Đưa người ta không đưa qua sông
Sao có tiếng sóng ở trong lòng?
Bóng chiều không thắm, không vàng vọt
Sao đầy hoàng hôn trong mắt trong?
(Trích “Tống Biệt Hành”)
1. Quá trình cuộc đời
Đó là bốn câu thơ mở đầu cho bài “Tống biệt hành”, bài thơ đã làm nên sự nghiệp văn chương của Thâm Tâm.
Thâm Tâm tênthật là Nguyễn Tuấn Trình, sinh ngày 12 tháng 5 năm 1917 tại thị xã Hải Dương (nay là thành phố Hải Dương), tỉnh Hải Dương.
Xuất thân trong một nhà giáo nền nếp đông anh chị em. Cụ thân sinh Nguyễn Tuấn Thịnh, làm thày giáo nên còn gọi là cụ giáo Thịnh. ThâmTâm có 2 chị gái, 2 em trai và 2 em gái. Em trai út tên là Nguyễn Tuấn San, bút danh Hoài Niệm, Bắc Thôn, tác giả truyện thiếu nhi "Hai làng Tà Pình và Động Hía". Bà Phạm Thị An (1920-2005) là vợ Thâm Tâm. Thâm Tâm có 1 con trai duy nhất, Nguyễn Tuấn Khoa, sinh năm 1946, nguyên Viện trưởng Viện Thông tin Y học Bộ Y tế, tác giả truyện ngắn "Hoa Thạch Trúc báo bình yên". Con dâu là Nguyễn Ngọc Mỹ, nguyên Chủ nhiệm Bộ môn Ngoại ngữ, Đại học Dược Hà Nội. Hai cháu nội là Nguyễn Tuấn Huy và Nguyễn Mỹ Trang.
Từ năm 1938, ông học tiểu học ở Hà Nội, từng vẽ tranh để kiếm sống. Từ những năm 1940, ông tham gia viết báo, viết văn và thường được đăng tải trên Tiểu thuyết thứ bảy, Ngày nay, Tiểu thuyết thứ năm và Truyền bá quốc ngữ... Sau Cách mạng tháng Tám 1945, Thâm Tâm tham gia văn hóa Cứu quốc, ở trong Ban biên tập báo Tiên Phong (1945-1946), sau đó ôngnhập ngũ, làm thư ký tòa soạn báo Vệ quốc quân (sau là báoQuân đội Nhân dân).
Ông mất sau một cơn bệnh đột ngột ngày 18 tháng 8 năm 1950 trên đường đi công tác trong chiến dịch Biên giới, được đồng đội và nhân dân địa phương mai táng tại Bản Pò Noa, Xã Phi Hải, HuyệnQuảng Uyên, tỉnh Cao Bằng.
Thâm Tâm được truy tặng Giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật năm 2007
2. Sự nghiệp văn chương
Ông từng thử sức trên nhiều thể loại nhưng thành công hơn cả vẫn là thơ. Thơ Thâm Tâm có nhiều giọng điệu, khi buồn da diết, khi trầm hùng, bi tráng, khi reo vui...
Cuộc đời Thâm Tâm kết thúc ở tuổi 33 và sự nghiệp thi ca của ông chỉ gói lại trong khoảng hai chục bài, đa phần đều được ông viết vào giai đoạn trước Cách mạng. Tác giả Bùi Văn Trọng Cường đã nhận xét đúng: "Gam màu chủ đạo của hồn thơ Thâm Tâm là trầm và lạnh". Thâm Tâm nổi tiếng với bài thơ Tống biệt hành. Sinh thời ông chưa in thơ thành tập. Sáng tác thơ của ông được xuất bản năm 1988 trong sưu tập Thơ Thâm Tâm.
Ngoài ra, Thâm Tâm còn có có 3 bài thơ Gửi T.T.Kh., Màu máu Tygôn, Dang dở. Đây là những bài thơ tình hay nhất của Thâm Tâm gởi cho thi sĩ bí ẩn T.T.Kh. trong năm 1940.