn, nơi đã ở từ khi còn bé đến năm 11 tuổi. 11 tuổi xuống Hải Phòng học đến năm thứ 3 Thành chung thì bỏ” . Có chân trong Tự lực văn đoàn và các toà soạn: Báo Phong hoá , Ngày nay , Tinh hoa . Đã xuất bản: Mấy vần thơ , Vàng và máu , Bên đường Thiên Lôi , Gió trăng ngàn , Trại Bồ Tùng Linh , Ba hồi kinh dị , Con quỷ truyền kiếp , Lê Phong phóng viên , Gói thuốc lá , Đòn hẹn , Mấy vần thơ, tập mới (1962). Hiện nay Thế Lữ ở miền Bắc. Văn nghệ -- ngoài ấy là thứ văn … Mấy vần thơ (1935)

Nhà thơ Thế Lữ tên thật là Nguyễn Thứ Lễ, sinh tháng 10 năm Đinh Mùi (1907).

Trong quyển Thi nhân Việt Nam có ghi sau đây: “nơi sinh Thế Lữ lấy làm lạ, người nhà nói là Thái Hà, ấp Hà Nội, còn thi sĩ thì cứ tưởng là Lạng Sơn, nơi đã ở từ khi còn bé đến năm 11 tuổi. 11 tuổi xuống Hải Phòng học đến năm thứ 3 Thành chung thì bỏ”.

Có chân trong Tự lực văn đoàn và các toà soạn: Báo Phong hoá, Ngày nay, Tinh hoa.

Đã xuất bản: Mấy vần thơ, Vàng và máu, Bên đường Thiên Lôi, Gió trăng ngàn, Trại Bồ Tùng Linh, Ba hồi kinh dị, Con quỷ truyền kiếp, Lê Phong phóng viên, Gói thuốc lá, Đòn hẹn, Mấy vần thơ, tập mới (1962).

Hiện nay Thế Lữ ở miền Bắc. Văn nghệ -- ngoài ấy là thứ văn nghệ hiện thực, một chiều hướng với xã hội chủ nghĩa. Chúng ta đứng trên bìnhđiện thi ca, và thơ khác với những tính chất tuyên truyền, khác với những lý thuyết chính trị. Chúng ta không đề cập đến con người của Thế Lữ ngày nay mà chỉ nhớ đến Thế Lữ của thời vang bóng ngày xưa, thời: Thế Lữ của thi ca lãng mạn và Thế Lữ, một thi nhân có công trong phong trào thơ mới tiền chiến.

Giỗ giấc ngủ thanh bình ta tìm về Thế Lữ... hình ảnh nhà tiên thi đó hiện ra bồng lớn trên những dãy ngân hà của thế giới thần tiên.

Ô hay! cái thành công của cuộc đời nào đâu đã là chân lý, những vần thơ thực thế nào phải là thơ. Hoài Chân - Hoài Thanh bởi quá nặng tình với đời mà quên rằng... tâm hồn phiêu lưu về nẻo kỳ mộng của khách thơ không phải trong gió bụi. Có bao giờ người ta mới nhìn thấy được trong cái lạnh lùng tạnh vắng của hư không, của hắc ám, của hoan lạc, của trần ai bụi phủ. Nó hiện lên cảnh trí thanh bình. Ta hãy đi tìm trở về non nước chiêm bao... vì chiêm bao mới thực là lẽ sống của lòng người. Chúng ta cầu mong những linh hồn quá đau thương hãy về quần tụ cả trong thế giới thần tiên đó, với ngày tháng lung linh mộng, để mà lắng nghe giọng hót của một loài chim truyền kỳ chớp cánh giữa đảo quạnh mù sương, mang lại tiếng nói của mùa xuân vĩnh cửu.

Bao nhiêu lao khổ nhục nhằn, những thực tại bi thảm đó chưa vừa ư mà còn gọi nhau đá đấm! Bao nhiêu lương tâm bị xô xé chưa vừa ư, còn phanh phui toan mang gót giầy đinh mà dẫm lên... bao nhiêu điêu tàn đổ vỡ trên cõi đời chưa vừa ư mà cứ hiu hiu dở tuồng anh hùng tuấn sĩ... để tàn gục vì trò định mệnh. Một giòng thơ nhẹ nhàng có tác dụng đẹp và cao nhã hơn nghn trang lý thuyết khó cỗi.

Cái nụ cười mà bọn trưởng giả trí thức... các nhà tư tưởng lấy đôi mắt gọng kính mà nhìn bốn chân trời bát ngát của thơ thì thực có nhìn thấy gì đâu, chỉ thấy màu hoang tàn đổ xiêu trong cặp kính màu bệnh hoạn ấy thôi.

Thời kỳ Thế Lữ là một thời mà người ta còn một niềm tin vào thi ngữ với vũ trụ thơ của mộng tình. Một thời pha màu sương khói của đường thi và tuyết mơ của văn học tây phương mười tám... thời kỳ mà trên tinh thần thi ca còn có một đền mộng của lịch sử nhân gian... còn có một niềm kính yêu với tạo vật... nhất là còn yên ổn để chơi thơ... thơ mà không chơi thì đếch có ra gì cả... Thơ mà làm như Tố Hữu sau này thì đếch phải thơ... không hiểu Nàng thơ quí phái như thế, bắt nàng thơ vùi trong hầm mỏ tro than thì nàng thơ sẽ chết gục ngay... xin đừng biện luận về thơ nữa các ngài duy vật ạ!

Cỏ cây giao tình, xuân sắc đượm ngát hương thơm... lòng người mơn trớn, trong hoa chim mách lẽo, gió mơn trớn hoa và hoa điểm tô cho vườn ngự của nhân gian thêm phần diễm ảo, cảnh nào bằng trong Mộng ảnh:
Người đẹp đứng bên nguồn
Óng ả như mình liễu
Mai tóc lả lơi buông
Mặc gió cành trêu ghẹo
Thơ đến kỳ tuyệt là điểm linh hồn trong mộng ảnh lung linh, ngôn ngữ rực sáng như ngọn hải đăng giữa mù sương đó là thơ không biện luận, không giải thích... Thơ có viễn tượng, nghệ thuật thơ siêu thực là nối được viễn tượng ngôn ngữ chứ không phải tạo những hình bóng quái dị, một tâm-não loạn, một lương tri quê quặc, ghê khiếp... xin các ngài đừng nghĩ là người viết bài khinh hay oán cõi đời, muốn làm cho lẽ đời cao đẹp, không phải cựa quyậy ở trong cõi tù túng được:
Trèo lên trên đỉnh non cao
Nghe lời chim gọi, gió dào dạt thưa...
để nhìn thấy:
Sóng rờn đôi mắt lung lay
Tình xuân nồng đượm đôi mày thanh thanh
Cười duyên đắm đuối trời tình
Lòng ta như muốn tan thành hư không
để cảm biết được cái chân lý:
Ta ôm thiếu nữ trong lòng
Người yêu thoắt biến thành bông hoa rừng
Sự thật ở đâu, thoát ẩn thoát hiện cả cái nhan sắc của trần gian này cũng hồ nhu ảo, như chân... mộng và thực giao thoa, chỉ còn lại gì, thưa... còn lại:
Bông hoa nay vẫn còn hương
Lòng ta còn mối đau thương không cùng
Đính hoa ở một bên lòng
Ngàn năm tiếc giấc mơ màng khi xưa
Mộng ngàn năm... đó là viễn tượng, đó là tình thiên thu, đó là cái mà định mệnh ác liệt không làm tan nát được, còn tất cả xin thưa... chỉ là hư ảnh, chỉ là phù du thôi... đau lòng mà nhìn cái hiện hoạt cõi đời như thế; chỉ có những vần thơ nhẹ tuyệt mù sương mỏng mới tạo được cái nghĩa phù du mà vô cùng vĩnh viễn đó:
Hỏi xem mây có duyên gì,
Mà con chim én đi về lững lơ
Bởi vì trong cõi đời:
Cũng như em tâm hồn ta đã lạnh
Tự lâu rồi, từ cái thuở xa xăm
Niềm hoài vọng ý thiết tha, bám chặt mười ngón tay vào cõi đời, nhất mực yêu từng ngọn cây cuốn lá, từng bước xuôi ngược gian nan muốn nghe được cả nỗi sầu nhân thế trong tiếng hát cung đàn, giữa phường lầu xanh, giữa hồ trăng hay tận hoàng hôn ngất lạnh. Tình yêu nghệ thuật, say đắm vẻ đẹp, thông cảm khổ đau, và tìm về một chân trời mộng tưởng hào hoa đó là cái lẽ đẹp say đắm của nhà thi sĩ ở giữa Hà-nội mưa phùn... Và đó là giấc mộng vàng... mộng tưởng quá xa xôi, đầm thấm và trẻ trung của một thuở thanh bình ngày nọ...


Nguồn: Trần Tuấn Khải, Thi ca Việt Nam hiện đại
Nhà thơ Thế Lữ tên thật là Nguyễn Thứ Lễ, sinh tháng 10 năm Đinh Mùi (1907).

Trong quyển Thi nhân Việt Nam có ghi sau đây: “nơi sinh Thế Lữ lấy làm lạ, người nhà nói là Thái Hà, ấp Hà Nội, còn thi sĩ thì cứ tưởng là Lạng Sơn, nơi đã ở từ khi còn bé đến năm 11 tuổi. 11 tuổi xuống Hải Phòng học đến năm thứ 3 Thành chung thì bỏ”.

Có chân trong Tự lực văn đoàn và các toà soạn: Báo Phong hoá, Ngày nay, Tinh hoa.

Đã xuất bản: Mấy vần thơ, Vàng và máu, Bên đường Thiên Lôi, Gió trăng ngàn, Trại Bồ Tùng Linh, Ba hồi kinh dị, Con quỷ truyền kiếp, Lê Phong phóng viên, Gói thuốc lá, Đòn hẹn, Mấy vần thơ, tập mới (1962).

Hiện nay Thế Lữ ở miền Bắc. Văn nghệ -- ngoài ấy là thứ văn …

Mấy vần thơ (1935)

Bài liên quan

Tú Mỡ Hồ Trọng Hiếu

Tú Mỡ (1900-1976) tên thật là Hồ Trọng Hiếu, sinh ngày 14-3-1900 tại phố Hàng Hòm, Hà Nội. Lên 5 tuổi, ông bắt đầu học chữ nho, học hết bộ Tam tự kinh thì bố ông mới cho học chữ quốc ngữ. Năm 14 tuổi, ông đỗ đầu bằng sơ học Pháp-Việt và được học tại trường Bưởi (nay là trường Chu Văn An). Năm 18 ...

Nguyễn Bao Mạc Tú, Thuỳ Anh

Nhà thơ Nguyễn Bao sinh năm 1932 tại Thanh Hoá. Các bút danh khác còn có Mạc Tú, Thuỳ Anh. Các tác phẩm: - Đôi cánh (1962) - Vua Rồng xứ Lạc (1968) - Hoa đỏ Trường Sơn (t1974) - Suối bên đường (1977) - Gió thơm (1980) - Sang thu (1995) Vua Rồng xứ Lạc (1968)

Ngô Văn Phú

Ngô Văn Phú sinh ngày 8 tháng 4 năm 1937, quê quán xã Nam Viêm, huyện Mê Linh, tỉnh Vĩnh Phúc. Nơi ở hiện nay: Giảng Võ, Ba Đình, Hà Nội. Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam. Tốt nghiệp Đại học Tổng hợp Hà Nội (ngành ngữ văn). Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam (1970). Nhà thơ Ngô Văn Phú vào đời văn khá ...

Nguyễn Trọng Cẩn

Nguyễn Trọng Cẩn hiệu là Hoài Nam, sinh năm 1900 tại Quảng Bình, mất năm 1947 do trúng đạn của quân Pháp. Ông có trí nhớ hơn người, văn viết lưu loát, tự nhiên, là chủ bút tạp chí "Thần kinh" (Huế, 1927) và đã xuất bản tập thơ "Tiếng quốc canh khuya" (Huế, 1937). Hoạ 10 bài Khuê phụ thán của Thượng ...

Tôn Quang Phiệt

Tôn Quang Phiệt (1900-1973), nhà hoạt động chính trị, nhà nghiên cứu lịch sử Việt Nam, quê tại Võ Liệt, Thanh Chương, Nghệ An. Học Cao đẳng Sư phạm Hà Nội (cùng Đặng Thai Mai, Phạm Thiều...), lập ra Việt Nam Nghĩa hoà Đoàn, tham gia đấu tranh đòi thực dân Pháp thả cụ Phan Bội Châu (giữa 1925). Hội ...

Nguyễn Quân

Nguyễn Quân (1933-) là nhà thơ, người làng Xuân Hoà, phường An Khê, thành phố Đà Nẵng. Được nhận các giải thưởng của Trung ương và địa phương. Tác phẩm: - Đau đáu khoảng trời xanh - Nợ và duyên - Vầng trăng khuyết - Ngọn đèn tắt - Em đến cùng mùa xuân Nguồn: Nhà văn Quảng Nam Đà Nẵng (Hội VHNT ...

Phan Thanh Phước

Phan Thanh Phước dòng dõi Phan Thanh Giản, quê ở Nam Kỳ, sinh ở Huế năm 1916. Học ở Quảng Trị, Faifo, Huế. Có bằng thành chung, sau làm việc cho Nam triều.

Hoàng Anh Tú Chánh Văn

Hoàng Anh Tú sinh ngày 3/10/1978 là một cái tên rất quen thuộc với các độc giả Việt Nam, đặc biệt là độc giả trẻ. Anh từng là bút trưởng (thế hệ thứ ba) của hội bút Hương đầu mùa, và giữ mục Công ty Divu với tên gọi Chánh Văn trên tuần báo Hoa học trò từ năm 2000 đến 2010. Anh cũng là chủ biên hai ...

Nguyễn Văn Hồng Minh Hồng

Nguyễn Văn Hồng (1934-) bút danh Minh Hồng, là nhà giáo, nhà thơ Việt Nam, quê ở Thanh Hoá. Từ năm 1955 đến 1961, ông học Khoa Lịch sử Đại học Bắc Kinh (Trung Quốc). Từ năm 1965 đến 1967, ông làm giáo viên tu nghiệp tại Đại học Nam Khai, Thiên Tân (Trung Quốc). Từ năm 1967 đến 2004, ông làm giảng ...

Xuân Diệu Ngô Xuân Diệu

Xuân Diệu tên thật là Ngô Xuân Diệu, sinh ngày 2-2-1916 tại Tuy Phước, tỉnh Bình Định cũ, nơi cha là Ngô Xuân Thọ vào dạy học và kết duyên với mẹ là Nguyễn Thị Hiệp. Xuân Diệu sau ra Hà Nội học, 1938-1940 ông và Huy Cận ở gác 40 Hàng Than. Ông tốt nghiệp kỹ sư canh nông năm 1943. Ông mất ngày ...

Mới nhất

THPT Đinh Tiên Hoàng

THPT Đinh Tiên Hoàng đang không ngừng nỗ lực phát triển trở thành một ngôi trường với chất lượng giảng dạy tốt nhất, tạo ra những thế hệ học sinh chất lượng

THPT Thực nghiệm

Trường THPT Thực Nghiệm trực thuộc Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam. Trường là cơ sở giáo dục đào tạo công lập trong hệ thống giáo dục quốc dân và trong hệ thống các trường phổ thông của thành phố Hà Nội. Trường dạy học theo chương trình giáo dục Trung học phổ thông của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Tiếp ...

THPT Đông Kinh

Khẩu hiệu hành động: “ Hãy đặt mình vào vị trí cha mẹ học sinh để giảng giải giáo dục và xử lý công việc ” “ Tất cả vì học sinh thân yêu ”

THPT Hà Nội Academy

Những rào cản còn tồn tại kể trên sẽ được vượt qua bởi những công dân toàn cầu tích cực với nhiệm vụ chung tay xây dựng một thế giới tốt đẹp hơn thông qua việc nghiên cứu và tìm kiếm giải pháp cho những vấn đề toàn cầu bao gồm, nhưng không giới hạn ở nhân quyền, đói nghèo và công bằng xã hội. Nhận ...

http://thptkimlien-hanoi.edu.vn/

Qua 40 năm nỗ lực phấn đấu trong các hoạt động giáo dục, vượt khó khăn, thiếu thốn về cơ sở vật chất, trường THPT Kim Liên đã tạo dựn được uy tín vững chắc, là 1 trong 5 trường THPT hàng đầu của Thủ đô có chất lượng giáo dục toàn diện không ngừng nâng cao và trở thành địa chỉ tin cậy của các bậc ...

THPT Tô Hiến Thành

Trường THPT Tô Hiến Thành được thành lập từ năm học 1995-1996, theo quyết định của Ủy Ban nhân dân tỉnh Thanh Hóa. Đến tháng 6/2010, trường chuyển đổi loại hình sang công lập. Suốt 20 năm phát triển, thầy, cô giáo, thế hệ học sinh đã phấn đấu vượt qua mọi khó khăn, gian khổ, từng bước phát triển ...

THPT Mai Hắc Đế

Trường THPT Mai Hắc Đế được thành lập năm 2009, sau gần 10 năm xây dựng và phát triển, Trường đã trở thành một địa chỉ tin cậy trong đào tạo bậc THPT trên địa bàn Hà Nội.

Trường Trung học phổ thông Nguyễn Gia Thiều

Nhìn lại chặng đường gần 60 năm xây dựng và trưởng thành , các thế hệ giáo viên và học sinh trường Nguyễn Gia Thiều có thể tự hào về truyền thống vẻ vang của trường ; tự hào vì trường đã đóng góp cho đất nước những Anh hùng , liệt sĩ , những người chiến sĩ , nhà khoa học , trí thức , những cán bộ ...

Trường Trung học phổ thông MV.Lô-mô-nô-xốp

Sứ mệnh Xây dựng Hệ thống giáo dục Lômônôxốp có môi trường học tập nền nếp, kỉ cương, chất lượng giáo dục cao; học sinh được giáo dục toàn diện, có cơ hội, điều kiện phát triển phẩm chất, năng lực và tư duy sáng tạo, tự tin hội nhập.

Trường Trung học phổ thông Quốc tế Việt Úc Hà Nội

Trường thực hiện việc giảng dạy và học tập theo chương trình do Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành, thực hiện thời gian học tập theo biên chế năm học do Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định. Song song với chương trình này là chương trình học bằng tiếng Anh được giảng dạy bởi đội ngũ giáo viên bản ngữ giàu ...