25/05/2018, 09:00

Sự phát triển của luật Việt Nam về quan hệ tài sản giữa vợ chồng

Quan niệm cổ về chủ thể quan hệ pháp luật . Trong suy nghĩ cổ xưa, vợ và chồng không có quan hệ tài sản. Khi hôn nhân còn tồn tại, thì vợ chồng là một người; khi hôn nhân chấm dứt do có người chết, thì vợ, chồng cũng chỉ còn một người; nếu ...

Quan niệm cổ về chủ thể quan hệ pháp luật. Trong suy nghĩ cổ xưa, vợ và chồng không có quan hệ tài sản. Khi hôn nhân còn tồn tại, thì vợ chồng là một người; khi hôn nhân chấm dứt do có người chết, thì vợ, chồng cũng chỉ còn một người; nếu hôn nhân chấm dứt do rẫy vợ hoặc do ly hôn, thì đúng là có hai người, nhưng... không phải là vợ chồng. Trong thời kỳ thuộc địa, một số nhà nghiên cứu thử nhìn luật cổ và tục lệ Việt Nam qua lăng kính Pháp để tìm kiếm và mô tả các mối quan hệ tài sản giữa vợ chồng thời xưa, rồi đặt cho các mối quan hệ được phát hiện những cái tên Pháp

Có thể xem, ví dụ, Nguyễn Huy Lai, Les régimes matrimoniaux en droit annamites, luận án Paris, 1934; R. Lingat, Les régimes matrimoniaux du Sud-Est de l’Asie, Trường Viễn đông bác cổ, T.1, 1953; T.2, 1955.
. Mọi nhận định đều trở nên khá tuỳ tiện, lệch lạc và hầu hết đều mang tính áp đặt.

Nói rõ hơn, chế độ sở hữu gia đình, được thừa nhận trong luật cổ và tục lệ Việt Nam như là hình thức duy nhất của sở hữu tư nhân, khiến cho cách đặt vấn đề về quan hệ giữa vợ chồng mà có đối tượng là tài sản không giống như trong một hệ thống luật được xây dựng dựa trên quyền sở hữu cá nhân. Ngày xưa, toàn bộ tài sản trong gia đinh là của gia đình và chính gia đình, chứ không phải cá nhân, là chủ thể của quan hệ pháp luật

Nguyễn Ngọc Điện và Claude-Emmanuel Leroy, La pluralité des approches juridiques de la pluriculturalité au regard de la conception du patrimoine dans le droit vietnamien, trong tập công trình L’Etat pluriculturel et les droits aux différences, Bruylant, Bruxelles, 2003, tr. 75.
. Trước người thứ ba, gia đình hoá thân vào người chủ gia đình và người này nhân danh gia đình để xác lập, thực hiện các giao dịch liên quan đến tài sản của gia đình. Trong tục lệ nông dân và trong luật nhà Lê, vai trò chủ gia đình được cả cha và mẹ đảm nhận; nếu cha chết thì mẹ đảm nhận trọn (kể cả trong trường hợp kết hôn lại). Trong luật nhà Nguyễn, vai trò ấy được giao cho người cha, gọi là gia trưởng; người mẹ đóng vai người cộng sự, người chủ dự bị, và sẽ thay thế người cha để đảm nhận vai trò gia trưởng khi người cha chết, với điều kiện không kết hôn lại.

Sự pha trộn giữa quan niệm truyền thống và quan niệm phương Tây. Nhào nặn tư duy pháp lý cổ xưa với các tư tưởng của luật học phương Tây, người làm luật thời kỳ thuộc địa xây dựng khái niệm chế độ tài sản của vợ chồng bằng cách lồng nội dung của chế độ gia trưởng về tài sản trong các quy tắc được diễn đạt bằng các thuật ngữ vay mượn từ luật của Pháp (cộng đồng tài sản, tài sản chung, tài sản riêng, quản lý tài sản,...). Người làm luật thời thuộc địa cũng thừa nhận cho vợ chồng quyền xây dựng các quan hệ tài sản theo thoả thuận, miễn là các thoả thuận ấy không có tác dụng tước đi quyền đứng đầu gia đình của người chồng và không trái với thuần phong mỹ tục; song các quan hệ tài sản theo thoả thuận hầu như không được các cặp vợ chồng Việt Nam quan tâm. Nhiều lắm, khi hôn nhân được xác lập giữa một người Việt và một người Pháp, thì người nước ngoài có thể nghĩ đến chuyện xây dựng các thoả thuận cần thiết nhằm bảo vệ quyền lợi của mình về tài sản. Cần lưu ý rằng các quan hệ tài sản giữa vợ chồng được chi phối bằng những quy tắc pháp lý được xây dựng theo kiểu Pháp trong các hệ thống pháp lý của Bắc Kỳ và Trung Kỳ. Còn ở Nam Kỳ, cho đến khi chấm dứt chế độ thuộc địa vẫn chưa có một hệ thống các quy tắc chi phối các quan hệ tài sản giữa vợ và chồng

Trong khoảng thời gian cuối của chế độ thuộc địa, một dự thảo Bộ luật dân sự đã được xây dựng và dự kiến được thông qua để áp dụng trên lãnh thổ Nam Kỳ; tuy nhiên, cuộc Chiến tranh thế giới lần thứ hai đã khiến cho việc triển khai dự án bị chậm trễ. Sau đó, chế độ thuộc địa bị xoá sổ cùng với các dự án xây dựng pháp luật còn dang dở.
; trong trường hợp có tranh chấp, các toà án giải quyết các yêu cầu của đương sự dựa vào Bộ luật Gia Long, tục lệ và án lệ.

Luật Việt Nam hiện đại chấp nhận tư duy pháp lý của các nước latinh trong lĩnh vực quan hệ tài sản giữa vợ và chồng. Bởi vậy, do hiệu lực của hôn nhân, vợ và chồng có những mối quan hệ tài sản đặc thù mà giữa hai người độc thân hoặc chung sống như vợ chồng không thể có. Vợ chồng dưới mắt người thứ ba cũng không thể giống như hai người độc thân, hai chủ thể riêng biệt của quan hệ pháp luật. Tuy nhiên, khác với luật của nhiều nước, luật Việt Nam hiện đại không dành cho vợ chồng nhiều sự lựa chọn về loại hình quan hệ tài sản.

Trong Luật năm 1959

Trước khi có Luật năm 1959, người làm luật nước Việt Nam dân chủ cộng hoà có ban hành một vài văn bản có chứa đựng một số quy tắc điều chỉnh quan hệ vợ chồng, như Sắc lệnh ngày 22/5/1950, Sắc lệnh ngày 14/12/1959...; tuy nhiên, các văn bản ấy không quy định một cách có hệ thống các quan hệ tài sản.
. Vợ chồng có quan hệ tài sản theo chế độ tài sản chung tuyệt đối: tất cả tài sản có trước và sau khi kết hôn đều là của chung (Điều 15) . Tất nhiên, nguyên tắc này được áp dụng trong chừng mực nó còn tỏ ra hợp lý; bởi vậy, dù luật không nói rõ, thực tiễn vẫn có xu hướng coi các đồ dùng cá nhân mà công dụng gắn liền với giới tính (đặc biệt là quần áo) là tài sản riêng của mỗi người. Dẫu sao, do chiến tranh, việc tích lũy của cải trong dân cư không đáng kể, phạm vi áp dụng nguyên tắc cộng đồng tài sản được mở rộng đến mức có thể được (ví dụ, cả đối với tư trang, đồ dùng cá nhân mà công dụng không gắn liền với giới tính) nhằm bảo vệ quyền và lợi ích của vợ, chồng trong những điều kiện sống tối thiểu.

Trong thời kỳ đất nước chia đôi, người làm luật của chế độ Sài Gòn ban hành Luật ngày 02/01/1959 chọn chế độ tài sản chung tổng quát làm chế độ pháp định (Điều 47). Sau đó ít lâu, Sắc Luật ngày 23/7/1964, thay thế Luật ngày 02/01/1959, lại chọn chế độ tài sản chung đối với động sản và đối với tài sản tạo ra trong thời kỳ hôn nhân (Điều 53). Chế độ này được tiếp tục thừa nhận và được hoàn thiện một bước trong Bộ dân luật 1972 (Điều 150 đến 162). Nói chung, chế độ pháp định về tài sản của vợ chồng trong Bộ dân luật năm 1972 có nhiều điểm tương tự như chế độ pháp định được áp dụng tại Pháp trước năm 1966: vợ chồng có thể có quyền sở hữu riêng đối với bất động sản; còn động sản chỉ có thể là tài sản chung, trừ những động sản mà tính chất riêng là không thể tranh cãi, như tư trang, đồ dùng cá nhân và một số động sản khác.

Sau khi đất nước thống nhất. Luật năm 1986 được xây dựng và ban hành trong khung cảnh hồi phục của sở hữu tư nhân. Tính chất “tư” của một số tài sản, ở góc nhìn của quan hệ nội bộ giữa vợ và chồng, bắt đầu được lưu ý. Trong các nỗ lực nhằm thiết lập sự dung hoà giữa nguyên tắc tôn trọng tự do cá nhân và nguyên tắc bảo vệ lợi ích gia đình, người làm luật năm 1986 thừa nhận rằng việc kết hôn không làm mất khả năng có quyền có tài sản riêng của một người. Vậy là bắt đầu hình thành ba khối tài sản trong thời kỳ hôn nhân; khối tài sản chung của vợ chồng, khối tài sản riêng của chồng và khối tài sản riêng của vợ. Thế nhưng, khác với luật của những nước xây dựng chế độ tài sản pháp định tương tự, luật Việt Nam thừa nhận cho vợ, chồng quyền nhập một hoặc nhiều tài sản riêng vào khối tài sản chung, cũng như quyền yêu cầu chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân, nếu có lý do chính đáng.

Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 kế thừa các tư tưởng của người làm luật năm 1986 và tiếp tục thừa nhận sự tồn tại của ba khối tài sản của vợ, chồng, quyền nhập tài sản riêng vào tài sản chung và quyền yêu cầu chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân trong một số trường hợp. Tuy nhiên, các quy tắc liên quan được xây dựng chi tiết hơn trước. Trong chừng mực nào đó, có thể nói rằng luật về quan hệ tài sản giữa vợ chồng trong luật hiện đại là sự kế thừa có phát triển chế độ tài sản gia đình của luật cổ và tục lệ trong điều kiện sở hữu tư nhân mang tính chất cá nhân, chứ không phải tính chất gia đình như ngày xưa, và trong điều kiện vợ, chồng bình đẳng về mọi phương diện.

0