Tản Đà 傘沱, Nguyễn Khắc Hiếu

Tản Đà 傘沱 (1889-1939) tên thật là Nguyễn Khắc Hiếu 阮克孝, sinh năm Thành Thái thứ nhất (Kỷ Sửu) ngày 20 tháng 4, dương lịch là 19-5-1889 tại làng Khê Thượng, huyện Bất Bạt, tỉnh Sơn Tây, một làng trung du nhỏ bên sông Đà, chỉ cách núi Tản Viên 10km đường chim bay. Nay Khê Thượng được nhập với một số xã khác thành xã Sơn Đà thuộc huyện Ba Vì, ngoại thành Hà Nội. Ông xuất thân trong một dòng họ khoa bảng lâu đời, chính quán ở làng Lủ tức Kim Lũ, xã Đại Kim, huyện Thanh Trì, ngoại thành Hà Nội. Nay nhà thờ tổ họ vẫn còn ở xã, được xếp vào di tích liệt hạng, vì có nhiều nhân vật lịch sử và danh nhân văn hoá như Nguyễn Công Thể (tổ 6 đời của Tản Đà), tả thị lang bộ Lại, thượng thư bộ Lễ, Thái bảo thái phó Kiều quận công, đã có công đấu tranh với triều đình nhà Thanh để giữ đất biên cương ở trấn Tuyên Quang; Phương Đình - Nguyễn Văn Siêu (thần Siêu, thánh Quát); đầu xứ Trừu tức Hổ Trừu, nhà thơ trào phúng, tú tài Quyến, em ruột Hổ Trừu, theo lãnh tụ Cần Vương Ngô Quang Bích được cử sang Trung Quốc tìm gặp Tôn Thất Thuyết v.v... Khi nhà Nguyễn nắm quyền thống trị đất nước, các cụ dòng họ Nguyễn làng Khê Thượng đã lập lời thề không ra làm quan với triều đại mới, từ đó dòng họ sa sút nghèo khổ, chỉ làm “thầy đồ làng”, tới Nguyễn Danh Kế là thân sinh Tản Đà vừa phải đi học vừa làm thợ thổ (làm đất thuê) để nuôi mẹ. Vì quá túng thiếu nên Nguyễn Danh Kế đã ra thi, đỗ Cử nhân triều Tự Đức, bổ tri huyện Nam Sang, tri phủ Lý Nhân, rồi Xuân Trường (đều thuộc Hà Nam Ninh ngày nay), thăng án sát Ninh Bình rồi mất (1837-1891). Tuy gửi thân vào chốn quan trường nhưng Nguyễn Danh Kế có cốt cách một nhà nho tài tử, và trong chốn Bình Khang đã gặp một đào nương tài sắc ở phố Hàng Thao, Nam Định là Nhữ Thị Nghiêm. Yêu vì tài, cảm vì tình, hai người đã lấy nhau hồi Nguyễn Danh Kế làm tri phủ Xuân Trường. Từ cuộc hôn nhân ấy đã sinh ra Nguyễn Khắc Hiếu, còn tên là Cứu, thường được gọi là “ấm Cứu” rồi “ấm Hiếu”. Ấm Hiếu là con thứ tư và là con út của bà Nhữ Thị Nghiêm và là con trai thứ 11, cùng út của Nguyễn Danh Kế (ông có 3 vợ, 11 con). Năm Nguyễn Khắc Hiếu lên ba tuổi thì thân phụ qua đời, năm lên 4 mẹ trở lại nghề cũ với tiếng đàn câu hát, khi Hà Nội, khi Bắc Ninh. Từ đó, ông được người anh khác mẹ là Nguyễn Tái Tích, phó bảng ra giáo thụ, nuôi dưỡng và cho ăn học chuyên về khoa cử. Do ảnh hưởng gia đình, năm 14 tuổi, ông đã thạo các lối từ chương thi phú. Năm 1907, ông theo anh ra Hà Nội, học trường Quy Thức ở phố Gia Ngư. Năm 1909, đi thi Hương ở Nam Định, bị hỏng. Năm 1912, đi thi khoa Nhâm Tý với hy vọng nếu đỗ cử nhân thì sẽ kết duyên cùng nàng Đỗ thị ở phố Hàng Bồ, Hà Nội, nhưng vẫn hỏng. Trở về Hà Nội, chứng kiến người yêu là cô Đỗ đi lấy chồng, ông chán nản bỏ về Hoà Bình tìm khuây lãng; rồi cùng bạn là nhà tư sản Bạch Thái Bưởi lên chùa uống rượu, làm thơ và thưởng trăng, sống theo lối “tịch cốc”. Năm 1915, ông lập gia đình. Năm 1916, người anh từ trần, gia đình trở nên cùng túng, Tản Đà quyết định chuyển hẳn sang nghề cầm bút. Thời gian này ông viết tuồng cho các rạp và được đọc thêm nhiều sách dịch Âu Tây bằng chữ Hán, nhờ đó tư tưởng có nhiều biến chuyển. Năm 1920, đi du lịch ở Huế, Đà Nẵng, trở về viết truyện Thề non nước . Năm 1921, làm chủ bút tờ Hữu Thanh tạp chí . Được 6 tháng, từ chức, trở về quê. Năm 1922, lại ra Hà Nội lập Tản Đà thư điếm , sau tập hợp với Nghiêm hàm ấn quán thành Tản Đà thư cục . Năm 1925, phong trào yêu nước dấy lên mạnh mẽ, Tản Đà càng nhập thế tích cực hơn. Ông tổ chức một chuyến du lịch vào Nam, gặp gỡ nhiều nhà chí sĩ và viết bài trên nhiều báo. Tháng 2 năm 1928, trở về Bắc, rồi lên định cư vùng Yên Lập (Vĩnh Yên), nhưng bị quan lại địa phương gây khó dễ, phải xuống Hải Phòng, rồi lại lên Hà Nội. Năm 1933, sau khi An Nam tạp chí bị đình bản, ông chuyển sang trợ bút cho Văn học tạp chí ít lâu rồi về quê ở ẩn. Cuối năm 1937, chuyển về làng Hà Trì (Hà Đông), tham gia dịch thuật, viết báo. Sau vì bị viên quan Tổng đốc Hà Đông thù ghét, phải chuyển ra Hà Nội, mở lớp dạy Quốc văn hàm thụ, Hán văn diễn giảng, kiêm cả xem lý số Hà lạc. Ông sống nghèo đói, không đủ ăn và trả tiền nhà, bị chủ nhà tịch thu đồ đạc và đuổi đi, Tản Đà phải cùng gia đình dọn về phố Cầu Mới. Trong hai năm 1937 và 1938, ông dịch thơ Đường đăng nhiều trên báo Ngày nay . Ông qua đời vì bệnh vào ngày 7 tháng 6 năm 1939 (20 tháng 4 năm Kỷ Mão) tại nhà 71 phố Cầu Mới, Ngã Tư Sở, Hà Nội (nay là nhà số 47 Nguyễn Trãi), thọ 51 tuổi. Năm 1963, di hài Tản Đà đã được cải táng đưa về chôn ở cánh đồng Cửu Quán, thôn Hội Xá (quê vợ của nhà thơ), xã Hương Sơn, tỉnh Hà Tây cũ. Trên văn đàn của văn học Việt Nam trong hơn 3 thập niên đầu thế kỷ 20, Tản Đà nổi lên như một ngôi sao sáng, vừa độc đáo, vừa dồi dào năng lực sáng tạo. Ông là một cây bút phóng khoáng, xông xáo trên nhiều lĩnh vực, đi khắp miền đất nước, ông để lại nhiều tác phẩm với nhiều thể loại. Ông đã từng làm chủ bút tạp chí Hữu thanh, An Nam tạp chí. Ông được đánh giá là người chuẩn bị cho sự ra đời của thơ mới trong nền văn học Việt Nam, là “gạch nối giữa hai thời kỳ văn học cổ điển và hiện đại”. Ngoài sáng tác thơ, Tản Đà còn giỏi trong việc dịch thơ Đường ra thơ lục bát. Hiệu Tản Đà chỉ núi Tản Viên (tức núi Ba Vì) và sông Đà (còn gọi là Hắc giang vì nước lúc nào cũng đen), được ông thích nghĩa bằng ba câu yết hậu: Ba Vì ở trước mặt Hắc giang bên cạnh nhà Tản Đà Văn: - Giấc mộng con I (1917) - Giấc mộng con II (1932) - Giấc mộng lớn (1932) - Thề non nước (1922) - Tản Đà văn tập (1932) Thơ: - Khối tình con I (1916) - Khối tình con II (1918) - Tản Đà xuân sắc (1918) - Khối tình con III (1932) Kịch: - Tây Thi (1922) - Tống biệt (1922) Dịch thuật: - Liêu Trai chí dị (1934) Nghiên cứu: - Vương Thuý Kiều chú giải (1938) - Một số bài báo... Nguồn: 1. Thơ Đường Tản Đà dịch , Nguyễn Quảng Tuân biên soạn, NXB Trẻ và Hội Nghiên cứu và Giảng dạy Văn học TP. Hồ Chí Minh, 1989 2. Tuyển tập Tản Đà , Nguyễn Khắc Xương tuyển chọn khảo dị và đính chính, Xuân Diệu viết giới thiệu, NXB Hội nhà văn, 2002 Tản Đà 傘沱 (1889-1939) tên thật là Nguyễn Khắc Hiếu 阮克孝, sinh năm Thành Thái thứ nhất (Kỷ Sửu) ngày 20 tháng 4, dương lịch là 19-5-1889 tại làng Khê Thượng, huyện Bất Bạt, tỉnh Sơn Tây, một làng trung du nhỏ bên sông Đà, chỉ cách núi Tản Viên 10km đường chim bay. Nay Khê Thượng được nhập với một số xã khác thành xã Sơn Đà thuộc huyện Ba Vì, ngoại thành Hà Nội. Ông xuất thân trong một dòng họ khoa bảng lâu đời, chính quán ở làng Lủ tức Kim Lũ, xã Đại Kim, huyện Thanh Trì, ngoại thành Hà Nội. Nay nhà thờ tổ họ vẫn còn ở xã, được xếp vào di tích liệt hạng, vì có nhiều nhân vật lịch sử và danh nhân văn hoá như Nguyễn Công Thể (tổ 6 đời của Tản Đà), tả thị lang bộ Lại, thượng thư bộ Lễ, Thái bảo thái phó Kiều quận công, đã có công đấu tranh với triều đình nhà Thanh để giữ đất biên cương ở trấ… Khối tình con Đài gương (1919) Còn chơi (1921) Tản Đà - Người mở đầu thơ Việt Nam hiện đại Đăng bởi nguyễn thế trung vào 08/01/2006 14:57 Đã sửa 1 lần, lần cuối bởi Vanachi vào 31/01/2006 10:03 Tác giả: Kiều Thu Hoạch Tản Đà - Nguyễn Khắc Hiếu (1889-1939) - người làng Khê Thượng, xã Sơn Đà (Ba Vì, Hà Tây) - được coi là nhà thơ, nhà văn, nhà báo tiêu biểu trên văn đàn Việt Nam đầu thế kỷ 20. Với những bài thơ có tư tưởng cách tân, vượt ra ngoài lối thơ niêm luật gò bó, Tản Đà là người mở đầu cho thơ Việt Nam hiện đại. Ông có thơ ngông, thơ buồn, thơ say, thơ lãng mạn... nhưng tất thảy đều thể hiện tấm lòng yêu nước thương nòi. Tản Đà cũng là người đóng vai trò khai sáng và tiên phong trong văn xuôi nghệ thuật. Tản Đà tên thật là Nguyễn Khắc Hiếu, quê ở làng Khê Thượng, nay thuộc xã Sơn Đà, huyện Ba Vì, tỉnh Hà Tây. Ông sinh năm 1889, mất năm 1939. (1) Cha ông là Nguyễn Danh Kế, đậu cử nhân thời Tự Đức, được bổ tri huyện, tri phủ, rồi án sát, nên ông được "tập ấm", thường gọi là Ấm Hiếu. Mẹ ông là một đào nương nổi tiếng tài sắc ở phố Hàng Thao, Nam Thành, lấy lẽ thứ ba ông Nguyễn Danh Kế và Ấm Hiếu là con thứ tư, mà cũng là con út của bà. Năm Ấm Hiếu lên ba tuổi thì bố mất, sau đó mẹ ông lại trở về nghề cũ. Từ bấy giờ, ông được người anh cùng cha khác mẹ là Giáo thụ Nguyễn Tài Tích nuôi dưỡng. Theo tác phẩm Giấc mộng lớn, một cuốn tự truyện của Tản Đà, đồng thời là cuốn tự truyện đầu tiên của văn học Việt Nam, thì ông đã thi hỏng luôn hai khóa ở trường Nam (trường thi Nam Định). Sau lần hỏng thi khoa Nhâm Tý (1912), ông mới thôi nghề khoa cử. Lúc này, ông có dịp được đọc các tân thư Trung Quốc dịch của người Thái Tây (2) và rất ham đọc báo chí Trung Quốc. Sự nghiệp làm báo của Tản Đà bắt đầu được khơi gợi từ đây. Chính trong "Giấc mộng lớn", ông đã viết: "Ngoài sự làm văn thơ, chỉ mê thiết xem các thứ nhật trình Tàu. Cảnh ngộ vô tình mà cái cơ duyên báo chí sau này cũng phát đoan (3) từ đấy". Trong thời kỳ này, Tản Đà còn được người anh rể Nguyễn Thiện Kế dìu dắt vào con đường văn chương. Nguyễn Thiện Kế từng làm tri huyện Tùng Thiện và Phúc Thọ của xứ Đoài, vốn là một nhà thơ trào phúng nổi tiếng đương thời, lại là người chịu ảnh hưởng sâu sắc của phong trào yêu nước và cách mạng đầu thế kỷ 20, thường làm thơ đả kích táo bạo bọn quan lại cao cấp, tay sai của thực dân Pháp. Trong "Giấc mộng lớn", Tản Đà tỏ ra hết sức kính phục tài văn chương của quan huyện Nguyễn Thiện Kế, gọi ông là đại thi hào, đồng thời cũng ghi nhận ảnh hưởng của nhà thơ này đối với mình: "Cái sinh nhai quốc văn của mình có hay hơn mười năm nay, thực từ trong lúc thanh niên, có quan huyện - Nguyễn Thiện Kế, phát đoan, dẫn đạo". Tác phẩm đầu tiên của Tản Đà được công bố trước công chúng là những bài tản văn đăng ở "Đông Dương tạp chí", năm 1915. Văn của Tản Đà ngay từ khi ra mắt bạn đọc đã nổi tiếng, đến mức "Đông Dương tạp chí" phải mở riêng một mục là Tản Đà văn tập chuyên đăng tải văn của ông, và Tòa soạn đã ghi nhận xét rằng: "Bản quán duyệt qua tập văn ấy, thì thấy ông Nguyễn Khắc Hiếu cũng là một văn sĩ có biệt tài, có lý tưởng riêng, ngắm cảnh vật một cách kỳ khôi, lạ thay cho một bậc thiếu niên!". Và suốt từ đó cho đến năm 1939 là năm Tản Đà mất, ông đã sáng tác liên tục không mệt mỏi một khối lượng đồ sộ gồm đủ loại thơ, văn, truyện, ca kịch, các làn điệu dân ca, từ khúc, diễn ca, dịch văn học cổ điển Trung Quốc như thơ Đường và Kinh Thi, chú giải Truyện Kiều... Hiện nay, giới khoa học đã sưu tập được khoảng trên 30 tác phẩm gồm các văn tập, thi tập của ông như: Khối tình con, Giấc mộng con, Giấc mộng lớn, Còn chơi; Thơ trên các báo và An Nam tạp chí, Thần tiền, Lên sáu, Lên tám, Tản Đà tản văn, Tản Đà tùng văn, Truyện thế gian, Nhàn tưởng, Thơ Tản Đà,v.v. Điều lạ kỳ là Tản Đà là người học chữ Hán, theo lối học cử nghiệp, vốn quen thuộc với văn sách, với phú, với lối văn tứ lục, với thơ luật Đường... thế mà ông viết văn xuôi lại rất hay, rất sắc sảo, rất nhuần nhuyễn, thuần thục. Năm 1916, khi tác phẩm "Giấc mộng con I" ra đời, Dương Bá Trạc đề tựa cho Tản Đà đã phải khen: "Mới mươi mười lăm năm nay, sĩ phu trong nước mới có cái khuynh hướng về văn quốc âm, giọng Hàn Thuyên, hồn Đại Việt đã lập lòe một tia lửa sáng xuất hiện trong văn giới hoàn cầu. Ông Nguyễn Khắc Hiếu, Sơn Tây, chính là một tay kiện tướng trên trường hàn mặc ấy!". "Giấc mộng con I" cũng như "Giấc mộng con II" là hai tập du ký tưởng tượng, có thể coi đây là tiểu thuyết viễn tưởng của Tản Đà. Ở "Giấc mộng con I", Tản Đà chỉ lấy tư liệu trên báo chí mà tả lại những nơi danh thắng trên thế giới, như thác nước Niagara ở Canada, đền Taj-Mahal ở ấn Độ, Kim Tự Tháp ở Ai Cập..., thế mà ông miêu tả sống động, hứng thú y như là chính mình đã tới chơi những nơi đó thật. Ở "Giấc mộng con II", ông kể chuyện cuộc chơi lên thiên đình, gặp các danh nhân lịch sử thế giới và Việt Nam, như Lư Thoa (J.J.Rousseau), Đông Phương Sóc, Khổng Tử, Hàn Thuyên, Nguyễn Trãi, Chiêu Quân, Dương Quý Phi... Qua hai cuộc viễn du tưởng tượng, tác giả muốn đưa mọi người đến những thế giới lý tưởng, diệu kỳ, đến với những cảnh sắc tươi đẹp, gặp gỡ những nhân vật tài hoa. ở đó chỉ có cái đẹp, cái cao thượng, tình yêu thương và lòng tôn trọng lẫn nhau, khác hẳn cái xã hội xấu xa nơi trần giới. Tác phẩm vừa có giá trị hiện thực phê phán lại vừa có ý nghĩa lãng mạn, thể hiện những ước vọng nhân văn của tác giả. Tản Đà là người thích mở rộng, và có một trí tưởng tượng rất phong phú, song nhiều khi mơ mộng, tưởng tượng chỉ là những yếu tố thi pháp trong cá tính sáng tạo của ông, và điều đó không hề làm giảm giá trị phản ánh hiện thực xã hội và ý nghĩa phê phán của tác phẩm. Trường hợp tiểu thuyết "Thần tiền" chẳng hạn, là như vậy. ở đấy, với giọng văn châm biếm hài hước, tác giả đã mượn lời hai chị em đồng tiền nói với nhau để tố cáo thói ăn tiền bẩn thỉu của bọn quan lại: "Khi đã vào trong cửa quan, trên thời quan nha, dưới thời lính tráng, dân sự, mà các ông ấy để mình nằm trần truồng ra trước công đường. Lúc ấy thẹn phải chết... Ngồi đấy, rồi thấy quan cũng thét mắng luôn, nhưng về các dân sự chứ không phải là quát mắng mình, mà mình thỉnh thoảng thấy quan nhìn mình thời nó như có ý thương yêu lắm!". Cách kể chuyện như vậy thật là hóm hỉnh và hấp dẫn. Tuy nhiên, trong nhiều bài văn ngắn, tùy bút, bút ký, nghị luận, ngọn bút Tản Đà có khi chẳng cần bóng gió mà đả kích trực diện vào bọn quan lại bất lương, vào tầng lớp trên vô liêm sỉ, đồng thời tỏ ý bênh vực những người nghèo khổ, lương thiện, ca ngợi lòng yêu nước, thương nòi. Chẳng hạn trong tạp văn "Thế nào là hạng người hạ lưu trong xã hội", đăng ở Đông Pháp thời báo năm 1927, Tản Đà viết: "Nay nghĩ như những người quan cao chức lớn, cửa rộng nhà to, mũ áo đai cân, mề đay kim khánh mà gian tham, xiểm nịnh, bất nghĩa vô lương, hút máu mủ của dân thứ để nuôi béo vợ con, hiến vợ con cho người ta để giữ bền phú quý, như thế có phải là hạng người hạ lưu hay không?". Hoặc một đoạn khác ông viết: "Nếu trong hạ đẳng xã hội ta mà có những ai biết thờ cha kính mẹ, yêu nước thương nòi, thời tức là người thượng lưu vậy". Tác giả lấy đạo đức con người mà không lấy sự giàu nghèo làm tiêu chuẩn để phân biệt thượng lưu, hạ lưu. Trong xã hội phong kiến thực dân, đạo đức suy đồi, luân thường đảo ngược, cái ác đang ngự trị, cái lợi cái danh đang chi phối cuộc sống mà Tản Đà lại công nhiên viết trên báo như vậy, há chẳng phải là một nhà văn, nhà báo đầy khí phách, đầy dũng khí? (Chính vì vậy mà bọn quan lại thực dân phong kiến đã tỏ ra không ưa ông, thường để ý xét nét, rình rập ông; điều này ông có ghi rõ trong tập Giấc mộng lớn). Văn xuôi Tản Đà còn có những thiên tùy bút, bút ký, tiểu phẩm, chan chứa tình cảm nhân đạo chủ nghĩa, thể hiện sự thông cảm sâu sắc với những nỗi khổ nhục của đồng bào trong kiếp sống nô lệ, lầm than. Đó chính là loại văn mà Tản Đà gọi là văn vị đời. Các bài "Cảnh nhà nghèo lấy vợ", "Cảnh túng đi vay tiền"... là những tác phẩm như vậy. Nhìn chung, văn xuôi Tản Đà đã đề cập đến nhiều vấn đề của xã hội đương thời, bằng một lối văn giàu tính nghệ thuật, hấp dẫn, sáng tạo, mới mẻ, có bản lĩnh, bản sắc riêng. Có thể thấy rằng đó là thời điểm quốc văn mới phôi thai, mới bắt đầu, mà lại là văn xuôi nghệ thuật, thì mới thấy hết vai trò khai sáng và tiên phong của Tản Đà. Trong lĩnh vực thi ca cũng vậy, thơ Tản Đà là thứ thơ có bản lĩnh, bản sắc riêng, không lẫn vào đâu được. Song giá trị lớn lao và đặc sắc hơn cả cũng vẫn là ở vị trí dẫn đạo của ông trên thi đàn đầu thế kỷ. Mở đầu cuốn Thi nhân Việt Nam (1941), Hoài Thanh và Hoài Chân trong bài Cung chiêu anh hồn Tản Đà đã viết những lời trân trọng: "... Đôi bài thơ của tiên sinh ra đời từ hơn 20 năm trước, đã có một giọng phóng túng riêng. Tiên sinh đã dạo những bản đàn mở đầu cho một cuộc hòa nhạc tân kỳ đang sắp sửa". Trước đó, trong tuần báo Ngày nay (số ra ngày 17-6-1939), Xuân Diệu, một người say mê thơ Tản Đà từ nhỏ, cũng đã viết: "Tản Đà là người thi sĩ đầu tiên mở đầu cho thơ Việt Nam hiện đại". Đương nhiên, Tản Đà chưa phải là một nhà thơ mới như các nhà thơ mới lớp sau ông. Nhưng rõ ràng, ông là nhà thơ đã có tư tưởng cách tân, có nhiều tìm tòi, sáng tạo và mạnh dạn vượt ra ngoài khuôn sáo cũ: Lá đào rơi rắc lối Thiên Thai Suối tiễn oanh đưa luống ngậm ngùi Nửa năm tiên cảnh, Một phút trần ai Ước cũ duyên thừa có thế thôi Đá mòn rêu nhạt Nước chảy hoa trôi Cái hạc bay lên vút tận trời Trời đất từ nay xa cách mãi Cửa động Đầu non Đường lối cũ Nghìn năm thơ thẩn bóng trăng chơi (Tống biệt) Trong thời buổi mà lối thơ niêm luật gò bó đang còn phổ biến, thì lối thơ như bài Tống biệt này của Tản Đà quả thật là mới, rất mới! Chính cái sự mạnh dạn vượt ra ngoài khuôn sáo cũ ấy đã tạo nên "một giọng phóng túng riêng" trong phong cách thơ Tản Đà: Trời sinh ra bác Tản Đà, Quê hương thời có cửa nhà thì không Nửa đời nam, bắc, tây, đông Bạn bè sum họp vợ chồng biệt ly Túi thơ đeo khắp ba kỳ, Lạ chi rừng biển, thiếu gì gió trăng... (Thú ăn chơi) Loại thơ phóng túng của Tản Đà còn nhiều, đọc những bài như thế, có thể liên tưởng đến giọng thơ Nguyễn Công Trứ, Tú Xương... Song cũng đúng như các tác giả "Thi nhân Việt Nam" đã nhận xét: "Cái dáng điệu ngang tàng chúng tôi thường thấy ở các nhà thơ xưa, ở tiên sinh không bao giờ có vẻ vay mượn". Cái phóng túng, cái ngang tàng ấy chính cũng là cái ngông mà Tản Đà đã tự nhận: Vùng đất Sơn Tây này một ông, Tuổi chưa bao nhiêu văn rất hùng, Sông Đà núi Tản ai hun đúc, Bút thánh câu thần sớm vãi vung... Bởi ông hay quá ông không đỗ, Không đỗ ông càng tốt bộ ngông! (Tự trào, sau khi hỏng thi ở trường Nam Định, 1912). Thơ lưng chất nặng, tay buồn rỗi, Bán áo mà mua giấy viết ngông. (Dạm bán áo đoạn) Khi làm chủ báo, lúc viết mướn, Hai chục năm dư cảnh khốn cùng... Trần gian thước đất vẫn không có, Bút sắt chẳng hơn gì bút lông Ngày xuân như ngựa, đầu xanh bạc, Chán cả giang hồ, hết cả ngông (Tiễn ông Công lên trời). Đi liền với cái ngông là cái say, nhưng đó không phải là cái say ẩm thực tầm thường, mà là cái say của tao nhân mặc khách, cái say vì nhân thế, vì cảnh đời: Cảnh đời gió gió, mưa mưa, Buồn trông ta phải say sưa đỡ buồn Rượu say ta lại khơi nguồn Nên thơ rượu cũng thêm ngon giọng tình Rượu thơ mình lại với mình, Khi say quên cả cái đỉnh phù du Trăm năm thi sĩ tửu đồ là ai? (Thơ rượu). Và đã say không phải vì rượu mà vì đời, vì thế sự thì thật khó dứt cơn say: Say sưa nghĩ cũng hư đời, Hư thời hư vậy, say thời cứ say Đất say đất cũng lăn quay, Trời say mặt cũng đỏ gay ai cười. (Lại say). Nhưng bao trùm và sâu lắng trong hồn thơ Tản Đà vẫn là cái điệu buồn vẩn vơ, cái nỗi sầu man mác và cái tình bâng khuâng, những yếu tố muôn đời của chủ nghĩa lãng mạng, nhưng lại chỉ riêng có ở Tản Đà, và đó là chủ nghĩa lãng mạng Tản Đà, nếu có thể gọi được như thế! Mùa thu là mùa gợi buồn cho thi tứ và cũng là mùa muôn thuở của thi ca lãng mạng. Nhưng thơ thu của Tản Đà không phải chỉ có buồn mà còn có nhớ, một nỗi buồn nhớ vơ vẩn, bâng khuâng: Đêm thu buồn lắm chị Hằng ơi, Trần giới em nay chán nửa rồi Cung quế đã ai ngồi đó chửa? Cành đa xin chị nhắc lên chơị (Muốn làm thằng Cuội). Suối tuôn róc rách ngang đèo, Gió thu bay lá bóng chiều về tây Chung quanh những lá cùng cây, Biết người tri kỷ đâu đây mà tìm... (Vô đề) Làn cây khuất bóng trăng tà, Đêm thu một khắc quan hà mấy mươi Nhớ ai đất khách quê người, Nhớ ai góc bể bên trời bơ vơ. (Nhớ ai) Và đây là một bài thơ thu nổi tiếng mà chính Tản Đà đã chọn để mở đầu các giờ giảng văn ở trường Hồng Bàng, Hà Nội, bài "Cảm thu", tiễn thu: Từ vào thu đến nay, Gió thu hiu hắt, Sương thu lạnh, Trăng thu bạch, Khói thu xây thành Lá thu rơi rụng đầu ghềnh, Sông thu đưa lá bao ngành biệt ly. Nhạn về én lại bay đi, Đêm thì vượn hót ngày thì ve ngâm Lá sen tàn tạ trong đầm, Nặng mang giọt lệ âm thầm khóc hoa Sắc đâu nhuộm ố quan hà, Cỏ vàng cây đỏ bóng tà tà dương. Nào người cố lý tha hương, Cảm thu ai có tư lường hỡi ai... Tản Đà ngông, Tản Đà say, Tản Đà buồn, Tản Đà mơ mộng, có lẽ cũng chỉ là một phần cảm của ông trước buổi giao thời "gió Á mưa Âu", cái thời mà chỉ thấy: Luân thường đổ nát, phong hóa suy, Tiết nghĩa rẻ rúng, ân tình ly... (Trần ai tri kỷ). Còn trong thực tế, Tản Đà không phải là con người thoát ly, nhắm mắt trước thời cuộc. Thơ ông cũng không hiếm những bài hướng vào hiện thực xã hội, bộc lộ những tình cảm yêu nước, thương nòi: Này những ai, này những ai, Ai có nghe rằng việc thủy tai, Tỉnh Bắc, tỉnh Đông cùng tỉnh Thái, Ruộng ngập nhà chìm thây chết trôi... Lệ đầy vơi, tình chia phôi, Bồng bế con thơ bán khắp nơi Năm hào một đứa trẻ lên sáu, Cha còn sống đó, con bồ côi (Khuyên người giúp dân lụt) Và nói như Nguyễn Đình Chiểu: "Bởi chưng hay ghét cũng là hay thương". Tản Đà hay thương dân nên cũng hay ghét bọn tham quan ô lại hại dân, hại nước: Cũng phường dối nước quân ăn cắp, Cũng lũ tàn dân giống hại đàn. Lạnh lẽo hơi sương tòa Tạp chí Lệ ai giàn giụa với giang san. (Cảm đề) Đục nước năm nay cò lại béo, Bao nhiêu đê vỡ bấy nhiêu tiền (Nhớ cảnh nước lụt ở bắc). Tản Đà rất ghét bọn ăn hối lộ, ông được biết chuyện Tuần phủ Vĩnh Yên là Đào Trọng Vận nhân một vụ kiện tranh chấp gia tài đã ăn của đút gần ba nghìn đồng, ông đã gợi ý cho Ngô Tiếp viết truyện "Tờ di chúc" để tố giác vụ này, rồi ông lại viết bài thơ "Cảm đề" cho tiểu thuyết này với một giọng châm biếm khá sâu cay, chua chát: Hơi đồng đã sạch mồm ông lớn Mặt sắt còn bia miệng thế gian, Cũng bởi thằng dân ngu quá lợn Cho nên quân nó dễ làm quan... Là một người dân mất nước, lo cho vận mệnh của Tổ quốc, lại chịu ảnh hưởng sâu sắc của những phong trào yêu nước những năm đầu thế kỷ, Tản Đà có những vần thơ cảm khái, nói đến các anh hùng dân tộc, nói đến dân vong quốc, nói đến nòi giống Tiên Rồng... thể hiện tư tưởng yêu nước một cách kín đáo. Tiêu biểu cho dòng thơ này của Tản Đà là bài "Thề non nước", một bài thơ đã đi sâu vào lòng người và được lưu truyền rộng rãi trong các tầng lớp nhân dân: Nước non nặng một lời thề, Nước đi đi mãi không về cùng non Nhớ lời nguyện nước thề non, Nước đi chưa lại, non còn đứng không Non cao những ngóng cùng trông, Suối khô dòng lệ chờ mong tháng ngày Xương mai một nắm hao gầy, Tóc mây một mái đã đầy tuyết sương Trời tây ngả bóng tà dương Càng phơi vẻ ngọc nét vàng phôi pha Non cao tuổi vẫn chưa già, Non thời nhớ nước, nước mà quên non Dù cho sông cạn đá mòn, Còn non còn nước hãy còn thề xưa Non cao đã biết hay chưa Nước đi ra bể lại mưa về nguồn Nước non hội ngộ còn luôn, Bảo cho non chớ có buồn làm chi Nước kia dù hãy còn đi, Ngàn dâu xanh tốt, non thì cứ vui Nghìn năm giao ước kết đôi, Non non, nước nước không nguôi lời thề Riêng ở xứ Đoài, bài thơ này cũng như nhiều bài phong dao của Tản Đà từ lâu đã trở thành những bài hát ru quen thuộc, như những bài hát dân gian. Tản Đà là nhà thơ thân thương của xứ Đoài như ông đã tự khẳng định: "Tôi là người gì? ở phía Nam Đông Á, ở phía bắc Việt Nam, ở phía tây Bắc Kỳ, một người làm văn ở tỉnh Sơn Tây vậy!" (Giấc mộng lớn). Nhưng vượt khỏi "Đà Giang, Tản Lĩnh nước non quê", Tản Đà còn là nhà thơ, nhà văn, nhà báo tiêu biểu, như ngôi sao khuê rực sáng của văn học Việt Nam đầu thế kỷ XX, đúng như Nguyễn Tuân đã nhận xét: "Trong chốn Tao Đàn, Tản Đà xứng đáng ngôi chủ súy; trong Hội tài tình, Tản Đà xứng đáng ngôi Hội chủ; mà làng văn làng báo xứ này ai dám ngồi chung một chiếu với Tản Đà?" (4). Và Tản Đà cũng hoàn toàn xứng đáng như đánh giá của nhà thơ Xuân Diệu trên Tuần báo Ngày nay (17-6-1939) ngay sau khi Tản Đà qua đời: "Tản Đà là người thi sĩ đầu tiên mở đầu cho thơ Việt Nam hiện đại". (1) Năm sinh, năm mất và thơ văn của Tản Đà đều căn cứ theo Tuyển tập Tản Đà, Nxb Văn học, Hà Nội, 1996. (2) Thái Tây: Chỉ Âu-Mỹ nói chung. (3) Phát đoan: Bắt đầu. (4) Dẫn lại theo Nguyễn Khắc Xương, Sđd, tr.480. Nguồn: Văn hóa nghệ thuật. ☆ ☆ ☆ ☆ ☆ Chưa có đánh giá nào Chia sẻ trên Facebook Thực và mộng trong tình mẫu tử của Tản Đà Đăng bởi hoalucbinh vào 16/05/2006 09:37 Đã sửa 1 lần, lần cuối bởi Vanachi vào 16/05/2006 10:01 Khi quan tri phủ Nguyễn Danh Kế đáo nhậm án sát tỉnh Ninh Bình thì Tản Đà cất tiếng khóc chào đời tại đây. Sang năm sau, thân mẫu Tản Đà hạ sinh một gái tên là Trang. Trong khoảng mấy năm trời hương lửa đậm đà, thân mẫu Tản Đà đã hưởng được mọi hạnh phúc trần gian. Nhưng hạnh phúc này quá ngắn ngủi. Năm 1891, Tản Đà lên ba, quan án lâm bệnh rồi từ trần. Vì đường sá xa xôi, gia đình không thể đưa linh cửu quan án về quê, nên phải an táng tại phủ An Khánh, Ninh Bình. Cái chết của người cha, người chồng, thường báo hiệu một khúc quanh bi thảm của một gia đình. Bà chị Tản Đà kể rằng khi làm tri phủ Xuân Trường (1), Nam Định, thân phụ bà thường say mê thú hát ả đào. Yêu nhịp hát câu ca, ông yêu luôn cô đào hàng Thao Nam Định. Nàng rất trẻ đẹp, tuổi độ 20, tên là Nghiêm (2). Lúc bấy giờ Nguyễn Danh Kế tiên sanh đã ngoại bốn mươi, việc tề gia nội trợ đã có bà cả và bà hai vốn là hai chị em ruột. Ngày xưa cổ nhân có tục đa thê cho nên chẳng bao lâu nàng danh ca đã trở thành vị phu nhân của quan phủ, tục danh là bà phủ Ba. Bà giỏi xướng ca, lại rành thi hoạ. Bà cùng nữ sĩ Nhàn Khanh (3) xướng hoạ. Khi ở Vân Đình, bà Nhàn Khanh đã gửi bà phủ Ba một bài thơ: Ai lên Bất Bạt nhắn nhe cùng, Nhắn hỏi cùng ai có nhớ không? Nửa bước xa xa bằng mấy dặm, Một ngày đằng đẵng ví ba đông. Giọng thơ tri kỷ say mê mệt, Ngọn lửa tương tư đốt cháy nồng. Khắc khoải năm canh lòng luống những, Thư tình mở mở lại phong phong. Bà phủ Ba đáp lại: Đêm qua vơ vẩn chốn thư đường, Mong mỏi chung tình chẳng thấy sang. Sáu khắc mơ màng người hảo hữu, Năm canh tơ tưởng chốn Đình giang. Trông trăng bát ngát thương người ngọc, Thấy nước long lanh nhớ bạn vàng. Hai chữ tương tư khôn xiết kể, Khối tình chi để một ai mang.(4) Qua thơ xướng hoạ kể trên, chúng ta thấy bà phủ Ba cũng là tay tài hoa. Lại nữa, một vị phu nhân dòng dõi trâm anh thế phiệt như bà Nhàn Khanh lại có thơ xướng hoạ cùng một phu nhân xuất thân ca kỹ, cũng có thể do giao tình đậm đà giữa quan án và gia đình họ Trịnh, họ Dương mà cũng là do lòng liên tài quá lớn vậy. Trong mấy năm trời sống với quan án, bà án đã có bốn con, gồm hai trai, hai gái: Nguyễn Mạn, Nguyễn Thị Chính, Nguyễn Khắc Hiếu và Nguyễn thị Trang. Khi quan án từ trần, thân mẫu Tản Đả tuổi ngoại ba mươi, bà quyết định sống trọn đời chung thuỷ với người chồng quá cố. Nhưng theo chị Tản Đà, đươc chừng một năm, bà đột nhiên ra đi, mang theo cô gái út, trở lại xóm Binh Khang. Nghe đâu về sau, bà trở thành bà chủ một nhà hát tại Bắc Ninh. Tại sao gia đình Tản Đà lại xảy ra tấn bi kịch đó? Một cụ bà người (5) cùng làng với Tản Đà nói rằng do mối bất hoà gia đình. Mất chồng, mất nơi nương tựa, người tiểu thiếp không tài sản, không thế lực kia làm sao chịu được tiếng bấc, tiếng chì của bà vợ cả? Ông Nguyễn Mạnh Bổng, anh vợ của Tản Đà cũng chung ý kiến trên. Ông cho rằng thân mẫu của Tản Đà phải cất bước ra đi “vì một sự không hoà trong gia đình” (6). Nhưng chị của Tản Đà lại cho rằng gia đình vẫn êm ấm, không hề có việc xích mích. Thân mẫu Tản Đà ra đi vì “ngựa quen đường cũ”. Dẫu vì nguyên do nào đi nữa, việc thân mẫu Tản Đà trở lại xóm Bình Khang là một thực tại đã làm Tản Đà đau khổ khôn nguôi. Xã hội Việt Nam vốn coi khinh nghề sênh phách đàn hát vì người ta cho rằng “xướng ca vô loại”. Mặc dầu các sĩ phu thường lấy các đào nương làm hầu thiếp, các nho gia thường kết tội các đào nương, coi đào nương và kỹ nữ là một. Xã hội Việt Nam và luân lý Nho giáo đã lên án thân mẫu Tản Đà. Lại nữa, cái danh giá của gia tộc ông, cha án sát, anh đốc học và ông tổ mấy đời đã từng là Bình chương, Tham tụng, danh giá là thế mà nay mẹ và em lại làm ca kỹ. Việc này là một thực tại đã làm ông đau khổ. Ông Nguyễn Mạnh Bổng đã cho ta biết nỗi đau khổ trong nội tâm Tản Đà: Đối với việc cụ bà và cô Trang hành động như vậy,Tản Đà tiên sinh lúc còn trẻ tuổi, ở với ông anh cả là Nguyễn Tái Tích (đỗ phó bảng, làm tri huyện, sau về giáo thụ, thăng đốc học) vốn nung đúc ở trong đạo Khổng Mạnh, lấy làm một sự không chính đáng. Cho nên tâm cảnh tiên sinh lúc nào cũng u uất, đau đớn, buồn rầu, không muốn biết đến, không muốn nói ra. Vì tiên sinh là một người đã có cái ý muốn làm “Á châu Khổng phu tử chi đồ” từ lúc bé, nên phàm cái gì trái với đạo đức Khổng Mạnh, tiên sinh đều cho là một sự không trong sạch cả. (7) Phan Kế Bính đã mô tả cuộc sống của các đào nương nơi Bình Khang là một nơi “sớm đưa Tống Ngọc, tối tìm Tràng Khanh” như Thuý Kiều ở lầu xanh. Ông viết rằng Bình Khang là một nơi vui chơi suồng sã, các quan viên và đào nương “có khi quàng vai bá cổ nhau mà mời, hoặc hôn nhau để tỏ lòng yêu mến” và “lấy cách quàng vai bá cổ, kề đùi, kề vế làm vui, lấy lời ong bướm lả lơi, giăng hoa bỡn cợt làm thích” (8). Không biết thời Chu Mạnh Trinh, Cao Bá Quát, người ta đi hát ả đào như thế nào, còn thời Pháp thuộc, hát ả đào không còn là một nghệ thuật nữa. Trong Chiếc Lư Đồng Mắt Cua, Nguyễn Tuân đã cho ta những nét phác hoạ rất trung thực: Những ngưòi bạn trong trường tác hí của tôi, cái đức huyên náo không thể chê vào đâu được. Họ đánh trống như đám hoả đầu quân băm thịt viên trên cái quầy bếp một hiệu cao lâu Quảng Đông to lớn. Họ nói chuyện tâm sự với nhau mà như hầu sáng hô tiền hàng. Họ vần cô đào, họ chơi hoa như lính đi cắt cỏ ngựa về cho ngựa ăn. Nhà hát là cái chợ.(9) Những lời phê bình, mô tả chung chung như thế có lẽ đến tai Tản Đà.Nhưng nặng nề hơn, một vài kẻ đã nêu đích danh gia đình Tản Đà, mẹ và em gái Tản Đà ra để làm đề tài. Người ta vô tình hay cố ý làm vỡ vết thương lòng của Tản Đà như trường hợp phó bảng Trần Tán Bình (1869- 1935). Một hôm ông phó bảng họ Trần đi hát gặp cô Trang đã làm một bài hát nói: Có phải cô Trang em ấm Hiếu? Người xinh xinh yểu điệu dáng con nhà. Vì đâu vương lấy nợ tài hoa? Bắt luân lạc, trời già âu cũng độc! Cha án sát, anh thời đốc học, Nền đỉnh chung bỗng chốc hoá truân chiên. Cất chén quỳnh nhớ bạn đồng niên, Dục lòng khách bên đèn sa nước mắt. Nhớ bạn, thấy em như thấy mặt, Dừng roi chầu, lặng ngắt một hồi. Đời người đến thế thì thôi, Đời phồn hoa cũng là đời bỏ đi. Hoa xuân em giữ lấy thì!(10) Vì xót thương má hồng gặp bước truân chuyên hay mai mỉa gia đình người ta mà ông phó bảng viết bài này? Dẫu sao, ông phó bảng đã làm một việc thiếu tế nhị nếu ông đọc bài này cho cô Trang nghe hay phổ biến bài này trong quần chúng! Thực tại xã hội và luân lý Khổng Mạnh đã làm cho Tản Đà đau khổ, tủi nhục khiến ông oán ghét mẹ. Ngoài ra, yếu tố gia tộc cũng làm cho lòng Tản Đà nát tan. Chính cái quá khứ huy hoàng của gia tộc đã làm cho Tản Đà đau lòng vì mẹ và em gái sống trong chốn Bình Khang. Chị của Tản Đà đã cho chúng tôi vài chi tiết. Ngày 17 tháng giêng năm bính thìn, niên hiệu Duy Tân thú mười (20-3-1916), ông Nguyễn Tái Tích từ trần. Gia đình phải đem linh cữu từ Hà Nội về quê bằng tàu Bạch Thái Bưởi. Nghe tin ông bảng mất, thân mẫu Tản Đà xuống tàu đưa tiễn. Thấy bóng mẹ, Tản Đà lặng lẽ bỏ lên tàu. Các chị em phải khuyên bà ra về, Tản Đà mới trở lại tàu. Trước khi ông Nguyễn Tái Tích mất, Tản Đà phải cưới vợ cho an lòng anh. Vợ của Tản Đà là con gái viên tri huyện Nguyễn Mạnh Hướng, quê ở làng Hội Xá, huyện Mỹ Đức, Hà Đông. Hôn lễ cử hành ngày rằm tháng chạp năm ất mão, niên hiệu Duy Tân thứ chín tức ngày 17-2-1916. Được tin con trai cưới vợ, bà vội vàng về dự lễ cưới với hy vọng tặng cô dậu một món quà, nhưng Tản Đà cương quyết ngăn cản. Tản Đà bảo rằng nếu tân nưong nhận “người đó “là mẹ thì coi như hôn sự bất thành. Rốt cuộc, người mẹ bất hạnh kia đành thui thủi ra về trong khi tiếng pháo nổ vang, hai họ nâng ly mừng tân lang và tân nương bách niên giai lão! Cho đến khi mẹ mất tại nhà ông anh là Nguyễn Mạn, tại Thái Nguyên, Tản Đà cũng không lên nhìn mặt mẹ lần cuối. Tản Đà chỉ nhắn người nhà nhờ anh trông nom, lo liệu mọi sự. Lúc này, Tản Đà ngoài ba mươi tuổi. Bà Nguyễn Triệu Quất con gái Tản Đà cho biết rằng Tản Đà chỉ yêu con trai mà ghét bỏ con gái. Chính Tản Đà cũng nói với mọi người rằng ông yêu con trai, rất con gái. Khi sinh đứa con gái đầu lòng, bà Tản Đà phải đem gửi bên ngoại. Hai cô Nguyễn Triệu Quất và Nguyễn Thuý Ngọc ít khi gần cha. Hễ thấy bóng cha, hai cô phải chạy trốn. Bà Nguyễn Triệu Quất nói rằng sở dĩ Tản Đà ghét con gái vì ngày xưa mẹ và em gái đã làm cho Tản Đà đau đớn, tủi nhục. Trong cuộc đời, Tản Đà đã xa lánh mẹ, trong tiềm thức ông, khoảng cách này càng rộng lớn hơn. Ông luận về thế đạo, ông trách cứ nhân tâm nghĩa là đã liên tưởng đến mẹ và em, gián tiếp đau khổ, buồn tủi vì mẹ và em gái đã sống trái với luân lý đạo đức. Khi ông luận về chữ trinh, nghĩa là ông cho rằng mẹ và em gái đắm mình trong chốn bùn nhơ, thất trinh, thất tiết: Trăm năm trong cõi người ta, Trai thời trung hiếu, đàn bà tiết trinh (11) Tính hạnh người đàn bà có một cái trọng nhất là chữ trinh; đạo người đàn bà đối với chồng có một cái trọng nhất là chữ trinh. Trinh nghĩa là chính chuyên. Chính thời không gian tà, là giữ tính hạnh của mình cho nhất đức. Chuyên thời không có lòng nào với người khác. Là giữ tình nghĩa với chồng cho nhất tâm. Một chữ trinh của đàn bà, từ xưa đến nay, cả đông lẫn tây, đời nào cũng phải quý, nước nào cũng phải quý, nước nào cũng phải chuộng. Chữ Trinh đáng quý và đáng chuộng thời tự người đàn bà càng nên biết quý chuộng là phải. Ngọc lành đã được giá, nên giữ sao cho sạch vết, khỏi phụ lòng người mua. Trăm năm đà kết nghĩa đá vàng, sông chưa cạn, đá chưa mòn, mà nỡ đem một tấm lòng son, yêu riêng sẻ giấu, thời soi gương thẹn với gương,đeo hoa thẹn với hoa, đứng giăng thẹn với giăng, ngồi đèn thẹn với đèn, đêm nằm thẹn với chăn, ngày ngày đi thẹn với bóng, trong đời người ta có một cái quý nhất mà dứt tình cho đang! Chẳng qua cái ngòi vật dục khêu ở ngoài, ngọn lửa vật dục bốc ở trong làm cho một chút lòng trinh đương đỏ như son mà cháy ra than, tàn ra tro, tan ra khói. Tiếc thay! (12) Nhiều người viện cớ hoàn cảnh khó khăn mà dấn bước vào bún nhơ. Khi viết Đài Gương, Tản Đà ngầm trách mẹ không vững ý chí mà giữ đạo đức, không phán đấu với hoàn cảnh khó khăn. Cảnh ngộ một đời người ta, rất là không có thường. Cảnh ngộ không có thường mà đức hạnh giữ được thường thời chỗ đó mới là chỗ hơn người....Đời người mà phải lúc biến thật là không may, nhưng gió cả mới biết cây cứng mềm, thời chữ trinh đến lúc ấy mới càng tỏ. Than ôi, chỉ thắm trăm năm, chưa xe đã dứt, đầu xanh đôi lứa, đương họp mà tan. Dẫu luật lệ của vua chúa chưa buộc người lấy chữ trinh... Làm người nên biết nghĩa ngàn thu là quý, đàn bà chỉ có một chút đó có thể sánh được cái trung, cái hiếu, cái anh hùng bên con trai. Nghĩ sao cho được hơn người, Tiếng thơm để lại muôn đời ngợi khen (13) Và đây là một trường hợp tương phản làm nổi bật cuộc sống đen tối của thân mẫu và em gái thi sĩ.Trong gia tộc Tản Đà có bà họ Phan về làm dâu, được bốn năm thì chồng chết, bà vẫn thủ tiết theo giáo dục Khổng môn. Tản Đà đã kinh qua hai hình thái đau khổ. Một là gia đình và xã hội đã so sánh mẹ của Tản Đà với tiết phu họ Phan. Hai là chính Tản Đà cũng có sự so sánh. Sự so sánh này là một điều tất yếu như Charles Blondel đã nhận định: Có những trạng thái cảm kích, mặc dầu ta muốn hay không, được đoàn thể truyền khiến hay suy tiến cho ta.(14) Trong khi ca tụng bà tiết phụ này, chính là lúc Tản Đà xót xa vì mẹ và em gái đã sống trong dòng nước đục: Trời Nam sáng vẻ văn minh, Họ Phan một gái hiển sinh trên đời. Núi Sài Sơn là nơi quê quán, Xe hương về họ Nguyễn làm dâu. Dâu con một đạo chân tu, Áo nâng khuya sớm, canh hầu hôm mai. Chữ cầm sắt, sắc tài ưa đẹp, Vẻ trâm anh một nếp đôi nhà, Nhân sinh đệ nhất thực là, Nhân gian một bóng trăng già soi chung. Bốn năm chẵn tơ hồng sớm dứt, Kẻ tri âm lánh khuất cõi đời, Đầu xanh riêng lẻ mình ai, Tuổi xanh thoắt đã ra ngoài bốn mươi. Duyên đã ngắn, năm dài vô tận, Bể phù sinh chiếc bách sóng dồi. May thuê vá mướn lần hồi, Ngày trông lá rụng, đêm ngồi gió thu. Áng son phấn tuyệt mù xa cách, Đạo kiên trinh qưyết gánh lấy mình, Trăm năm một gối phong trần, Ngàn năm để khách thoa quần một gương(15) Tản Đà mất mẹ và em gái. Tản Đà thiếu tình mẫu tử. Tản Đà đã đi tìm một tình mẫu tử khác để thay thế tình mẫu tử đã mất. Tục lệ Việt Nam đặt cho người vợ cả nhiệm vụ trông nom, nuôi nấng con chồng. Các con của bà vợ bé phải gọi bà Cả bằng mẹ. Tản Đà đã nương nhờ vào bà Cả mà sống. Việc này đúng như nhận định của George Dumas: Các nhu cầu khi tự xã hội hoá, khi điều chỉnh các thoả mãn của chúng bằng cách tuân theo các phong tục và các định chế nào, tức là bảo vệ và làm dễ dàng chính sự thoả mãn chúng (16). Năm 1922, đương làm chủ bút Hữu Thanh,Tản Đà đã xin từ chức để lui về quê cũphụng dưỡng mẹ già (bà Cả). Ông đã gửi độc giả bức tâm thư trước khi rời Hữu Thanh: Tôi có một mẹ già đã ngoại tám mươi tuổi, từ tháng Mai 1921, tôi về làm việc Hữu Thanh, đến rằm tháng 8 An Nam về nhà được một hôm, từ ấy đến nay lại vẫn ở luôn Hà Nội. Nếu tôi muốn đón mẹ tôi về Hà Nội, thời ngại về hai chữ “phong chúc”, nếu cứ như trong tám tháng giời vừa qua đó, thời không yên hai chữ” thần hồn”. Vì cớ đó nay tôi xin thôi việc Hữu Thanh để về tính theo việc buôn bán cho được it thời giờ bó buộc, cho được it lỗi với luân thường.(17) Việc Tản Đà từ chức Hữu Thanh là do mâu thuẫn nội bộ của Hội Công Thương Bắc Kỳ, chủ nhân ông của Hữu Thanh tạp chí. Lý do Tản Đà viện dẫn chỉ là đường nét văn hoa, tế nhị để khỏi nói ra thực tế phũ phàng. Dẫu sao, trong tâm Tản Đà, bà mẹ già vẫn có một địa vị khả kính, thay thế cho người mẹ phong trần. Trong tiểu thuyết Giấc Mộng Con của ông, hình ảnh của mẹ già hiện rõ rệt. Tản Đà gửi thư khuyên vợ phụng dưỡng mẹ già cho tròn đạo hiếu: Quan hà xa cách, thấm thoắt đã hai năm. Độ nọ được thu anh Cả gửi sang, biết mẹ già vẫn thường được an khang, và số tiền gửi về năm ngoái, Hiền Khanh đã nhận lãnh, tôi lấy làm yên lòng. Bóng dâu đã xế ngang đầu, nhờ Hiền Khanh thay chữ mai sau cho, thời người ngoài bể khơi cũng như về đến phần hường vậy........ Thôi, càng nhớ chồng bao nhiêu, càng nên chiếu lấy mẹ già bấy nhiêu. Ngày tháng thoi đưa, không mấy chốc mà đôi ta họp mặt. Mấy lời trân trọng, ngàn dặm nước mây. (18) Chị Tản Đà cho biết thuở nhỏ, Tản Đà được mẹ già nuôi nấng, thương yêu và Tản Đà đối với bà rất hiếu thảo, thật xứng với cái cái tên Hiếu của Tản Đà. Sau khi đã lập gia đình, Tản Đà vẫn ở với mẹ già để hôm sớm gần gũi. Những khi mẹ già đau ốm, Tản Đà vẫn thường túc trực bên giường bệnh để trông nom, săn sóc. Khi mẹ già mất, năm 1923, một mình Tản Đà lo việc ma chay. Đến ngày giỗ, các anh chị muốn góp phần giỗ, Tản Đà không nhận. Tản Đà muốn một mình gánh vác mọi việc. Tản Đà đã phủ nhận mẹ ruột của mình, và nương tựa vào mẹ già, tức bà Cả. Theo lời cụ huyện, Tản Đà thường nói với mọi người: “Đời tôi chỉ có một người mẹ, đó là mẹ già” Tản Đà là người đau khổ. Ông đã mất tình mẫu tử. Hơn nữa, người mẹ đã bỏ ông mà ra đi, gia nhập vào mộït môi trường không lành mạnh, bị luân lý và xã hội khinh miệt. Tản Đà đi tìm một tình mẫu tử khác ở người mẹ già. Dù đó là một biện pháp tốt, cũng chỉ có giá trị bên ngoài. Trái tim thơ ấu của Nguyễn Khắc Hiếu đã tan vỡ, không cách gì hàn gắn lại. Phương pháp nào đi nữa, ông cũng không có một tình mẫu tử đích thực. Cho nên suốt đời ông, ông vẫn đi tìm kiếm, một tình mẫu tử hoàn hảo và băng bó lại vết thướng từ thuở ấu thời. Tản Đà phải tìm kiếm tình mẫu tử trong Thực và trong Mộng. Ông đã mơ mộng một tình mẫu tử đúng như Freud nói “Mộng là một ước vọng đã được thực hiện”.(19) Gérard de Nerval nhận định: “Mộng là cuộc đời thứ hai” (20) Chính Tản đà đã xây một thế giới Mộng, trong đó mẹ con cùng chung sống trong hạnh phúc dưới một mái ấm gia đình. Tại sao ông viết Lên Sáu, Lên Tám? Có lẽ mẹ cậu ấm Hiếu đã bỏ ra đi không cậu mới lên bốn, lên năm, cậu quá nhỏ, không hiểu được bất hạnh của mình. Đến khi lên sáu, lên tám, lên mười, cậu Nguyễn Khắc Hiếu mới nhận thức được khía cạnh đau khổ của một đứa con mất mẹ. Do vậy ông viết Lên Sáu, Lên Tám để tạo một thiên đường cho chính mình, và cho hạnh phúc nguyên thuỷ của tuổi thơ khắp trái đất. Thế giới đó chỉ cần có cha mẹ và con dưới một mái nhà, cùng sống vui vẻ bên nhau: Ở nhà cùng hai thân, Ra vào quanh dưới chân. Đem lòng một tấc cỏ Báo đáp cùng ba xuân. Ba xuân như mẹ cha Tấc cỏ như thân ta, Nhờ xuân, cỏ xanh tốt, Có cỏ xuân vui hoà.(21) Giấc mơ của Tản Đà rất đơn sơ, giản dị, là một hiện thực trong xã hội Việt Nam mấy ngàn năm, hàng triệu trẻ con đã được hưởng thụ. Ôâng mong ước có cha mẹ săn sóc cho con, và con cái cũng biết yêu thương cha mẹ: Ta nay như cỏ xuân, Ngày ngày chơi trước sân. Nghĩ sao trong tấc dạ, Cho vui lòng hai thân. Khi vui nào được mấy, Lo buồn như dễ thấy, Cha lo con nên thương, Mẹ buồn con chớ quấy Ta nay còn trẻ thơ, Chưa cho cha mẹ nhờ. Cha mẹ lúc sai bảo, Vui vẻ con dạ thưa.(22) Đạo hiếu rộng như bể, Thân ta còn nhỏ bé. Nhớn lên mong về sau, Trọn hiếu cùng cha mẹ.(23) Tản Đà mơ ước có một người mẹ, hằng ngày tựa cửa trông con đi học về. Đối với Tản Đà đó một hạnh phúc mà ông hằng ước mơ: Tan buổi học, mẹ ngồi tựa cửa, Mắt trông con đứa đứ về dần. Xa xa con đã đến gần, Các con về đủ quây quần bữa ăn. Cơm dưa muối khó khăn mới có, Của không ngon, nhà khó cũng ngon. Khi vui câu chuyện thêm giòn, Chồng chồng, vợ vợ, con con một nhà.(24) Trong thực tế, Tản Đà xa lánh mẹ nhưng mặt khác, trong tiềm thức, không nhiều thì ít, ông đã biện hộ cho me ruột của ông và thông cảm cho bà và em gái. Phần lớn các gia đình thường có những vấn đề, nhất là các gia đình đa thê.Giữa bà cả và các bà thứ thường là một trận chiến liên miên bất tận. Trong gia đình Tản Đà, bà Cả và bà Hai là hai chị em cho nên họ đứng vào một phe. Một mình thân mẫu Tản Đà đứng một phe. Họ ghét thân mẫu Tản Đà vi bà đã chiếm đoạt tình yêu của hai bà. Hơn nữa họ còn oán thân mẫu Tản Đà vì lúc say mê cô đào hàng Thao Nam Định, ông đã phá tán nửa già tài (theo lời chị Tản Đà). Có lẽ Tản Đà đã kết tội chế độ đa thê ở nước ta đã ra nỗi đau khổ cho thân mẫu Tản Đà. Phong tục Á Đông lại thêm một điều lám gốc cho phần nhiều cái xấu của phong hoá, tức là « đàn ông có thể lấy nhiều vợ », « Cả sông đông chợ, lắm vợ nhiều con » Một câu đó mới đọc lên tưởng như hạnh phúc của một già đình nào, song mà hoạ loạn của bao nhiêu gia đình thực gây nên ở đó. Đạo hữu ái của anh em đồng mẫu cõi đời cũng đã có, huống chi nữa anh em dị bào. Lại nữa, đồng bào vô học thức, con chồng dì ghẻ, mấy đời bánh đúc có xương. Cho nên đồng bạc trắng, lòng đời đen, cũng là nhẽ thường thiên hạ vậy.(25) Chính chế độ đa thê đã phá hoại gia đình Tản Đà, đã đưa đến sự ghen tuông, thù hận và tranh chấp giữa bà Cả và thân mẫu Tản Đà khiến bà phải bỏ lại Tản Đà mà ngậm ngùi ra đi vào cuộc đời sương gió!Ngoài ra, bà Cả cũng có trách nhiệm vì bà Cả « thiếu lượng bao dung »: Gia nhân ly tất khởi ư phụ nhân, nghĩa là trong nhà lìa tan, tất do ở đàn bà mà ra... Gần đây, trong xã hội ta, xem ra it có mấy cái gia đình được vui vẻ, cũng là vì bên nội tướng kém ru? Thứ nhất là cái lượng bao dung của người đàn bà có kém, cho nên trong gia đình của người chồng, anh em chị em khó mà được xum vui cùng nhau.(26) Ngoài gia đình ngày xưa, xã hội thời Tản Đà cũng đóng góp vào bất hạnh của gia đình Tản Đà và xã hội Việt Nam lúc bấy giờ. Khoảng cuối thế kỷ 19, quân Pháp đã gây chiến tranh khắp Việt Nam. Khắp nơi, người chết, nhà tan cửa nát. Khi quân Pháp chiếm thành Hà Nội, chiến tranh đã đến miền Bắc. Một số quan lại đầu hàng Pháp, cam tâm làm tay sai cho Pháp thì được no ấm. Trái lại, những người có sĩ khí, bất cộng tác với thực dân thì bị đói khổ. Hàng triệu trí thức thất nghiệp, hàng triệu viên chức sĩ quan và binh lính trở về thôn quê hay sống lây lất ở thành thị. Hàng vạn cơ sở kinh doanh bị đóng cửa. Trần Tế Xương không phải là một sử gia hay xã hội học, song qua mấy câu thơ cay đắng của ông, chúng ta đã thấy rõ thực cảnh xã hội thời bấy giờ: - Cái học nhà nho đã hỏng rồi, Mười người đi học chín người thôi! Cô hàng bán sách lim dim ngủ, Thầy giáo tư lương nhấp nhỏm ngồi... - Nào có ra gì cái chữ nho, Ông nghè, ông cống cũng nằm co. Sao bằng đi học làm thầy phán, Tối rượu sâm banh, sáng sữa bò. Trần Tế Xương cũng đã nói rõ bản thân ông và gia đình ông, một trong hàng triệu gia đình bị phá sản, đã xuống tận đáy xã hội: Vợ lăm le ở vú, Con tấp tểnh đi bồi! Trong hoàn cảnh đó, một người đàn bà yếu đuối như mẹ Tản Đà làm sao chống chọi nổi sự suy sụp của một thời đại, và của một xã hội? Sau này, đã già dặn trong đời, và trải qua những cơn khủng hoảng kinh tế, Tản Đà mới nhận thức đưọc bao đắng cay của thực tế. Từ duy lý tưởng, ông chuyển qua duy thực. Ông đã công nhận quan điểm của Mạnh Tử về mối tương quan giữa kinh tế và đạo đức: Hằng sản cũng không, tâm cũng mất (27) Ông không phải nhà xã hội nhưng tư tưởng Lão Phật đã chi phối tư tưởng và tình cảm của ông.Trên đàn ngôn luận, ông bênh vực cho vấn đề cơm áo, coi mọi người đều bình đẳng trong cuộc mưu sinh: Cái thân con người đã phải có ăn, có mặc mới sống được, thời muốn cho được sống, phải có cách làm ra cơm, kiếm ra áo mà nuôi thân. Cách làm ra cơm, kiếm ra áo của người đời, dù lương thiện hay gian phi, dù cao thượng hay đê tiện, trăm đường nghìn lối, thật là khác nhau, nhưng đều là sinh kế, đều phải có mới được sống. Người ta không thể ăn rễ cây để sống thời cũng không thể lấy đạo đức làm sinh nhai.(28) Tản Đà bây giờ thực sự đạt đến tâm Phật, yêu thương mọi chúng sinh, không phân biệt quý tiện, thiện ác: Người ông lớn, đứa cu ly, Nhọc mình, nhọc xác cũng vì cái ăn. Cuộc đời kinh tế khó khăn, Người đời còn phải nhọc nhắn sớm hôm. Những người khố rách áo ôm, Mồ hôi đổi lấy bát cơm no lòng. Người thương mại, kẻ canh nông, Lo tiền, lo thóc năm cùng lại năm. Ngày ngàyhai buổi đi làm, Cụ thừa trong sở, ông tham trên toà. Người khiêu vũ, kẻ xướng ca, Cùng là nghề nghiệp con nhà làm ăn.(29) Như vậy, trong tiềm thức, Tản Đà đã bênh vực nghề nghiệp của mẹ và em gái. Luận bàn về các nghề nghiệp, trong Đài Gương, Tản Đà viết về phụ nữ: Người con gái lúc sắp bước chân đi lấy chồng: ai cũng tính: một sơi tơ hồng, trăm năm chỉ thắm, đầu xanh đẹp lứa, tóc bạc cùng già. Cảnh ngộ như thế là thường thuận,, thiên hạ được như thế là phần nhiều. Nhưng nếu kìa như ai, không may mà duyên giời có hạn, giữa đường uyên bay, quành cọi sân thu, ngây thơ đôi chút...,. Dẫu cho cấy nhiều buôn to, tiền buôn thóc đặt cũng chư ở vững có yên lòng, huống chi nhà rách vách xiêu, chân ngay tay cứng, được bữa sớm không bữa tối. Khó lắm thay!(30) Vấn đề xã hội này được Tản Đà đề cập đến trong các tác phẩm Thề Non Nước, Trần Ai Tri Kỷ, Kiếp Phong Trần và phần Bình Khang Ca Phả trong Tản Đà Vận Văn. Dưới mắt Tản Đà, các ca kỹ đều đáng thương. Vân Anh, nhân vật trong Thề Non Nước vốn con nhà thi lễ, gặp cảnh sa sút, me đau yếu, đành phải dấn thân vào chốn Bình Khang: Vân Anh một mình đứng giữa sân, nhìn lên giăng mà xem, thấy những đám mây bay tán loạn, thường che mờ cả mặt giăng. Cái cảm hoài vô hạn, bị cảnh đó khêu động, nghĩ đến thân thế con người ta nhiều khi hỗn lĩnh thật là quang sáng mà phải những cảnh ngộ ác nghiệt làm cho đến âm u, sầu thảm khác gì mặt giăng vốn trong sáng mà có khi phải luồn những đám mây vô lại kia, bỗng nghĩ lại thân thế của người ta có khi thật như đám mây bay tán loạn, bầu trời vô hạn biết đâu chỗ về.(TNN,3) Vân Anh là hình ảnh mẹ và em gái Tản Đà ở Bình Khang: Hồ Gươm sen mới ra hoa, Cả hương, cả sắc ai mà không chơi. Sen tàn lá rách tả tơi, Quanh hồ lai vãng ai người tiếc thương. Nước hồ sen đứng soi gương, Còn đâu là sắc, là hương với đời. Tủi thân, sen lại giận đời, Cho chi hương sắc, cho người trọng khinh.(TNN 9) Tản Đà đã vin vào thuyết tài mệnh tương đố để giải thích về cuộc đời đắng cay của mẹ ruột và em gái: Nghĩ là thân một người con gái có nhan sắc, có tài hoa, có học vấn, vì cửa nhà sa sút mà truỵ lạc vào xóm Bình Khang... Con tạo đã ghen ai, ghen cho thật quá nhẽ, đã ghét ai, ghét cho thật đủ đường. Nào ai là những kẻ có tài, nghĩ chữ “tài” còn có nên có nữa hay thôi? (TNN, 19). Lời của một người khách năm xưa gửi cho Vân Anh, khen ngợi Vân Anh: Là một người tuấn tú trong nữ giới, về sự cũng đã có công phu, nếu không phải cảnh ngộ làm hại người thời như công nghiệp Ban Chiêu, tài danh như Tô Huệ, bắc nam dẫu có khác mà xưa nay định cũng không nhường nhau. Vậy mà con tạo ghen tài, không cho cành mai kia được riêng nở trên núi.(TNN,44) Vân Anh trong Thề Non Nước, Đào Liễu, Cúc, Lan trong Truyện Thế Gian chính là mảnh đời của mẹ và em gái Tản Đà. Tản Đà thương xót họ vì họ mang số phận “hồng nhạn bạc mệnh” Cái kiếp phong trần ngán biết bao, Xuân lan thu cúc Đông liễu tây đào Hoá công độc địa làm sao Mà đem bạc mệnh buộc vào hồng nhan.(31) Tản Đà thương xót họ vì cuộc đời phiêu bạt, và cô độc như cánh bèo nổi trôi trên mặt nước: Bồng bềnh mặt nước chân mây, Đêm đêm sương tuyết, ngày ngày nắng mưa.(32) Bốn phương non nước quê người, Chân mây mặt bể, bên giời một ai. Ngọn trào lên xuống hôm mai, Sớm khuya ai cũng đầy vơi dạ sầu! (33) Họ là những kẻ cô đơn, nhất là chuổi ngày tàn, bóng xế: Bên thì trời, chị em ơi, lận đận bên thì trời. Non cao, nước chảy, ấy ai người tri âm! Lúc đêm thanh ngồi dậy cô ôm cầm, Lòng tơ tơ tưởng âm thầm tiếng tơ. Khúc đàn này vẫn khúc ngày xưa Mà người đoái khúc bây giờ đâu xa? Nhớ đầu xanh (còn) đương độ mười ba. Cười giăng bóng xế, thương hoa thu tàn. Thế mà cái phận hồng nhan!(34) Lời người kỹ nữ trong Thành Sầu là một bức tranh tả thực cuộc sống và tâm tư đau khổ của các ca kỹ trong đó có mẹ và em gái Tản Đà: Có lúc sầu mà sầu, nhiều lúc vui mà sầu. Trong lúc vui mà sầu thời thực là thái sầu. Mưa phùn chiều hôm, giăng thanh tiếng dế mà sầu, còn được phát tiết ra ngâm vịnh; nhất là những lúc trong bụng đương nghĩ đến nỗi gia hương, tình cốt nhục, sự thân thế, mà lúc cố khách đến chơi giở câu chuyện hoa nguyệt, thời trong một lúc ấy, bụng nghĩ một nơi, tai nghe đi một chiều; miệng có câu muốn nói không được nói, câu không nói mà phải nói cho nên cũng mặt phấn son, nhời hoa nguyệt, mà ruột tầm đã thắt như ngày ươm tơ. (35) Phật và Lão cho đời là hư ảo. Sang hèn, giàu nghèo, vinh nhục cuối cùng chỉ là một cơn mộng, và điểm cuối cùng là cát bụi, là nấm cỏ

Tản Đà 傘沱 (1889-1939) tên thật là Nguyễn Khắc Hiếu 阮克孝, sinh năm Thành Thái thứ nhất (Kỷ Sửu) ngày 20 tháng 4, dương lịch là 19-5-1889 tại làng Khê Thượng, huyện Bất Bạt, tỉnh Sơn Tây, một làng trung du nhỏ bên sông Đà, chỉ cách núi Tản Viên 10km đường chim bay. Nay Khê Thượng được nhập với một số xã khác thành xã Sơn Đà thuộc huyện Ba Vì, ngoại thành Hà Nội.

Ông xuất thân trong một dòng họ khoa bảng lâu đời, chính quán ở làng Lủ tức Kim Lũ, xã Đại Kim, huyện Thanh Trì, ngoại thành Hà Nội. Nay nhà thờ tổ họ vẫn còn ở xã, được xếp vào di tích liệt hạng, vì có nhiều nhân vật lịch sử và danh nhân văn hoá như Nguyễn Công Thể (tổ 6 đời của Tản Đà), tả thị lang bộ Lại, thượng thư bộ Lễ, Thái bảo thái phó Kiều quận công, đã có công đấu tranh với triều đình nhà Thanh để giữ đất biên cương ở trấn Tuyên Quang; Phương Đình - Nguyễn Văn Siêu (thần Siêu, thánh Quát); đầu xứ Trừu tức Hổ Trừu, nhà thơ trào phúng, tú tài Quyến, em ruột Hổ Trừu, theo lãnh tụ Cần Vương Ngô Quang Bích được cử sang Trung Quốc tìm gặp Tôn Thất Thuyết v.v...

Khi nhà Nguyễn nắm quyền thống trị đất nước, các cụ dòng họ Nguyễn làng Khê Thượng đã lập lời thề không ra làm quan với triều đại mới, từ đó dòng họ sa sút nghèo khổ, chỉ làm “thầy đồ làng”, tới Nguyễn Danh Kế là thân sinh Tản Đà vừa phải đi học vừa làm thợ thổ (làm đất thuê) để nuôi mẹ.

Vì quá túng thiếu nên Nguyễn Danh Kế đã ra thi, đỗ Cử nhân triều Tự Đức, bổ tri huyện Nam Sang, tri phủ Lý Nhân, rồi Xuân Trường (đều thuộc Hà Nam Ninh ngày nay), thăng án sát Ninh Bình rồi mất (1837-1891). Tuy gửi thân vào chốn quan trường nhưng Nguyễn Danh Kế có cốt cách một nhà nho tài tử, và trong chốn Bình Khang đã gặp một đào nương tài sắc ở phố Hàng Thao, Nam Định là Nhữ Thị Nghiêm. Yêu vì tài, cảm vì tình, hai người đã lấy nhau hồi Nguyễn Danh Kế làm tri phủ Xuân Trường. Từ cuộc hôn nhân ấy đã sinh ra Nguyễn Khắc Hiếu, còn tên là Cứu, thường được gọi là “ấm Cứu” rồi “ấm Hiếu”. Ấm Hiếu là con thứ tư và là con út của bà Nhữ Thị Nghiêm và là con trai thứ 11, cùng út của Nguyễn Danh Kế (ông có 3 vợ, 11 con).

Năm Nguyễn Khắc Hiếu lên ba tuổi thì thân phụ qua đời, năm lên 4 mẹ trở lại nghề cũ với tiếng đàn câu hát, khi Hà Nội, khi Bắc Ninh. Từ đó, ông được người anh khác mẹ là Nguyễn Tái Tích, phó bảng ra giáo thụ, nuôi dưỡng và cho ăn học chuyên về khoa cử. Do ảnh hưởng gia đình, năm 14 tuổi, ông đã thạo các lối từ chương thi phú. Năm 1907, ông theo anh ra Hà Nội, học trường Quy Thức ở phố Gia Ngư. Năm 1909, đi thi Hương ở Nam Định, bị hỏng. Năm 1912, đi thi khoa Nhâm Tý với hy vọng nếu đỗ cử nhân thì sẽ kết duyên cùng nàng Đỗ thị ở phố Hàng Bồ, Hà Nội, nhưng vẫn hỏng. Trở về Hà Nội, chứng kiến người yêu là cô Đỗ đi lấy chồng, ông chán nản bỏ về Hoà Bình tìm khuây lãng; rồi cùng bạn là nhà tư sản Bạch Thái Bưởi lên chùa uống rượu, làm thơ và thưởng trăng, sống theo lối “tịch cốc”.

Năm 1915, ông lập gia đình. Năm 1916, người anh từ trần, gia đình trở nên cùng túng, Tản Đà quyết định chuyển hẳn sang nghề cầm bút. Thời gian này ông viết tuồng cho các rạp và được đọc thêm nhiều sách dịch Âu Tây bằng chữ Hán, nhờ đó tư tưởng có nhiều biến chuyển.

Năm 1920, đi du lịch ở Huế, Đà Nẵng, trở về viết truyện Thề non nước. Năm 1921, làm chủ bút tờ Hữu Thanh tạp chí. Được 6 tháng, từ chức, trở về quê. Năm 1922, lại ra Hà Nội lập Tản Đà thư điếm, sau tập hợp với Nghiêm hàm ấn quán thành Tản Đà thư cục.

Năm 1925, phong trào yêu nước dấy lên mạnh mẽ, Tản Đà càng nhập thế tích cực hơn. Ông tổ chức một chuyến du lịch vào Nam, gặp gỡ nhiều nhà chí sĩ và viết bài trên nhiều báo. Tháng 2 năm 1928, trở về Bắc, rồi lên định cư vùng Yên Lập (Vĩnh Yên), nhưng bị quan lại địa phương gây khó dễ, phải xuống Hải Phòng, rồi lại lên Hà Nội. Năm 1933, sau khi An Nam tạp chí bị đình bản, ông chuyển sang trợ bút cho Văn học tạp chí ít lâu rồi về quê ở ẩn.

Cuối năm 1937, chuyển về làng Hà Trì (Hà Đông), tham gia dịch thuật, viết báo. Sau vì bị viên quan Tổng đốc Hà Đông thù ghét, phải chuyển ra Hà Nội, mở lớp dạy Quốc văn hàm thụ, Hán văn diễn giảng, kiêm cả xem lý số Hà lạc. Ông sống nghèo đói, không đủ ăn và trả tiền nhà, bị chủ nhà tịch thu đồ đạc và đuổi đi, Tản Đà phải cùng gia đình dọn về phố Cầu Mới. Trong hai năm 1937 và 1938, ông dịch thơ Đường đăng nhiều trên báo Ngày nay.

Ông qua đời vì bệnh vào ngày 7 tháng 6 năm 1939 (20 tháng 4 năm Kỷ Mão) tại nhà 71 phố Cầu Mới, Ngã Tư Sở, Hà Nội (nay là nhà số 47 Nguyễn Trãi), thọ 51 tuổi. Năm 1963, di hài Tản Đà đã được cải táng đưa về chôn ở cánh đồng Cửu Quán, thôn Hội Xá (quê vợ của nhà thơ), xã Hương Sơn, tỉnh Hà Tây cũ.

Trên văn đàn của văn học Việt Nam trong hơn 3 thập niên đầu thế kỷ 20, Tản Đà nổi lên như một ngôi sao sáng, vừa độc đáo, vừa dồi dào năng lực sáng tạo. Ông là một cây bút phóng khoáng, xông xáo trên nhiều lĩnh vực, đi khắp miền đất nước, ông để lại nhiều tác phẩm với nhiều thể loại. Ông đã từng làm chủ bút tạp chí Hữu thanh, An Nam tạp chí. Ông được đánh giá là người chuẩn bị cho sự ra đời của thơ mới trong nền văn học Việt Nam, là “gạch nối giữa hai thời kỳ văn học cổ điển và hiện đại”. Ngoài sáng tác thơ, Tản Đà còn giỏi trong việc dịch thơ Đường ra thơ lục bát. Hiệu Tản Đà chỉ núi Tản Viên (tức núi Ba Vì) và sông Đà (còn gọi là Hắc giang vì nước lúc nào cũng đen), được ông thích nghĩa bằng ba câu yết hậu:
Ba Vì ở trước mặt
Hắc giang bên cạnh nhà
Tản Đà
Văn:
- Giấc mộng con I (1917)
- Giấc mộng con II (1932)
- Giấc mộng lớn (1932)
- Thề non nước (1922)
- Tản Đà văn tập (1932)

Thơ:
- Khối tình con I (1916)
- Khối tình con II (1918)
- Tản Đà xuân sắc (1918)
- Khối tình con III (1932)

Kịch:
- Tây Thi (1922)
- Tống biệt (1922)

Dịch thuật:
- Liêu Trai chí dị (1934)

Nghiên cứu:
- Vương Thuý Kiều chú giải (1938)
- Một số bài báo...

Nguồn:
1. Thơ Đường Tản Đà dịch, Nguyễn Quảng Tuân biên soạn, NXB Trẻ và Hội Nghiên cứu và Giảng dạy Văn học TP. Hồ Chí Minh, 1989
2. Tuyển tập Tản Đà, Nguyễn Khắc Xương tuyển chọn khảo dị và đính chính, Xuân Diệu viết giới thiệu, NXB Hội nhà văn, 2002
Tản Đà 傘沱 (1889-1939) tên thật là Nguyễn Khắc Hiếu 阮克孝, sinh năm Thành Thái thứ nhất (Kỷ Sửu) ngày 20 tháng 4, dương lịch là 19-5-1889 tại làng Khê Thượng, huyện Bất Bạt, tỉnh Sơn Tây, một làng trung du nhỏ bên sông Đà, chỉ cách núi Tản Viên 10km đường chim bay. Nay Khê Thượng được nhập với một số xã khác thành xã Sơn Đà thuộc huyện Ba Vì, ngoại thành Hà Nội.

Ông xuất thân trong một dòng họ khoa bảng lâu đời, chính quán ở làng Lủ tức Kim Lũ, xã Đại Kim, huyện Thanh Trì, ngoại thành Hà Nội. Nay nhà thờ tổ họ vẫn còn ở xã, được xếp vào di tích liệt hạng, vì có nhiều nhân vật lịch sử và danh nhân văn hoá như Nguyễn Công Thể (tổ 6 đời của Tản Đà), tả thị lang bộ Lại, thượng thư bộ Lễ, Thái bảo thái phó Kiều quận công, đã có công đấu tranh với triều đình nhà Thanh để giữ đất biên cương ở trấ…

Khối tình con

Đài gương (1919)

Còn chơi (1921)

 

Ảnh đại diện

Tản Đà - Người mở đầu thơ Việt Nam hiện đại

Tác giả: Kiều Thu Hoạch


Tản Đà - Nguyễn Khắc Hiếu (1889-1939) - người làng Khê Thượng, xã Sơn Đà (Ba Vì, Hà Tây) - được coi là nhà thơ, nhà văn, nhà báo tiêu biểu trên văn đàn Việt Nam đầu thế kỷ 20. Với những bài thơ có tư tưởng cách tân, vượt ra ngoài lối thơ niêm luật gò bó, Tản Đà là người mở đầu cho thơ Việt Nam hiện đại. Ông có thơ ngông, thơ buồn, thơ say, thơ lãng mạn... nhưng tất thảy đều thể hiện tấm lòng yêu nước thương nòi. Tản Đà cũng là người đóng vai trò khai sáng và tiên phong trong văn xuôi nghệ thuật.

Tản Đà tên thật là Nguyễn Khắc Hiếu, quê ở làng Khê Thượng, nay thuộc xã Sơn Đà, huyện Ba Vì, tỉnh Hà Tây. Ông sinh năm 1889, mất năm 1939. (1)

Cha ông là Nguyễn Danh Kế, đậu cử nhân thời Tự Đức, được bổ tri huyện, tri phủ, rồi án sát, nên ông được "tập ấm", thường gọi là Ấm Hiếu. Mẹ ông là một đào nương nổi tiếng tài sắc ở phố Hàng Thao, Nam Thành, lấy lẽ thứ ba ông Nguyễn Danh Kế và Ấm Hiếu là con thứ tư, mà cũng là con út của bà.

Năm Ấm Hiếu lên ba tuổi thì bố mất, sau đó mẹ ông lại trở về nghề cũ. Từ bấy giờ, ông được người anh cùng cha khác mẹ là Giáo thụ Nguyễn Tài Tích nuôi dưỡng.

Theo tác phẩm Giấc mộng lớn, một cuốn tự truyện của Tản Đà, đồng thời là cuốn tự truyện đầu tiên của văn học Việt Nam, thì ông đã thi hỏng luôn hai khóa ở trường Nam (trường thi Nam Định). Sau lần hỏng thi khoa Nhâm Tý (1912), ông mới thôi nghề khoa cử. Lúc này, ông có dịp được đọc các tân thư Trung Quốc dịch của người Thái Tây (2) và rất ham đọc báo chí Trung Quốc. Sự nghiệp làm báo của Tản Đà bắt đầu được khơi gợi từ đây. Chính trong "Giấc mộng lớn", ông đã viết: "Ngoài sự làm văn thơ, chỉ mê thiết xem các thứ nhật trình Tàu. Cảnh ngộ vô tình mà cái cơ duyên báo chí sau này cũng phát đoan (3) từ đấy". Trong thời kỳ này, Tản Đà còn được người anh rể Nguyễn Thiện Kế dìu dắt vào con đường văn chương. Nguyễn Thiện Kế từng làm tri huyện Tùng Thiện và Phúc Thọ của xứ Đoài, vốn là một nhà thơ trào phúng nổi tiếng đương thời, lại là người chịu ảnh hưởng sâu sắc của phong trào yêu nước và cách mạng đầu thế kỷ 20, thường làm thơ đả kích táo bạo bọn quan lại cao cấp, tay sai của thực dân Pháp. Trong "Giấc mộng lớn", Tản Đà tỏ ra hết sức kính phục tài văn chương của quan huyện Nguyễn Thiện Kế, gọi ông là đại thi hào, đồng thời cũng ghi nhận ảnh hưởng của nhà thơ này đối với mình: "Cái sinh nhai quốc văn của mình có hay hơn mười năm nay, thực từ trong lúc thanh niên, có quan huyện - Nguyễn Thiện Kế, phát đoan, dẫn đạo".

Tác phẩm đầu tiên của Tản Đà được công bố trước công chúng là những bài tản văn đăng ở "Đông Dương tạp chí", năm 1915. Văn của Tản Đà ngay từ khi ra mắt bạn đọc đã nổi tiếng, đến mức "Đông Dương tạp chí" phải mở riêng một mục là Tản Đà văn tập chuyên đăng tải văn của ông, và Tòa soạn đã ghi nhận xét rằng: "Bản quán duyệt qua tập văn ấy, thì thấy ông Nguyễn Khắc Hiếu cũng là một văn sĩ có biệt tài, có lý tưởng riêng, ngắm cảnh vật một cách kỳ khôi, lạ thay cho một bậc thiếu niên!".

Và suốt từ đó cho đến năm 1939 là năm Tản Đà mất, ông đã sáng tác liên tục không mệt mỏi một khối lượng đồ sộ gồm đủ loại thơ, văn, truyện, ca kịch, các làn điệu dân ca, từ khúc, diễn ca, dịch văn học cổ điển Trung Quốc như thơ Đường và Kinh Thi, chú giải Truyện Kiều... Hiện nay, giới khoa học đã sưu tập được khoảng trên 30 tác phẩm gồm các văn tập, thi tập của ông như: Khối tình con, Giấc mộng con, Giấc mộng lớn, Còn chơi; Thơ trên các báo và An Nam tạp chí, Thần tiền, Lên sáu, Lên tám, Tản Đà tản văn, Tản Đà tùng văn, Truyện thế gian, Nhàn tưởng, Thơ Tản Đà,v.v.

Điều lạ kỳ là Tản Đà là người học chữ Hán, theo lối học cử nghiệp, vốn quen thuộc với văn sách, với phú, với lối văn tứ lục, với thơ luật Đường... thế mà ông viết văn xuôi lại rất hay, rất sắc sảo, rất nhuần nhuyễn, thuần thục. Năm 1916, khi tác phẩm "Giấc mộng con I" ra đời, Dương Bá Trạc đề tựa cho Tản Đà đã phải khen: "Mới mươi mười lăm năm nay, sĩ phu trong nước mới có cái khuynh hướng về văn quốc âm, giọng Hàn Thuyên, hồn Đại Việt đã lập lòe một tia lửa sáng xuất hiện trong văn giới hoàn cầu. Ông Nguyễn Khắc Hiếu, Sơn Tây, chính là một tay kiện tướng trên trường hàn mặc ấy!". "Giấc mộng con I" cũng như "Giấc mộng con II" là hai tập du ký tưởng tượng, có thể coi đây là tiểu thuyết viễn tưởng của Tản Đà. Ở "Giấc mộng con I", Tản Đà chỉ lấy tư liệu trên báo chí mà tả lại những nơi danh thắng trên thế giới, như thác nước Niagara ở Canada, đền Taj-Mahal ở ấn Độ, Kim Tự Tháp ở Ai Cập..., thế mà ông miêu tả sống động, hứng thú y như là chính mình đã tới chơi những nơi đó thật. Ở "Giấc mộng con II", ông kể chuyện cuộc chơi lên thiên đình, gặp các danh nhân lịch sử thế giới và Việt Nam, như Lư Thoa (J.J.Rousseau), Đông Phương Sóc, Khổng Tử, Hàn Thuyên, Nguyễn Trãi, Chiêu Quân, Dương Quý Phi... Qua hai cuộc viễn du tưởng tượng, tác giả muốn đưa mọi người đến những thế giới lý tưởng, diệu kỳ, đến với những cảnh sắc tươi đẹp, gặp gỡ những nhân vật tài hoa. ở đó chỉ có cái đẹp, cái cao thượng, tình yêu thương và lòng tôn trọng lẫn nhau, khác hẳn cái xã hội xấu xa nơi trần giới. Tác phẩm vừa có giá trị hiện thực phê phán lại vừa có ý nghĩa lãng mạn, thể hiện những ước vọng nhân văn của tác giả.

Tản Đà là người thích mở rộng, và có một trí tưởng tượng rất phong phú, song nhiều khi mơ mộng, tưởng tượng chỉ là những yếu tố thi pháp trong cá tính sáng tạo của ông, và điều đó không hề làm giảm giá trị phản ánh hiện thực xã hội và ý nghĩa phê phán của tác phẩm. Trường hợp tiểu thuyết "Thần tiền" chẳng hạn, là như vậy. ở đấy, với giọng văn châm biếm hài hước, tác giả đã mượn lời hai chị em đồng tiền nói với nhau để tố cáo thói ăn tiền bẩn thỉu của bọn quan lại: "Khi đã vào trong cửa quan, trên thời quan nha, dưới thời lính tráng, dân sự, mà các ông ấy để mình nằm trần truồng ra trước công đường. Lúc ấy thẹn phải chết... Ngồi đấy, rồi thấy quan cũng thét mắng luôn, nhưng về các dân sự chứ không phải là quát mắng mình, mà mình thỉnh thoảng thấy quan nhìn mình thời nó như có ý thương yêu lắm!". Cách kể chuyện như vậy thật là hóm hỉnh và hấp dẫn.

Tuy nhiên, trong nhiều bài văn ngắn, tùy bút, bút ký, nghị luận, ngọn bút Tản Đà có khi chẳng cần bóng gió mà đả kích trực diện vào bọn quan lại bất lương, vào tầng lớp trên vô liêm sỉ, đồng thời tỏ ý bênh vực những người nghèo khổ, lương thiện, ca ngợi lòng yêu nước, thương nòi. Chẳng hạn trong tạp văn "Thế nào là hạng người hạ lưu trong xã hội", đăng ở Đông Pháp thời báo năm 1927, Tản Đà viết: "Nay nghĩ như những người quan cao chức lớn, cửa rộng nhà to, mũ áo đai cân, mề đay kim khánh mà gian tham, xiểm nịnh, bất nghĩa vô lương, hút máu mủ của dân thứ để nuôi béo vợ con, hiến vợ con cho người ta để giữ bền phú quý, như thế có phải là hạng người hạ lưu hay không?". Hoặc một đoạn khác ông viết: "Nếu trong hạ đẳng xã hội ta mà có những ai biết thờ cha kính mẹ, yêu nước thương nòi, thời tức là người thượng lưu vậy". Tác giả lấy đạo đức con người mà không lấy sự giàu nghèo làm tiêu chuẩn để phân biệt thượng lưu, hạ lưu. Trong xã hội phong kiến thực dân, đạo đức suy đồi, luân thường đảo ngược, cái ác đang ngự trị, cái lợi cái danh đang chi phối cuộc sống mà Tản Đà lại công nhiên viết trên báo như vậy, há chẳng phải là một nhà văn, nhà báo đầy khí phách, đầy dũng khí? (Chính vì vậy mà bọn quan lại thực dân phong kiến đã tỏ ra không ưa ông, thường để ý xét nét, rình rập ông; điều này ông có ghi rõ trong tập Giấc mộng lớn).

Văn xuôi Tản Đà còn có những thiên tùy bút, bút ký, tiểu phẩm, chan chứa tình cảm nhân đạo chủ nghĩa, thể hiện sự thông cảm sâu sắc với những nỗi khổ nhục của đồng bào trong kiếp sống nô lệ, lầm than. Đó chính là loại văn mà Tản Đà gọi là văn vị đời. Các bài "Cảnh nhà nghèo lấy vợ", "Cảnh túng đi vay tiền"... là những tác phẩm như vậy.

Nhìn chung, văn xuôi Tản Đà đã đề cập đến nhiều vấn đề của xã hội đương thời, bằng một lối văn giàu tính nghệ thuật, hấp dẫn, sáng tạo, mới mẻ, có bản lĩnh, bản sắc riêng.

Có thể thấy rằng đó là thời điểm quốc văn mới phôi thai, mới bắt đầu, mà lại là văn xuôi nghệ thuật, thì mới thấy hết vai trò khai sáng và tiên phong của Tản Đà.

Trong lĩnh vực thi ca cũng vậy, thơ Tản Đà là thứ thơ có bản lĩnh, bản sắc riêng, không lẫn vào đâu được. Song giá trị lớn lao và đặc sắc hơn cả cũng vẫn là ở vị trí dẫn đạo của ông trên thi đàn đầu thế kỷ. Mở đầu cuốn Thi nhân Việt Nam (1941), Hoài Thanh và Hoài Chân trong bài Cung chiêu anh hồn Tản Đà đã viết những lời trân trọng: "... Đôi bài thơ của tiên sinh ra đời từ hơn 20 năm trước, đã có một giọng phóng túng riêng. Tiên sinh đã dạo những bản đàn mở đầu cho một cuộc hòa nhạc tân kỳ đang sắp sửa". Trước đó, trong tuần báo Ngày nay (số ra ngày 17-6-1939), Xuân Diệu, một người say mê thơ Tản Đà từ nhỏ, cũng đã viết: "Tản Đà là người thi sĩ đầu tiên mở đầu cho thơ Việt Nam hiện đại".

Đương nhiên, Tản Đà chưa phải là một nhà thơ mới như các nhà thơ mới lớp sau ông. Nhưng rõ ràng, ông là nhà thơ đã có tư tưởng cách tân, có nhiều tìm tòi, sáng tạo và mạnh dạn vượt ra ngoài khuôn sáo cũ:

Lá đào rơi rắc lối Thiên Thai
Suối tiễn oanh đưa luống ngậm ngùi
Nửa năm tiên cảnh,
Một phút trần ai
Ước cũ duyên thừa có thế thôi
Đá mòn rêu nhạt
Nước chảy hoa trôi
Cái hạc bay lên vút tận trời
Trời đất từ nay xa cách mãi
Cửa động
Đầu non
Đường lối cũ
Nghìn năm thơ thẩn bóng trăng chơi

(Tống biệt)

Trong thời buổi mà lối thơ niêm luật gò bó đang còn phổ biến, thì lối thơ như bài Tống biệt này của Tản Đà quả thật là mới, rất mới!

Chính cái sự mạnh dạn vượt ra ngoài khuôn sáo cũ ấy đã tạo nên "một giọng phóng túng riêng" trong phong cách thơ Tản Đà:

Trời sinh ra bác Tản Đà,
Quê hương thời có cửa nhà thì không
Nửa đời nam, bắc, tây, đông
Bạn bè sum họp vợ chồng biệt ly
Túi thơ đeo khắp ba kỳ,
Lạ chi rừng biển, thiếu gì gió trăng...

(Thú ăn chơi)

Loại thơ phóng túng của Tản Đà còn nhiều, đọc những bài như thế, có thể liên tưởng đến giọng thơ Nguyễn Công Trứ, Tú Xương... Song cũng đúng như các tác giả "Thi nhân Việt Nam" đã nhận xét: "Cái dáng điệu ngang tàng chúng tôi thường thấy ở các nhà thơ xưa, ở tiên sinh không bao giờ có vẻ vay mượn". Cái phóng túng, cái ngang tàng ấy chính cũng là cái ngông mà Tản Đà đã tự nhận:

Vùng đất Sơn Tây này một ông,
Tuổi chưa bao nhiêu văn rất hùng,
Sông Đà núi Tản ai hun đúc,
Bút thánh câu thần sớm vãi vung...
Bởi ông hay quá ông không đỗ,
Không đỗ ông càng tốt bộ ngông!

(Tự trào, sau khi hỏng thi ở trường Nam Định, 1912).

Thơ lưng chất nặng, tay buồn rỗi,
Bán áo mà mua giấy viết ngông.

(Dạm bán áo đoạn)

Khi làm chủ báo, lúc viết mướn,
Hai chục năm dư cảnh khốn cùng...
Trần gian thước đất vẫn không có,
Bút sắt chẳng hơn gì bút lông
Ngày xuân như ngựa, đầu xanh bạc,
Chán cả giang hồ, hết cả ngông

(Tiễn ông Công lên trời).

Đi liền với cái ngông là cái say, nhưng đó không phải là cái say ẩm thực tầm thường, mà là cái say của tao nhân mặc khách, cái say vì nhân thế, vì cảnh đời:

Cảnh đời gió gió, mưa mưa,
Buồn trông ta phải say sưa đỡ buồn
Rượu say ta lại khơi nguồn
Nên thơ rượu cũng thêm ngon giọng tình
Rượu thơ mình lại với mình,
Khi say quên cả cái đỉnh phù du
Trăm năm thi sĩ tửu đồ là ai?

(Thơ rượu).

Và đã say không phải vì rượu mà vì đời, vì thế sự thì thật khó dứt cơn say:

Say sưa nghĩ cũng hư đời,
Hư thời hư vậy, say thời cứ say
Đất say đất cũng lăn quay,
Trời say mặt cũng đỏ gay ai cười.

(Lại say).

Nhưng bao trùm và sâu lắng trong hồn thơ Tản Đà vẫn là cái điệu buồn vẩn vơ, cái nỗi sầu man mác và cái tình bâng khuâng, những yếu tố muôn đời của chủ nghĩa lãng mạng, nhưng lại chỉ riêng có ở Tản Đà, và đó là chủ nghĩa lãng mạng Tản Đà, nếu có thể gọi được như thế!

Mùa thu là mùa gợi buồn cho thi tứ và cũng là mùa muôn thuở của thi ca lãng mạng. Nhưng thơ thu của Tản Đà không phải chỉ có buồn mà còn có nhớ, một nỗi buồn nhớ vơ vẩn, bâng khuâng:

Đêm thu buồn lắm chị Hằng ơi,
Trần giới em nay chán nửa rồi
Cung quế đã ai ngồi đó chửa?
Cành đa xin chị nhắc lên chơị

(Muốn làm thằng Cuội).

Suối tuôn róc rách ngang đèo,
Gió thu bay lá bóng chiều về tây
Chung quanh những lá cùng cây,
Biết người tri kỷ đâu đây mà tìm...

(Vô đề)

Làn cây khuất bóng trăng tà,
Đêm thu một khắc quan hà mấy mươi
Nhớ ai đất khách quê người,
Nhớ ai góc bể bên trời bơ vơ.

(Nhớ ai)

Và đây là một bài thơ thu nổi tiếng mà chính Tản Đà đã chọn để mở đầu các giờ giảng văn ở trường Hồng Bàng, Hà Nội, bài "Cảm thu", tiễn thu:

Từ vào thu đến nay,
Gió thu hiu hắt,
Sương thu lạnh,
Trăng thu bạch,
Khói thu xây thành
Lá thu rơi rụng đầu ghềnh,
Sông thu đưa lá bao ngành biệt ly.
Nhạn về én lại bay đi,
Đêm thì vượn hót ngày thì ve ngâm
Lá sen tàn tạ trong đầm,
Nặng mang giọt lệ âm thầm khóc hoa
Sắc đâu nhuộm ố quan hà,
Cỏ vàng cây đỏ bóng tà tà dương.
Nào người cố lý tha hương,
Cảm thu ai có tư lường hỡi ai...

Tản Đà ngông, Tản Đà say, Tản Đà buồn, Tản Đà mơ mộng, có lẽ cũng chỉ là một phần cảm của ông trước buổi giao thời "gió Á mưa Âu", cái thời mà chỉ thấy:

Luân thường đổ nát, phong hóa suy,
Tiết nghĩa rẻ rúng, ân tình ly...

(Trần ai tri kỷ).

Còn trong thực tế, Tản Đà không phải là con người thoát ly, nhắm mắt trước thời cuộc. Thơ ông cũng không hiếm những bài hướng vào hiện thực xã hội, bộc lộ những tình cảm yêu nước, thương nòi:

Này những ai, này những ai,
Ai có nghe rằng việc thủy tai,
Tỉnh Bắc, tỉnh Đông cùng tỉnh Thái,
Ruộng ngập nhà chìm thây chết trôi...
Lệ đầy vơi, tình chia phôi,
Bồng bế con thơ bán khắp nơi
Năm hào một đứa trẻ lên sáu,
Cha còn sống đó, con bồ côi

(Khuyên người giúp dân lụt)

Và nói như Nguyễn Đình Chiểu: "Bởi chưng hay ghét cũng là hay thương". Tản Đà hay thương dân nên cũng hay ghét bọn tham quan ô lại hại dân, hại nước:

Cũng phường dối nước quân ăn cắp,
Cũng lũ tàn dân giống hại đàn.
Lạnh lẽo hơi sương tòa Tạp chí
Lệ ai giàn giụa với giang san.

(Cảm đề)

Đục nước năm nay cò lại béo,
Bao nhiêu đê vỡ bấy nhiêu tiền

(Nhớ cảnh nước lụt ở bắc).

Tản Đà rất ghét bọn ăn hối lộ, ông được biết chuyện Tuần phủ Vĩnh Yên là Đào Trọng Vận nhân một vụ kiện tranh chấp gia tài đã ăn của đút gần ba nghìn đồng, ông đã gợi ý cho Ngô Tiếp viết truyện "Tờ di chúc" để tố giác vụ này, rồi ông lại viết bài thơ "Cảm đề" cho tiểu thuyết này với một giọng châm biếm khá sâu cay, chua chát:

Hơi đồng đã sạch mồm ông lớn
Mặt sắt còn bia miệng thế gian,
Cũng bởi thằng dân ngu quá lợn
Cho nên quân nó dễ làm quan...

Là một người dân mất nước, lo cho vận mệnh của Tổ quốc, lại chịu ảnh hưởng sâu sắc của những phong trào yêu nước những năm đầu thế kỷ, Tản Đà có những vần thơ cảm khái, nói đến các anh hùng dân tộc, nói đến dân vong quốc, nói đến nòi giống Tiên Rồng... thể hiện tư tưởng yêu nước một cách kín đáo. Tiêu biểu cho dòng thơ này của Tản Đà là bài "Thề non nước", một bài thơ đã đi sâu vào lòng người và được lưu truyền rộng rãi trong các tầng lớp nhân dân:

Nước non nặng một lời thề,
Nước đi đi mãi không về cùng non
Nhớ lời nguyện nước thề non,
Nước đi chưa lại, non còn đứng không
Non cao những ngóng cùng trông,
Suối khô dòng lệ chờ mong tháng ngày
Xương mai một nắm hao gầy,
Tóc mây một mái đã đầy tuyết sương
Trời tây ngả bóng tà dương
Càng phơi vẻ ngọc nét vàng phôi pha
Non cao tuổi vẫn chưa già,
Non thời nhớ nước, nước mà quên non
Dù cho sông cạn đá mòn,
Còn non còn nước hãy còn thề xưa
Non cao đã biết hay chưa
Nước đi ra bể lại mưa về nguồn
Nước non hội ngộ còn luôn,
Bảo cho non chớ có buồn làm chi
Nước kia dù hãy còn đi,
Ngàn dâu xanh tốt, non thì cứ vui
Nghìn năm giao ước kết đôi,
Non non, nước nước không nguôi lời thề

Riêng ở xứ Đoài, bài thơ này cũng như nhiều bài phong dao của Tản Đà từ lâu đã trở thành những bài hát ru quen thuộc, như những bài hát dân gian.

Tản Đà là nhà thơ thân thương của xứ Đoài như ông đã tự khẳng định: "Tôi là người gì? ở phía Nam Đông Á, ở phía bắc Việt Nam, ở phía tây Bắc Kỳ, một người làm văn ở tỉnh Sơn Tây vậy!" (Giấc mộng lớn). Nhưng vượt khỏi "Đà Giang, Tản Lĩnh nước non quê", Tản Đà còn là nhà thơ, nhà văn, nhà báo tiêu biểu, như ngôi sao khuê rực sáng của văn học Việt Nam đầu thế kỷ XX, đúng như Nguyễn Tuân đã nhận xét: "Trong chốn Tao Đàn, Tản Đà xứng đáng ngôi chủ súy; trong Hội tài tình, Tản Đà xứng đáng ngôi Hội chủ; mà làng văn làng báo xứ này ai dám ngồi chung một chiếu với Tản Đà?" (4). Và Tản Đà cũng hoàn toàn xứng đáng như đánh giá của nhà thơ Xuân Diệu trên Tuần báo Ngày nay (17-6-1939) ngay sau khi Tản Đà qua đời: "Tản Đà là người thi sĩ đầu tiên mở đầu cho thơ Việt Nam hiện đại".

(1) Năm sinh, năm mất và thơ văn của Tản Đà đều căn cứ theo Tuyển tập Tản Đà, Nxb Văn học, Hà Nội, 1996.
(2) Thái Tây: Chỉ Âu-Mỹ nói chung.
(3) Phát đoan: Bắt đầu.
(4) Dẫn lại theo Nguyễn Khắc Xương, Sđd, tr.480.


Nguồn: Văn hóa nghệ thuật.
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Thực và mộng trong tình mẫu tử của Tản Đà

Khi quan tri phủ Nguyễn Danh Kế đáo nhậm án sát tỉnh Ninh Bình thì Tản Đà cất tiếng khóc chào đời tại đây. Sang năm sau, thân mẫu Tản Đà hạ sinh một gái tên là Trang. Trong khoảng mấy năm trời hương lửa đậm đà, thân mẫu Tản Đà đã hưởng được mọi hạnh phúc trần gian. Nhưng hạnh phúc này quá ngắn ngủi. Năm 1891, Tản Đà lên ba, quan án lâm bệnh rồi từ trần. Vì đường sá xa xôi, gia đình không thể đưa linh cửu quan án về quê, nên phải an táng tại phủ An Khánh, Ninh Bình. Cái chết của người cha, người chồng, thường báo hiệu một khúc quanh bi thảm của một gia đình.

Bà chị Tản Đà kể rằng khi làm tri phủ Xuân Trường (1), Nam Định, thân phụ bà thường say mê thú hát ả đào. Yêu nhịp hát câu ca, ông yêu luôn cô đào hàng Thao Nam Định. Nàng rất trẻ đẹp, tuổi độ 20, tên là Nghiêm (2). Lúc bấy giờ Nguyễn Danh Kế tiên sanh đã ngoại bốn mươi, việc tề gia nội trợ đã có bà cả và bà hai vốn là hai chị em ruột. Ngày xưa cổ nhân có tục đa thê cho nên chẳng bao lâu nàng danh ca đã trở thành vị phu nhân của quan phủ, tục danh là bà phủ Ba. Bà giỏi xướng ca, lại rành thi hoạ. Bà cùng nữ sĩ Nhàn Khanh (3) xướng hoạ. Khi ở Vân Đình, bà Nhàn Khanh đã gửi bà phủ Ba một bài thơ:
Ai lên Bất Bạt nhắn nhe cùng,
Nhắn hỏi cùng ai có nhớ không?
Nửa bước xa xa bằng mấy dặm,
Một ngày đằng đẵng ví ba đông.
Giọng thơ tri kỷ say mê mệt,
Ngọn lửa tương tư đốt cháy nồng.
Khắc khoải năm canh lòng luống những,
Thư tình mở mở lại phong phong.
Bà phủ Ba đáp lại:
Đêm qua vơ vẩn chốn thư đường,
Mong mỏi chung tình chẳng thấy sang.
Sáu khắc mơ màng người hảo hữu,
Năm canh tơ tưởng chốn Đình giang.
Trông trăng bát ngát thương người ngọc,
Thấy nước long lanh nhớ bạn vàng.
Hai chữ tương tư khôn xiết kể,
Khối tình chi để một ai mang.(4)
Qua thơ xướng hoạ kể trên, chúng ta thấy bà phủ Ba cũng là tay tài hoa. Lại nữa, một vị phu nhân dòng dõi trâm anh thế phiệt như bà Nhàn Khanh lại có thơ xướng hoạ cùng một phu nhân xuất thân ca kỹ, cũng có thể do giao tình đậm đà giữa quan án và gia đình họ Trịnh, họ Dương mà cũng là do lòng liên tài quá lớn vậy.

Trong mấy năm trời sống với quan án, bà án đã có bốn con, gồm hai trai, hai gái: Nguyễn Mạn, Nguyễn Thị Chính, Nguyễn Khắc Hiếu và Nguyễn thị Trang. Khi quan án từ trần, thân mẫu Tản Đả tuổi ngoại ba mươi, bà quyết định sống trọn đời chung thuỷ với người chồng quá cố. Nhưng theo chị Tản Đà, đươc chừng một năm, bà đột nhiên ra đi, mang theo cô gái út, trở lại xóm Binh Khang. Nghe đâu về sau, bà trở thành bà chủ một nhà hát tại Bắc Ninh.

Tại sao gia đình Tản Đà lại xảy ra tấn bi kịch đó? Một cụ bà người (5) cùng làng với Tản Đà nói rằng do mối bất hoà gia đình. Mất chồng, mất nơi nương tựa, người tiểu thiếp không tài sản, không thế lực kia làm sao chịu được tiếng bấc, tiếng chì của bà vợ cả? Ông Nguyễn Mạnh Bổng, anh vợ của Tản Đà cũng chung ý kiến trên. Ông cho rằng thân mẫu của Tản Đà phải cất bước ra đi “vì một sự không hoà trong gia đình” (6). Nhưng chị của Tản Đà lại cho rằng gia đình vẫn êm ấm, không hề có việc xích mích. Thân mẫu Tản Đà ra đi vì “ngựa quen đường cũ”.

Dẫu vì nguyên do nào đi nữa, việc thân mẫu Tản Đà trở lại xóm Bình Khang là một thực tại đã làm Tản Đà đau khổ khôn nguôi. Xã hội Việt Nam vốn coi khinh nghề sênh phách đàn hát vì người ta cho rằng “xướng ca vô loại”. Mặc dầu các sĩ phu thường lấy các đào nương làm hầu thiếp, các nho gia thường kết tội các đào nương, coi đào nương và kỹ nữ là một. Xã hội Việt Nam và luân lý Nho giáo đã lên án thân mẫu Tản Đà. Lại nữa, cái danh giá của gia tộc ông, cha án sát, anh đốc học và ông tổ mấy đời đã từng là Bình chương, Tham tụng, danh giá là thế mà nay mẹ và em lại làm ca kỹ. Việc này là một thực tại đã làm ông đau khổ. Ông Nguyễn Mạnh Bổng đã cho ta biết nỗi đau khổ trong nội tâm Tản Đà:
Đối với việc cụ bà và cô Trang hành động như vậy,Tản Đà tiên sinh lúc còn trẻ tuổi, ở với ông anh cả là Nguyễn Tái Tích (đỗ phó bảng, làm tri huyện, sau về giáo thụ, thăng đốc học) vốn nung đúc ở trong đạo Khổng Mạnh, lấy làm một sự không chính đáng. Cho nên tâm cảnh tiên sinh lúc nào cũng u uất, đau đớn, buồn rầu, không muốn biết đến, không muốn nói ra. Vì tiên sinh là một người đã có cái ý muốn làm “Á châu Khổng phu tử chi đồ” từ lúc bé, nên phàm cái gì trái với đạo đức Khổng Mạnh, tiên sinh đều cho là một sự không trong sạch cả. (7)
Phan Kế Bính đã mô tả cuộc sống của các đào nương nơi Bình Khang là một nơi “sớm đưa Tống Ngọc, tối tìm Tràng Khanh” như Thuý Kiều ở lầu xanh. Ông viết rằng Bình Khang là một nơi vui chơi suồng sã, các quan viên và đào nương “có khi quàng vai bá cổ nhau mà mời, hoặc hôn nhau để tỏ lòng yêu mến” và “lấy cách quàng vai bá cổ, kề đùi, kề vế làm vui, lấy lời ong bướm lả lơi, giăng hoa bỡn cợt làm thích” (8). Không biết thời Chu Mạnh Trinh, Cao Bá Quát, người ta đi hát ả đào như thế nào, còn thời Pháp thuộc, hát ả đào không còn là một nghệ thuật nữa. Trong Chiếc Lư Đồng Mắt Cua, Nguyễn Tuân đã cho ta những nét phác hoạ rất trung thực:
Những ngưòi bạn trong trường tác hí của tôi, cái đức huyên náo không thể chê vào đâu được. Họ đánh trống như đám hoả đầu quân băm thịt viên trên cái quầy bếp một hiệu cao lâu Quảng Đông to lớn. Họ nói chuyện tâm sự với nhau mà như hầu sáng hô tiền hàng. Họ vần cô đào, họ chơi hoa như lính đi cắt cỏ ngựa về cho ngựa ăn. Nhà hát là cái chợ.(9)
Những lời phê bình, mô tả chung chung như thế có lẽ đến tai Tản Đà.Nhưng nặng nề hơn, một vài kẻ đã nêu đích danh gia đình Tản Đà, mẹ và em gái Tản Đà ra để làm đề tài. Người ta vô tình hay cố ý làm vỡ vết thương lòng của Tản Đà như trường hợp phó bảng Trần Tán Bình (1869- 1935). Một hôm ông phó bảng họ Trần đi hát gặp cô Trang đã làm một bài hát nói:
Có phải cô Trang em ấm Hiếu?
Người xinh xinh yểu điệu dáng con nhà.
Vì đâu vương lấy nợ tài hoa?
Bắt luân lạc, trời già âu cũng độc!
Cha án sát, anh thời đốc học,
Nền đỉnh chung bỗng chốc hoá truân chiên.
Cất chén quỳnh nhớ bạn đồng niên,
Dục lòng khách bên đèn sa nước mắt.
Nhớ bạn, thấy em như thấy mặt,
Dừng roi chầu, lặng ngắt một hồi.
Đời người đến thế thì thôi,
Đời phồn hoa cũng là đời bỏ đi.
Hoa xuân em giữ lấy thì!(10)
Vì xót thương má hồng gặp bước truân chuyên hay mai mỉa gia đình người ta mà ông phó bảng viết bài này? Dẫu sao, ông phó bảng đã làm một việc thiếu tế nhị nếu ông đọc bài này cho cô Trang nghe hay phổ biến bài này trong quần chúng!

Thực tại xã hội và luân lý Khổng Mạnh đã làm cho Tản Đà đau khổ, tủi nhục khiến ông oán ghét mẹ. Ngoài ra, yếu tố gia tộc cũng làm cho lòng Tản Đà nát tan. Chính cái quá khứ huy hoàng của gia tộc đã làm cho Tản Đà đau lòng vì mẹ và em gái sống trong chốn Bình Khang. Chị của Tản Đà đã cho chúng tôi vài chi tiết.
Ngày 17 tháng giêng năm bính thìn, niên hiệu Duy Tân thú mười (20-3-1916), ông Nguyễn Tái Tích từ trần. Gia đình phải đem linh cữu từ Hà Nội về quê bằng tàu Bạch Thái Bưởi. Nghe tin ông bảng mất, thân mẫu Tản Đà xuống tàu đưa tiễn. Thấy bóng mẹ, Tản Đà lặng lẽ bỏ lên tàu. Các chị em phải khuyên bà ra về, Tản Đà mới trở lại tàu. Trước khi ông Nguyễn Tái Tích mất, Tản Đà phải cưới vợ cho an lòng anh.

Vợ của Tản Đà là con gái viên tri huyện Nguyễn Mạnh Hướng, quê ở làng Hội Xá, huyện Mỹ Đức, Hà Đông. Hôn lễ cử hành ngày rằm tháng chạp năm ất mão, niên hiệu Duy Tân thứ chín tức ngày 17-2-1916. Được tin con trai cưới vợ, bà vội vàng về dự lễ cưới với hy vọng tặng cô dậu một món quà, nhưng Tản Đà cương quyết ngăn cản. Tản Đà bảo rằng nếu tân nưong nhận “người đó “là mẹ thì coi như hôn sự bất thành. Rốt cuộc, người mẹ bất hạnh kia đành thui thủi ra về trong khi tiếng pháo nổ vang, hai họ nâng ly mừng tân lang và tân nương bách niên giai lão! Cho đến khi mẹ mất tại nhà ông anh là Nguyễn Mạn, tại Thái Nguyên, Tản Đà cũng không lên nhìn mặt mẹ lần cuối. Tản Đà chỉ nhắn người nhà nhờ anh trông nom, lo liệu mọi sự. Lúc này, Tản Đà ngoài ba mươi tuổi.

Bà Nguyễn Triệu Quất con gái Tản Đà cho biết rằng Tản Đà chỉ yêu con trai mà ghét bỏ con gái. Chính Tản Đà cũng nói với mọi người rằng ông yêu con trai, rất con gái. Khi sinh đứa con gái đầu lòng, bà Tản Đà phải đem gửi bên ngoại. Hai cô Nguyễn Triệu Quất và Nguyễn Thuý Ngọc ít khi gần cha. Hễ thấy bóng cha, hai cô phải chạy trốn. Bà Nguyễn Triệu Quất nói rằng sở dĩ Tản Đà ghét con gái vì ngày xưa mẹ và em gái đã làm cho Tản Đà đau đớn, tủi nhục.

Trong cuộc đời, Tản Đà đã xa lánh mẹ, trong tiềm thức ông, khoảng cách này càng rộng lớn hơn. Ông luận về thế đạo, ông trách cứ nhân tâm nghĩa là đã liên tưởng đến mẹ và em, gián tiếp đau khổ, buồn tủi vì mẹ và em gái đã sống trái với luân lý đạo đức. Khi ông luận về chữ trinh, nghĩa là ông cho rằng mẹ và em gái đắm mình trong chốn bùn nhơ, thất trinh, thất tiết:
Trăm năm trong cõi người ta,
Trai thời trung hiếu, đàn bà tiết trinh (11)
Tính hạnh người đàn bà có một cái trọng nhất là chữ trinh; đạo người đàn bà đối với chồng có một cái trọng nhất là chữ trinh. Trinh nghĩa là chính chuyên. Chính thời không gian tà, là giữ tính hạnh của mình cho nhất đức. Chuyên thời không có lòng nào với người khác. Là giữ tình nghĩa với chồng cho nhất tâm. Một chữ trinh của đàn bà, từ xưa đến nay, cả đông lẫn tây, đời nào cũng phải quý, nước nào cũng phải quý, nước nào cũng phải chuộng. Chữ Trinh đáng quý và đáng chuộng thời tự người đàn bà càng nên biết quý chuộng là phải. Ngọc lành đã được giá, nên giữ sao cho sạch vết, khỏi phụ lòng người mua. Trăm năm đà kết nghĩa đá vàng, sông chưa cạn, đá chưa mòn, mà nỡ đem một tấm lòng son, yêu riêng sẻ giấu, thời soi gương thẹn với gương,đeo hoa thẹn với hoa, đứng giăng thẹn với giăng, ngồi đèn thẹn với đèn, đêm nằm thẹn với chăn, ngày ngày đi thẹn với bóng, trong đời người ta có một cái quý nhất mà dứt tình cho đang! Chẳng qua cái ngòi vật dục khêu ở ngoài, ngọn lửa vật dục bốc ở trong làm cho một chút lòng trinh đương đỏ như son mà cháy ra than, tàn ra tro, tan ra khói. Tiếc thay! (12)

Nhiều người viện cớ hoàn cảnh khó khăn mà dấn bước vào bún nhơ. Khi viết Đài Gương, Tản Đà ngầm trách mẹ không vững ý chí mà giữ đạo đức, không phán đấu với hoàn cảnh khó khăn.

Cảnh ngộ một đời người ta, rất là không có thường. Cảnh ngộ không có thường mà đức hạnh giữ được thường thời chỗ đó mới là chỗ hơn người....Đời người mà phải lúc biến thật là không may, nhưng gió cả mới biết cây cứng mềm, thời chữ trinh đến lúc ấy mới càng tỏ. Than ôi, chỉ thắm trăm năm, chưa xe đã dứt, đầu xanh đôi lứa, đương họp mà tan. Dẫu luật lệ của vua chúa chưa buộc người lấy chữ trinh... Làm người nên biết nghĩa ngàn thu là quý, đàn bà chỉ có một chút đó có thể sánh được cái trung, cái hiếu, cái anh hùng bên con trai.
Nghĩ sao cho được hơn người,
Tiếng thơm để lại muôn đời ngợi khen (13)
Và đây là một trường hợp tương phản làm nổi bật cuộc sống đen tối của thân mẫu và em gái thi sĩ.Trong gia tộc Tản Đà có bà họ Phan về làm dâu, được bốn năm thì chồng chết, bà vẫn thủ tiết theo giáo dục Khổng môn. Tản Đà đã kinh qua hai hình thái đau khổ. Một là gia đình và xã hội đã so sánh mẹ của Tản Đà với tiết phu họ Phan. Hai là chính Tản Đà cũng có sự so sánh. Sự so sánh này là một điều tất yếu như Charles Blondel đã nhận định:
Có những trạng thái cảm kích, mặc dầu ta muốn hay không, được đoàn thể truyền khiến hay suy tiến cho ta.(14)
Trong khi ca tụng bà tiết phụ này, chính là lúc Tản Đà xót xa vì mẹ và em gái đã sống trong dòng nước đục:
Trời Nam sáng vẻ văn minh,
Họ Phan một gái hiển sinh trên đời.
Núi Sài Sơn là nơi quê quán,
Xe hương về họ Nguyễn làm dâu.
Dâu con một đạo chân tu,
Áo nâng khuya sớm, canh hầu hôm mai.
Chữ cầm sắt, sắc tài ưa đẹp,
Vẻ trâm anh một nếp đôi nhà,
Nhân sinh đệ nhất thực là,
Nhân gian một bóng trăng già soi chung.
Bốn năm chẵn tơ hồng sớm dứt,
Kẻ tri âm lánh khuất cõi đời,
Đầu xanh riêng lẻ mình ai,
Tuổi xanh thoắt đã ra ngoài bốn mươi.
Duyên đã ngắn, năm dài vô tận,
Bể phù sinh chiếc bách sóng dồi.
May thuê vá mướn lần hồi,
Ngày trông lá rụng, đêm ngồi gió thu.
Áng son phấn tuyệt mù xa cách,
Đạo kiên trinh qưyết gánh lấy mình,
Trăm năm một gối phong trần,
Ngàn năm để khách thoa quần một gương(15)
Tản Đà mất mẹ và em gái. Tản Đà thiếu tình mẫu tử. Tản Đà đã đi tìm một tình mẫu tử khác để thay thế tình mẫu tử đã mất. Tục lệ Việt Nam đặt cho người vợ cả nhiệm vụ trông nom, nuôi nấng con chồng. Các con của bà vợ bé phải gọi bà Cả bằng mẹ. Tản Đà đã nương nhờ vào bà Cả mà sống. Việc này đúng như nhận định của George Dumas:
Các nhu cầu khi tự xã hội hoá, khi điều chỉnh các thoả mãn của chúng bằng cách tuân theo các phong tục và các định chế nào, tức là bảo vệ và làm dễ dàng chính sự thoả mãn chúng (16).
Năm 1922, đương làm chủ bút Hữu Thanh,Tản Đà đã xin từ chức để lui về quê cũphụng dưỡng mẹ già (bà Cả). Ông đã gửi độc giả bức tâm thư trước khi rời Hữu Thanh:
Tôi có một mẹ già đã ngoại tám mươi tuổi, từ tháng Mai 1921, tôi về làm việc Hữu Thanh, đến rằm tháng 8 An Nam về nhà được một hôm, từ ấy đến nay lại vẫn ở luôn Hà Nội. Nếu tôi muốn đón mẹ tôi về Hà Nội, thời ngại về hai chữ “phong chúc”, nếu cứ như trong tám tháng giời vừa qua đó, thời không yên hai chữ” thần hồn”. Vì cớ đó nay tôi xin thôi việc Hữu Thanh để về tính theo việc buôn bán cho được it thời giờ bó buộc, cho được it lỗi với luân thường.(17)
Việc Tản Đà từ chức Hữu Thanh là do mâu thuẫn nội bộ của Hội Công Thương Bắc Kỳ, chủ nhân ông của Hữu Thanh tạp chí. Lý do Tản Đà viện dẫn chỉ là đường nét văn hoa, tế nhị để khỏi nói ra thực tế phũ phàng. Dẫu sao, trong tâm Tản Đà, bà mẹ già vẫn có một địa vị khả kính, thay thế cho người mẹ phong trần.
Trong tiểu thuyết Giấc Mộng Con của ông, hình ảnh của mẹ già hiện rõ rệt. Tản Đà gửi thư khuyên vợ phụng dưỡng mẹ già cho tròn đạo hiếu:
Quan hà xa cách, thấm thoắt đã hai năm. Độ nọ được thu anh Cả gửi sang, biết mẹ già vẫn thường được an khang, và số tiền gửi về năm ngoái, Hiền Khanh đã nhận lãnh, tôi lấy làm yên lòng. Bóng dâu đã xế ngang đầu, nhờ Hiền Khanh thay chữ mai sau cho, thời người ngoài bể khơi cũng như về đến phần hường vậy........ Thôi, càng nhớ chồng bao nhiêu, càng nên chiếu lấy mẹ già bấy nhiêu. Ngày tháng thoi đưa, không mấy chốc mà đôi ta họp mặt. Mấy lời trân trọng, ngàn dặm nước mây. (18)
Chị Tản Đà cho biết thuở nhỏ, Tản Đà được mẹ già nuôi nấng, thương yêu và Tản Đà đối với bà rất hiếu thảo, thật xứng với cái cái tên Hiếu của Tản Đà. Sau khi đã lập gia đình, Tản Đà vẫn ở với mẹ già để hôm sớm gần gũi. Những khi mẹ già đau ốm, Tản Đà vẫn thường túc trực bên giường bệnh để trông nom, săn sóc. Khi mẹ già mất, năm 1923, một mình Tản Đà lo việc ma chay. Đến ngày giỗ, các anh chị muốn góp phần giỗ, Tản Đà không nhận. Tản Đà muốn một mình gánh vác mọi việc. Tản Đà đã phủ nhận mẹ ruột của mình, và nương tựa vào mẹ già, tức bà Cả. Theo lời cụ huyện, Tản Đà thường nói với mọi người:
“Đời tôi chỉ có một người mẹ, đó là mẹ già”
Tản Đà là người đau khổ. Ông đã mất tình mẫu tử. Hơn nữa, người mẹ đã bỏ ông mà ra đi, gia nhập vào mộït môi trường không lành mạnh, bị luân lý và xã hội khinh miệt. Tản Đà đi tìm một tình mẫu tử khác ở người mẹ già. Dù đó là một biện pháp tốt, cũng chỉ có giá trị bên ngoài. Trái tim thơ ấu của Nguyễn Khắc Hiếu đã tan vỡ, không cách gì hàn gắn lại. Phương pháp nào đi nữa, ông cũng không có một tình mẫu tử đích thực. Cho nên suốt đời ông, ông vẫn đi tìm kiếm, một tình mẫu tử hoàn hảo và băng bó lại vết thướng từ thuở ấu thời. Tản Đà phải tìm kiếm tình mẫu tử trong Thực và trong Mộng. Ông đã mơ mộng một tình mẫu tử đúng như Freud nói “Mộng là một ước vọng đã được thực hiện”.(19)

Gérard de Nerval nhận định: “Mộng là cuộc đời thứ hai” (20)

Chính Tản đà đã xây một thế giới Mộng, trong đó mẹ con cùng chung sống trong hạnh phúc dưới một mái ấm gia đình. Tại sao ông viết Lên Sáu, Lên Tám? Có lẽ mẹ cậu ấm Hiếu đã bỏ ra đi không cậu mới lên bốn, lên năm, cậu quá nhỏ, không hiểu được bất hạnh của mình. Đến khi lên sáu, lên tám, lên mười, cậu Nguyễn Khắc Hiếu mới nhận thức được khía cạnh đau khổ của một đứa con mất mẹ. Do vậy ông viết Lên Sáu, Lên Tám để tạo một thiên đường cho chính mình, và cho hạnh phúc nguyên thuỷ của tuổi thơ khắp trái đất. Thế giới đó chỉ cần có cha mẹ và con dưới một mái nhà, cùng sống vui vẻ bên nhau:
Ở nhà cùng hai thân,
Ra vào quanh dưới chân.
Đem lòng một tấc cỏ
Báo đáp cùng ba xuân.
Ba xuân như mẹ cha
Tấc cỏ như thân ta,
Nhờ xuân, cỏ xanh tốt,
Có cỏ xuân vui hoà.(21)
Giấc mơ của Tản Đà rất đơn sơ, giản dị, là một hiện thực trong xã hội Việt Nam mấy ngàn năm, hàng triệu trẻ con đã được hưởng thụ. Ôâng mong ước có cha mẹ săn sóc cho con, và con cái cũng biết yêu thương cha mẹ:
Ta nay như cỏ xuân,
Ngày ngày chơi trước sân.
Nghĩ sao trong tấc dạ,
Cho vui lòng hai thân.
Khi vui nào được mấy,
Lo buồn như dễ thấy,
Cha lo con nên thương,
Mẹ buồn con chớ quấy
Ta nay còn trẻ thơ,
Chưa cho cha mẹ nhờ.
Cha mẹ lúc sai bảo,
Vui vẻ con dạ thưa.(22)
Đạo hiếu rộng như bể,
Thân ta còn nhỏ bé.
Nhớn lên mong về sau,
Trọn hiếu cùng cha mẹ.(23)
Tản Đà mơ ước có một người mẹ, hằng ngày tựa cửa trông con đi học về. Đối với Tản Đà đó một hạnh phúc mà ông hằng ước mơ:
Tan buổi học, mẹ ngồi tựa cửa,
Mắt trông con đứa đứ về dần.
Xa xa con đã đến gần,
Các con về đủ quây quần bữa ăn.
Cơm dưa muối khó khăn mới có,
Của không ngon, nhà khó cũng ngon.
Khi vui câu chuyện thêm giòn,
Chồng chồng, vợ vợ, con con một nhà.(24)
Trong thực tế, Tản Đà xa lánh mẹ nhưng mặt khác, trong tiềm thức, không nhiều thì ít, ông đã biện hộ cho me ruột của ông và thông cảm cho bà và em gái. Phần lớn các gia đình thường có những vấn đề, nhất là các gia đình đa thê.Giữa bà cả và các bà thứ thường là một trận chiến liên miên bất tận. Trong gia đình Tản Đà, bà Cả và bà Hai là hai chị em cho nên họ đứng vào một phe. Một mình thân mẫu Tản Đà đứng một phe. Họ ghét thân mẫu Tản Đà vi bà đã chiếm đoạt tình yêu của hai bà. Hơn nữa họ còn oán thân mẫu Tản Đà vì lúc say mê cô đào hàng Thao Nam Định, ông đã phá tán nửa già tài (theo lời chị Tản Đà). Có lẽ Tản Đà đã kết tội chế độ đa thê ở nước ta đã ra nỗi đau khổ cho thân mẫu Tản Đà.

Phong tục Á Đông lại thêm một điều lám gốc cho phần nhiều cái xấu của phong hoá, tức là « đàn ông có thể lấy nhiều vợ », « Cả sông đông chợ, lắm vợ nhiều con » Một câu đó mới đọc lên tưởng như hạnh phúc của một già đình nào, song mà hoạ loạn của bao nhiêu gia đình thực gây nên ở đó. Đạo hữu ái của anh em đồng mẫu cõi đời cũng đã có, huống chi nữa anh em dị bào. Lại nữa, đồng bào vô học thức, con chồng dì ghẻ, mấy đời bánh đúc có xương. Cho nên đồng bạc trắng, lòng đời đen, cũng là nhẽ thường thiên hạ vậy.(25)

Chính chế độ đa thê đã phá hoại gia đình Tản Đà, đã đưa đến sự ghen tuông, thù hận và tranh chấp giữa bà Cả và thân mẫu Tản Đà khiến bà phải bỏ lại Tản Đà mà ngậm ngùi ra đi vào cuộc đời sương gió!Ngoài ra, bà Cả cũng có trách nhiệm vì bà Cả « thiếu lượng bao dung »:
Gia nhân ly tất khởi ư phụ nhân, nghĩa là trong nhà lìa tan, tất do ở đàn bà mà ra... Gần đây, trong xã hội ta, xem ra it có mấy cái gia đình được vui vẻ, cũng là vì bên nội tướng kém ru? Thứ nhất là cái lượng bao dung của người đàn bà có kém, cho nên trong gia đình của người chồng, anh em chị em khó mà được xum vui cùng nhau.(26)
Ngoài gia đình ngày xưa, xã hội thời Tản Đà cũng đóng góp vào bất hạnh của gia đình Tản Đà và xã hội Việt Nam lúc bấy giờ. Khoảng cuối thế kỷ 19, quân Pháp đã gây chiến tranh khắp Việt Nam. Khắp nơi, người chết, nhà tan cửa nát. Khi quân Pháp chiếm thành Hà Nội, chiến tranh đã đến miền Bắc. Một số quan lại đầu hàng Pháp, cam tâm làm tay sai cho Pháp thì được no ấm. Trái lại, những người có sĩ khí, bất cộng tác với thực dân thì bị đói khổ. Hàng triệu trí thức thất nghiệp, hàng triệu viên chức sĩ quan và binh lính trở về thôn quê hay sống lây lất ở thành thị. Hàng vạn cơ sở kinh doanh bị đóng cửa. Trần Tế Xương không phải là một sử gia hay xã hội học, song qua mấy câu thơ cay đắng của ông, chúng ta đã thấy rõ thực cảnh xã hội thời bấy giờ:
- Cái học nhà nho đã hỏng rồi,
Mười người đi học chín người thôi!
Cô hàng bán sách lim dim ngủ,
Thầy giáo tư lương nhấp nhỏm ngồi...

- Nào có ra gì cái chữ nho,
Ông nghè, ông cống cũng nằm co.
Sao bằng đi học làm thầy phán,
Tối rượu sâm banh, sáng sữa bò.
Trần Tế Xương cũng đã nói rõ bản thân ông và gia đình ông, một trong hàng triệu gia đình bị phá sản, đã xuống tận đáy xã hội:
Vợ lăm le ở vú, Con tấp tểnh đi bồi!
Trong hoàn cảnh đó, một người đàn bà yếu đuối như mẹ Tản Đà làm sao chống chọi nổi sự suy sụp của một thời đại, và của một xã hội? Sau này, đã già dặn trong đời, và trải qua những cơn khủng hoảng kinh tế, Tản Đà mới nhận thức đưọc bao đắng cay của thực tế. Từ duy lý tưởng, ông chuyển qua duy thực. Ông đã công nhận quan điểm của Mạnh Tử về mối tương quan giữa kinh tế và đạo đức:
Hằng sản cũng không, tâm cũng mất (27)
Ông không phải nhà xã hội nhưng tư tưởng Lão Phật đã chi phối tư tưởng và tình cảm của ông.Trên đàn ngôn luận, ông bênh vực cho vấn đề cơm áo, coi mọi người đều bình đẳng trong cuộc mưu sinh:
Cái thân con người đã phải có ăn, có mặc mới sống được, thời muốn cho được sống, phải có cách làm ra cơm, kiếm ra áo mà nuôi thân. Cách làm ra cơm, kiếm ra áo của người đời, dù lương thiện hay gian phi, dù cao thượng hay đê tiện, trăm đường nghìn lối, thật là khác nhau, nhưng đều là sinh kế, đều phải có mới được sống. Người ta không thể ăn rễ cây để sống thời cũng không thể lấy đạo đức làm sinh nhai.(28)
Tản Đà bây giờ thực sự đạt đến tâm Phật, yêu thương mọi chúng sinh, không phân biệt quý tiện, thiện ác:
Người ông lớn, đứa cu ly,
Nhọc mình, nhọc xác cũng vì cái ăn.
Cuộc đời kinh tế khó khăn,
Người đời còn phải nhọc nhắn sớm hôm.
Những người khố rách áo ôm,
Mồ hôi đổi lấy bát cơm no lòng.
Người thương mại, kẻ canh nông,
Lo tiền, lo thóc năm cùng lại năm.
Ngày ngàyhai buổi đi làm,
Cụ thừa trong sở, ông tham trên toà.
Người khiêu vũ, kẻ xướng ca,
Cùng là nghề nghiệp con nhà làm ăn.(29)
Như vậy, trong tiềm thức, Tản Đà đã bênh vực nghề nghiệp của mẹ và em gái. Luận bàn về các nghề nghiệp, trong Đài Gương, Tản Đà viết về phụ nữ:
Người con gái lúc sắp bước chân đi lấy chồng: ai cũng tính: một sơi tơ hồng, trăm năm chỉ thắm, đầu xanh đẹp lứa, tóc bạc cùng già. Cảnh ngộ như thế là thường thuận,, thiên hạ được như thế là phần nhiều. Nhưng nếu kìa như ai, không may mà duyên giời có hạn, giữa đường uyên bay, quành cọi sân thu, ngây thơ đôi chút...,. Dẫu cho cấy nhiều buôn to, tiền buôn thóc đặt cũng chư ở vững có yên lòng, huống chi nhà rách vách xiêu, chân ngay tay cứng, được bữa sớm không bữa tối. Khó lắm thay!(30)
Vấn đề xã hội này được Tản Đà đề cập đến trong các tác phẩm Thề Non Nước, Trần Ai Tri Kỷ, Kiếp Phong Trần và phần Bình Khang Ca Phả trong Tản Đà Vận Văn. Dưới mắt Tản Đà, các ca kỹ đều đáng thương. Vân Anh, nhân vật trong Thề Non Nước vốn con nhà thi lễ, gặp cảnh sa sút, me đau yếu, đành phải dấn thân vào chốn Bình Khang:
Vân Anh một mình đứng giữa sân, nhìn lên giăng mà xem, thấy những đám mây bay tán loạn, thường che mờ cả mặt giăng. Cái cảm hoài vô hạn, bị cảnh đó khêu động, nghĩ đến thân thế con người ta nhiều khi hỗn lĩnh thật là quang sáng mà phải những cảnh ngộ ác nghiệt làm cho đến âm u, sầu thảm khác gì mặt giăng vốn trong sáng mà có khi phải luồn những
Bài liên quan

Nguyễn Hữu Cầu 阮有求

Nguyễn Hữu Cầu 阮有求 (?–1751) là thủ lĩnh một cuộc khởi nghĩa nông dân Đàng Ngoài lớn vào giữa thế kỷ 18. Ông là người xã Lôi Động, huyện Thanh Hà, Hải Dương, Việt Nam. Nguyễn Hữu Cầu xuất thân trong gia đình nông dân nghèo, có tài cả văn kiêm võ, lại bơi lội rất giỏi nên được gọi là quận He. He là ...

Trịnh Hoài Đức 鄭懷德

Trịnh Hoài Đức 鄭懷德 (1765-1825), tự Chỉ Sơn, hiệu Cấn Trai, là một nhà thơ, nhà văn và là một sử gia nổi tiếng của Việt Nam trong thế kỷ 18, tổ tiên là người huyện Trường Lạc, tỉnh Phúc Kiến chạy loạn Mãn Thanh ở Trấn Biên (Biên Hoà). Trịnh Hoài Đức cùng với Lê Quang Định và Ngô Nhân Tịnh đều là học ...

Phạm Nguyễn Du 范阮攸

Phạm Nguyễn Du 范阮攸 (1740-1786), nguyên danh là Vĩ Khiêm 撝謙, tự là Hiếu Đức 好德, Dưỡng Hiên 養軒, hiệu là Thạch Động 石洞, quê ở làng Đặng Điền, huyện Chân Phúc, nay là huyện Nghi Lộc tỉnh Nghệ An. Phạm Nguyễn Du đậu hoàng giáp năm 1779, làm quan tới chức Giám sát ngự sử thời Lê Cảnh Hưng. Khi quân ...

Phùng Khắc Khoan 馮克寬

Phùng Khắc Khoan 馮克寬 (1528-1613) tự Hoằng Phu 弘夫, hiệu Nghị Trai 毅齋, Mai Nham Tử, tục gọi là Trạng Bùng, người kẻ Bùng, xã Phùng Xá, huyện Thạch Thất, trấn Sơn Tây. Ông đỗ tiến sĩ năm Quang Hưng thứ 3 (1580) đời vua Lê Thế Tông (1573-1599). Ông được phong nhiều chức vụ quan trọng như Đặc tiến Kim tử ...

Võ Trường Toản 武長团

Võ Trường Toản 武長纘 (?-1792) là một thầy giáo có uy tín ở miền Nam cuối thế kỷ XVIII. Rất nhiều danh sĩ thời này như Trịnh Hoài Đức, Lê Quang Định, Ngô Nhân Tĩnh,... là học trò ông. Võ Trường Toản là người có đức độ, không màng danh lợi, nhiều lần được Nguyễn Ánh mời ra giúp nhưng đều từ chối. Khi ...

Ninh Tốn 寧遜

Ninh Tốn 寧遜 (1743-?) tự là Khiêm Như, Hy Chi, hiệu là Mẫn Hiên, là đại thần thời Lê Trịnh và Tây Sơn, nhà thơ Việt Nam. Ông sinh năm 1743, quê ở xã Yên Mỹ, huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình, trong một gia đình có truyền thống khoa bảng, là hậu duệ của Lão La Đại thần Ninh Hữu Hưng thời Đinh, Tiền Lê, quê ...

Phan Huy Ích 潘輝益

Phan Huy Ích 潘輝益 (1750–1822) tự Khiêm Thụ Phủ, Chi Hoà, hiệu Dụ Am, Đức Hiên, quê ở làng Thu Hoạch, huyện Thiên Lộc, phủ Đức Quang, trấn Nghệ An, nay là xã Thạch Châu, huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh, với tên hiệu là Dụ Am. Ông là con trai đầu của Bình chương đô đốc Phan Huy Cận. Năm 1771, ông đỗ đầu ...

Trần Khản 陳侃

Trần Khản 陳侃 (?-?) không rõ năm sinh năm mất, tự Triều Nam 朝南, hiệu Vô Muộn Tẩu 無悶叟, người huyện Quế Dương (nay thuộc huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh). Thân thế và sự nghiệp của Trần Khản hiện chưa rõ, được biết ông sống vào khoảng thế kỷ XVI và làm quan Chính sự đồng tham viện. Tác phẩm: - Có thơ trong ...

Thái Thuận 蔡順

Thái Thuận 蔡順 (1440-?) tự Nghĩa Hoà, hiệu Lục Khê, biệt hiệu Lữ Đường, sinh 1440. Đậu tiến sĩ 1475 (niên hiệu Hồng Đức thứ 6). Làm quan ở nội các viện triều Lê Thánh Tông hơn 20 năm, sau được bổ làm tham chính ở Hải Dương, sau nữa được đặc cách giữ chức phó nguyên suý hội Tao Đàn. Tác phẩm còn lại: ...

Vũ Mộng Nguyên 武夢原

Vũ Mộng Nguyên 武夢原 (1380-?) hiệu Vị Khê 未谿, Lạn Kha 爛軻, người làng Đông Sơn, huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh. Ông đỗ thái học sinh (tiến sĩ) khoa Canh Thìn năm Thánh Nguyên thứ hai đời Hồ Quý Ly, cùng một khoa với Nguyễn Trãi và Lý Tử Tấn. Về sau làm Tư nghiệp Quốc Tử Giám triều Lê. Vũ Mộng Nguyên làm ...

Mới nhất

THPT Đinh Tiên Hoàng

THPT Đinh Tiên Hoàng đang không ngừng nỗ lực phát triển trở thành một ngôi trường với chất lượng giảng dạy tốt nhất, tạo ra những thế hệ học sinh chất lượng

THPT Thực nghiệm

Trường THPT Thực Nghiệm trực thuộc Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam. Trường là cơ sở giáo dục đào tạo công lập trong hệ thống giáo dục quốc dân và trong hệ thống các trường phổ thông của thành phố Hà Nội. Trường dạy học theo chương trình giáo dục Trung học phổ thông của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Tiếp ...

THPT Đông Kinh

Khẩu hiệu hành động: “ Hãy đặt mình vào vị trí cha mẹ học sinh để giảng giải giáo dục và xử lý công việc ” “ Tất cả vì học sinh thân yêu ”

THPT Hà Nội Academy

Những rào cản còn tồn tại kể trên sẽ được vượt qua bởi những công dân toàn cầu tích cực với nhiệm vụ chung tay xây dựng một thế giới tốt đẹp hơn thông qua việc nghiên cứu và tìm kiếm giải pháp cho những vấn đề toàn cầu bao gồm, nhưng không giới hạn ở nhân quyền, đói nghèo và công bằng xã hội. Nhận ...

http://thptkimlien-hanoi.edu.vn/

Qua 40 năm nỗ lực phấn đấu trong các hoạt động giáo dục, vượt khó khăn, thiếu thốn về cơ sở vật chất, trường THPT Kim Liên đã tạo dựn được uy tín vững chắc, là 1 trong 5 trường THPT hàng đầu của Thủ đô có chất lượng giáo dục toàn diện không ngừng nâng cao và trở thành địa chỉ tin cậy của các bậc ...

THPT Tô Hiến Thành

Trường THPT Tô Hiến Thành được thành lập từ năm học 1995-1996, theo quyết định của Ủy Ban nhân dân tỉnh Thanh Hóa. Đến tháng 6/2010, trường chuyển đổi loại hình sang công lập. Suốt 20 năm phát triển, thầy, cô giáo, thế hệ học sinh đã phấn đấu vượt qua mọi khó khăn, gian khổ, từng bước phát triển ...

THPT Mai Hắc Đế

Trường THPT Mai Hắc Đế được thành lập năm 2009, sau gần 10 năm xây dựng và phát triển, Trường đã trở thành một địa chỉ tin cậy trong đào tạo bậc THPT trên địa bàn Hà Nội.

Trường Trung học phổ thông Nguyễn Gia Thiều

Nhìn lại chặng đường gần 60 năm xây dựng và trưởng thành , các thế hệ giáo viên và học sinh trường Nguyễn Gia Thiều có thể tự hào về truyền thống vẻ vang của trường ; tự hào vì trường đã đóng góp cho đất nước những Anh hùng , liệt sĩ , những người chiến sĩ , nhà khoa học , trí thức , những cán bộ ...

Trường Trung học phổ thông MV.Lô-mô-nô-xốp

Sứ mệnh Xây dựng Hệ thống giáo dục Lômônôxốp có môi trường học tập nền nếp, kỉ cương, chất lượng giáo dục cao; học sinh được giáo dục toàn diện, có cơ hội, điều kiện phát triển phẩm chất, năng lực và tư duy sáng tạo, tự tin hội nhập.

Trường Trung học phổ thông Quốc tế Việt Úc Hà Nội

Trường thực hiện việc giảng dạy và học tập theo chương trình do Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành, thực hiện thời gian học tập theo biên chế năm học do Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định. Song song với chương trình này là chương trình học bằng tiếng Anh được giảng dạy bởi đội ngũ giáo viên bản ngữ giàu ...