Quan điểm của Mác- Lênin về vấn đề chu chuyển của tư bản
Nếu như nghiên cứu tuần hoàn của tư bản, chúng ta nghiên cứu các hình thức mà tư bản trút ra và khoác vào qua ba giai đoạn vận động của nó, thì khi nghiên cứu chu chuyển của tư bản, chúng ta nghiên cứu tốc độ vận động của tư bản nhanh hay chậm. Theo Mác - ...
Nếu như nghiên cứu tuần hoàn của tư bản, chúng ta nghiên cứu các hình thức mà tư bản trút ra và khoác vào qua ba giai đoạn vận động của nó, thì khi nghiên cứu chu chuyển của tư bản, chúng ta nghiên cứu tốc độ vận động của tư bản nhanh hay chậm. Theo Mác - Lênin thì: “Sự tuần hoàn của tư bản, nếu xét nó là một quá trình định kỳ đổi mới và lắp đi lắp lại chứ không phải là quá trình cô lập, riêng lẻ, thì gọi là chu chuyển của tư bản”
Trong hình thái là sự lắp lại của quá trình biểu hiện ra là có tính chất khả năng thôi còn sự lắp lại của quá trình trong hình thái II tức là quá trình tái sản xuất, biểu hiện thành sự lắp lại hiện thực. Trong hình thái III giá tự - tư bản mở đầu quá trình với tư cách là giá trị đã tăng thêm, là tất cả những của cải nằm dưới hình thái hàng hoá. Hình thái này là hình thái trọng yếu đối với sự vận động của các tư bản cá biệt nếu xem xét trong mối quan hệ với sự vận động của tư bản xã hội. Nhưng hình thái này không thích hợp cho việc nghiên cứu sự chu chuyển của một tư bản bao giờ cũng được bắt đầu bằng việc ứng trước giá trị tư bản dưới hình thái tiền tệ hay dưới hình thái hàng hoá, và bao giờ cũng đòi hỏi giá trị - tư bản đang lưu thông phải quay trở lại hình thái mà nó đã được ứng ra.
Những nhà kinh tế học không phân biệt các hình thái tuần hoàn khác nhau, đã không xét chúng riêng ra trong mối quan hệ của chúng đối với chu chuyển của tư bản. Có những nhà kinh tế học khác lại xuất phát từ những chi phí dưới hình thái yếu tố sản xuất, và xem xét sự vận động cho đến lúc quay trở về, nhưng họ tuyệt nhiên không hề nói đến hình thái quay trở về đó, không hề tự hỏi xem chúng sẽ quay trở về dưới hình thái hàng hoá hay hình thái tiền. Sau khi toàn bộ giá trị tư bản mà một nhà tư bản cá biệt bỏ vào một ngành sản xuấta nào đó hoàn thành tuần hoàn trong sự vận động của nó, thì nó lại trở lại hình thái ban đầu của nó và lại có thể diễn lại cùng một quá trình như thế. Muốn cho giá trị được bảo tồn mãi mãi và tiếp tục tăng thêm giá trị với tư cách là giá trị tư bản, thì nó phải lắp lại tuần hoàn ấy. Trong đời sống của tư bản, mỗi tuần hoàn cá biệt chỉ là một giai đoạn không ngừng được lắp đi lắp lại, nghĩa là một giai đoạn cấu thành một định kỳ. Hình thái T...T’ tư bản tiền tệ sẽ đi qua cái chuỗi những chuyển hoá bao gồm quá trình tái sản xuất ra nó, hay quá trình tăng thêm giá trị. Khi định kỳ Sx...Sx kết thúc, tư bản mang hình thái những yếu tố sản xuất nó là tiền đề của việc lặp lại tuần hoàn. “Tuần hoàn của tư bản khi được coi là một quá trình định kỳ, chứ không phải một hành vi cá biệt thì được gọi là vòng chu chuyển của tư bản”. Thời gian của vòng chu chuyển ấy được quyết định bởi tổng số thời gian sản xuất và thời gian lưu thông cộng lại. Tổng số thời gian ấy là thời gian chu chuyển của tư bản. Do đó, thời gian chu chuyển của tư bản bao quát khoảng thời gian từ một định kỳ tuần hoàn tiếp theo; nó nói lên tính chu kỳ trong quá trình sinh sống của tư bản, hay có thể nói, nó là thước đo thời hạn đổi mới, thời hạn lặp lại của quá trình làm tăng thêm giá trị hay quá trình sản xuất ra cùng một giá trị tư bản.
Nếu không nói đến những sự ngẫu nhiên riêng rẽ có thể đẩy nhanh hay rút ngắn thời hạn chu chuyển đối với cùng một tư bản cá biệt, thì thời gian chu chuyển ấy nói chung sẽ khác nhau tùy theo những sự khác nhau của các lĩnh vực đầu tư cá biệt của tư bản. Cũng giống như ngày lao động là đơn vị đo lường tự nhiên để đo hoạt động của sức lao động, thì năm cũng là đơn vị đo lường tự nhiên để đo những vòng chu chuyển của tư bản hoạt động. Cơ sở tự nhiên của đơn vị đo lường ấy là tình hình: ở vùng ôn đới, quê hương của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa, các nông sản quan trọng nhất đều được sản xuất ra mỗi năm một lần.
Nếu ta lấy CH để chỉ năm là đơn vị đo lường của thời gian chu chuyển, lấy ch để chỉ thời gian chu chuyển của một tư bản nhất định, lấy n để chỉ số lần chu chuyển của tư bản, thì chúng ta sẽ có: n = . Do đó nếu thời gian chu chuyển của tư bản là vài năm, thì nó sẽ được tính bằng cách nhân với số năm đó. Đối với nhà tư bản, thời gian chu chuyển của tư bản là thời gian trong đó nhà tư bản phải ứng trước tư bản ra để nó tăng thêm giá trị, và quay trở về dưới hình thái ban đầu của nó.
Giá trị các bộ phận tư bản sản xuất chuyển vào sản phẩm theo phương thức khác nhau. Căn cứ vào phương thức chu chuyển giá trị của tư bản thì chia tư bản ra thành tư bản cố định và tư bản lưu động. Trong đó “tư bản cố định là bộ phận tư bản sản xuất mà bản thân nó tham gia hoàn toàn vào quá trình sản xuất, nhưng giá trị lại không chuyển hết một lần, mà chuyển dần từng phần vào sản phẩm”
Còn “tư bản lưu động là một bộ phận tư bản sản xuất mà giá trị của nó sau một thời kỳ sản xuất, có thể hoàn lại hoàn toàn cho nhà tư bản dưới hình thức tiền tệ, sau khi hàng hoá đã bán xong” (5). Đó là bộ phận giá trị tư bản dưới hình thức sức lao động và những tư liệu sản xuất khác. Nguyên liệu, vật liệu phụ bị tiêu dùng toàn bộ vào sản xuất và cũng chuyển toàn bộ gia trị vào sản phẩm mới. Chia tư bản ra thành tư bản cố định và tư bản lưu động cũng là một sự phân chia khoa học, cần thiết về mặt quản lý kinh tế.
Tư bản cố định chu chuyển chậm hơn tư bản lưu động. Trong khi tư bản cố định chu chuyển được vòng thì tư bản lưu động đã chu chuyển được nhiều vòng. Ngay trong tư bản cố định, thời gian chu chuyển của các yếu tố khác nhau cũng không giống nhau, có thời gian hoạt động dài, ngắn khác nhau, nghĩa là hao mòn khác nhau. “Hao mòn hữu hình là do sử dụng và do tác động của thiên nhiên làm cho những bộ phận tư bản đó dần dần hao mòn đi đến chỗ hỏng, không dùng được nữa. Còn hao mòn vô hình là nói về những trường hợp máy móc mới tốt hơn tối tân hơn xuất hiện” (6). Để tránh hao mòn vô hình, nhà tư bản còn tìm cách nâng cao tỷ suất khấu hao tư bản cố định.
Dựa trên hai hình thức hao mòn mà C.Mác phân chia chu chuyển của tư bản thành “Chu chuyển chung của tư bản ứng trước là con số chu chuyển trung bình của những thành phần khác nhau của tư bản. Chu chuyển thực tế là thời gian để tất cả các bộ phận của tư bản ứng trước được khôi phục toàn bộ về mặt giá trị, cũng như về mặt hiện vật
Để nâng cao tỷ suất giá trị thặng dư hàng năm, tức là nâng cao tỷ số giữa khối lượng giá trị thặng dư tạo ra trong một năm với tư bản khả biến ứng ra trước người ta phải tăng tốc độ chu chuyển của tư bản. Tỷ suất giá trị thặng dư thực tế không đổi, nhưng tư bản chu chuyển càng nhanh số vòng chu chuyển tư bản khả biến trong năm càng nhiều thì giá trị thặng dư càng lớn, tỷ suất giá trị thặng dư hàng năm càng cao. Nó che giấu mối quan hệ thực sự giữa tư bản và lao động, gây cho người ta có ấn tượng rằng tỷ suất giá trị thặng dư không phải chỉ phụ thuộc vào khối lượng và trình độ bóc lột sức lao động do nhà tư bản khả biến làm cho hoạt động mà còn phụ thuộc vào những ảnh hưởng không thể giải thích được do quá trình lưu thông đẻ ra. Do đó nhà tư bản ra sức rút ngắn thời gian sản xuất và thời gian lưu thông để tăng tốc độ chu chuyển của tư bản. Sự tiến bộ của kỹ thuật và sự phát triển của lực lượng sản xuất giúp cho nhà tư bản làm việc đó.