Hoạt động chủ yếu của ngân hàng thương mại
Khái niệm Khi nền sản xuất hàng hoá đã phát triển đến một trình độ nhất định, lưu thông hàng hoá và lưu thông tiền tệ đã được mở rộng thì trong nền kinh tế cũng đồng thời xuất hiện những người nắm giữ một khoản tiền tạm ...
Khái niệm
Khi nền sản xuất hàng hoá đã phát triển đến một trình độ nhất định, lưu thông hàng hoá và lưu thông tiền tệ đã được mở rộng thì trong nền kinh tế cũng đồng thời xuất hiện những người nắm giữ một khoản tiền tạm thời không dùng đến và những người cần tiền trong một khoảng thời gian nhất định để kinh doanh. Trước tình hình đó, vào nửa cuối thế kỷ 16 ở Châu Âu đã ra đời một số Ngân hàng đầu tiên mà tiền thân là những tổ chức cho vay nặng lãi chuyển hoá thành. Lúc này hoạt động của Ngân hàng mới chỉ là nhận giữ hộ tiền và cho vay.
Cùng với sự phát triển không ngừng của nền kinh tế, hoạt động của NHTM cững từng bước được củng cố và hoàn thiện, chuyển hoá dần theo hướng đa năng. ở Việt Nam, theo Luật các Tổ chức Tín dụng, nhà lập pháp định nghĩa rằng “ Hoạt động Ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi và sử dụng số tiền này để cấp tín dụng, cung ứng các dịch vụ thanh toán”.
Đặc điểm của hoạt động NHTM
Căn cứ vào khái niệm trên thì hoạt động của NHTM có thể được nhận dạng thông qua một số đặc điểm sau:
* Thứ nhất, hoạt động NHTM là loại hình kinh doanh với mục đích kiếm lời ( bao gồm 2 hình thức chủ yếu là kinh doanh tiền tệ và dịch vụ Ngân hàng). Trong đó, hoạt động kinh doanh tiền tệ được biểu hiện ở nghiệp vụ huy động vốn dưới các hình thức khác nhau để cấp tín dụng cho khách hàng có nhu cầu về vốn với mục tiêu tìm kiếm lợi nhuận. Còn hoạt động dịch vụ Ngân hàng được biểu hiện thông qua các nghiệp vụ sẵn có về tiền tệ, thanh toán, ngoại hối và chứng khoán để cam kết thực hiện công việc nhất định cho khách hàng trong một thời hạn nhất định nhằm mục đích thụ hưởng tiền công dịch vụ do khách hàng chi trả dưới dạng phí hay hoa hồng.
* Thứ hai, hoạt động NHTM là loại hình hoạt động kinh doanh có điều kiện, nghĩa là chỉ khi nào NHTM thoả mãn đầy đủ những điều kiện khắt khe do pháp luật quy định ( vốn pháp định, phương án kinh doanh,...) thì mới được phép hoạt động trên thị trường.
Thứ ba, hoạt động NHTM là loại hình kinh doanh có độ rủi ro cao hơn nhiều so với các loại hình kinh doanh khác và thường có ảnh hưởng sâu sắc, mang tính chất dây truyền đối với nền kinh tế. Sở dĩ nói như vậy là vì, trong hoạt động Ngân hàng, đặc biệt là hoạt động kinh doanh tiền tệ, do các NHTM phải tiến hành huy động vốn của người khác để cấp tín dụng cho khách hàng và trên nguyên tắc NHTM chỉ có thể đòi tiền của người vay sau một thời hạn nhất định, nên đã tạo ra khả năng rủi ro cao cho hoạt động Ngân hàng, kéo theo đó là sự rủi ro đối với người gửi tiền ở NHTM, cũng như rủi ro đối với nền kinh tế. Vì vậy, hoạt động Ngân hàng ở nhiều quốc gia khác nhau trên thế gới thường được điều chỉnh và kiểm soát hết sức chặt chẽ bằng những đạo luật riêng biệt, nhằm đảm bảo cho hoạt động này được vận hành an toàn và hiệu quả trong nền kinh tế thị trường.
Hoạt động và vai trò của NHTM không phải là bất biến, mà liên tục phát triển theo điều kiện kinh tế xã hội. Ngày nay, hoạt động của NHTM rất phong phú và đa dạng, tuỳ điều kiện kinh tế và mức độ phát triển kỹ thuật của mỗi quốc gia mà các nghiệp vụ kinh doanh của các NHTM có thể khác nhau về phạm vi và công nghệ.
Nếu căn cứ vào bảng tổng kết tài sản của NHTM thì hoạt động của NHTM bao gồm: Các hoạt động trong bảng tổng kết tài sản và Các hoạt động ngoài bảng tổng kết tài sản.
Bảng tổng kết tài sản của NHTM
Tài sản( Tính lỏng giảm dần) | Nguồn vốn |
- Dự trữ- Các chứng khoán- Cho vay- Tài sản khác | - Tiền gửi- Tiền vay- Vốn của ngân hàng- Nguồn vốn khác |
Các hoạt động trong bảng tổng kết tài sản:
Bảng tổng kết tài sản của NHTM phản ánh ba lĩnh vực nghiệp vụ cơ bản là: Huy động vốn, Sử dụng vốn và Nghiệp vụ môi giới trung gian.
Huy động vốn
Đây là nghiệp vụ khởi đầu, tạo điều kiện cho mọi hoạt động của NHTM. Khi một NHTM cần vốn cho hoạt động kinh doanh của mình thì có thể huy động ở một số nguồn chính như : Nguồn từ chủ sở hữu, Nguồn tiền gửi, Nguồn vay mượn và một số nguồn khác.
* Huy động từ chủ sở hữu:
Về khía cạnh kinh tế, vốn chủ sở hữu là vốn riêng có của NHTM do các chủ sở hữu đóng góp và các quỹ của ngân hàng được hình thành trong quá trình kinh doanh được thể hiện ở dạng lợi nhuận để lại. Nguồn vốn này có tính ổn định cao, NHTM không phải hoàn lại. Nó có vai trò quan trọng trong việc tài trợ cho các hoạt động mở rộng quy mô của các NHTM ( liên doanh, liên kết, mở rộng mạng lưới,...). Các NHTM thường huy động nguồn này thông qua nghiệp vụ phát hành cổ phiếu, trái phiếu được chuyển đổi thành cổ phiếu, nhận vốn cấp phát của Ngân sách Nhà nước,... Nhìn chung việc huy động dưới hình thức nào là do tính chất sở hữu của NHTM quyết định.
* Huy động từ tiền gửi:
Nguồn vốn từ chủ sở hữu thường có tỷ lệ nhỏ so với số tiền mà NHTM sử dụng trong hoạt động kinh doanh. Vì vậy phần lớn là NHTM phải huy động từ nguồn tiền gửi. Đặc điểm cơ bản của nguồn vốn này là NHTM chỉ được quyền sử dụng nó trong một thời gian nhất định còn quyền sở hữu nó thuộc về những người gửi tiền. Dựa vào tính khả dụng của vốn thì NHTM có thể huy động dưới các hình thức sau:
-Tiền gửi không kỳ hạn: Là loại tiền gửi hoàn toàn theo mục đích khả dụng. Mục đích của khách là muốn sử dụng các tiện ích của NHTM cung ứng. NHTM có nhiệm vụ phải chi trả bất cứ lúc nào mà khách hàng yêu cầu.
- Tiền gửi có kỳ hạn: Là loại tiền gửi có sự tham thoả thuận về thời gian rút tiền giữa khách hàng và ngân hàng. Trong thời gian này ngân hàng có quyền chủ động sử dụng tiền do khách hàng ký gửi. Nếu khách hàng muốn rút tiền trước hạn phải được sự đồng ý của ngân hàng.
- Tiền gửi tiết kiệm: Đây là một bộ phận thu thập bằng tiền của các cá nhân tạm thời nhàn rỗi được gửi vào NHTM dưới nhiều hình thức: Tiết kiệm không kỳ hạn, tiết kiệm có kỳ hạn, tiết kiệm mua nhà,... Với mục đích chủ yếu là tiết kiệm và sinh lời.
* Nguồn vay mượn:
Sau khi đã sử dụng hết vốn, nhưng vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu cho vay vốn của khách hàng hoặc phải đáp ứng nhu cầu thanh toán và chi trả của khách hàng, các NHTM có thể sử dụng nghiệp vụ đi vay ở Ngân hàng trung ương, ở các NHTM khác, vay ở thị trường tiền tệ, vay các tổ chức nước ngoài,... Vốn đi vay thông thường chiếm tỷ trọng không lớn trong kết cấu nguồn vốn. Tuy nhiên, nó rất cần thiết và có vị trí quan trọng để đảm bảo cho Ngân hàng hoạt động kinh doanh một cách bình thường.
* Huy động từ các nguồn
- 1 Lý thuyết tiến hoá đối với sinh học
- 2 error trong sự lấy mẫu,biến điện xung
- 3 Chủ đầu tư xây dựng công trình
- 4 Bổ sung thêm các tham số tỉ lệ cho thiết kế mới
- 5 Các khái niệm cơ bản liên quan đến nguồn lao động và sử dụng nguồn lao động ở nông thôn
- 6 Các thanh toán trong giao dịch thương mại điện tử
- 7 Học bằng cách xây dựng cây định danh
- 8 Quan hệ quốc tế của Việt Nam từ 1986 đến nay
- 9 Nguyên tử
- 10 Điều khiển cạnh tranh(concurrency control)