Chiến tranh giành Độc lập của Scotland
biên dịch: hongsonvh Trận Stirling Bridge THEO DÒNG LỊCH SỬ Năm 1286 Ngày 18/19 tháng 3 Tai nạn dẫn đến cái chết của Alexander III-nhà vua của Scotland. Ngày 28 tháng 4 Bầu chọn người giám hộ của Vương quốc để cai trị Scotland. Năm 1290 Ngày 18 tháng ...
biên dịch: hongsonvh
Trận Stirling Bridge
THEO DÒNG LỊCH SỬ
Năm 1286
Ngày 18/19 tháng 3 Tai nạn dẫn đến cái chết của Alexander III-nhà vua của Scotland.
Ngày 28 tháng 4 Bầu chọn người giám hộ của Vương quốc để cai trị Scotland.
Năm 1290
Ngày 18 tháng 7 Hiệp ước Birgham.
Ngày 26 tháng 9 Margaret-Maid của Na Uy ở Orkney qua đời.Eleanor-Nữ hoàng Castile-vợ của Edward I của Anh quốc qua đời.
Các đối thủ cạnh tranh về việc thừa kế ngai vàng của Scotland tranh chấp với nhau hết sức dữ dội.
Đức Giám mục Fraser viết thư yêu cầu Edward can thiệp vào cuộc khủng hoảng.
Năm 1291
Tháng 5 Edward I có mặt tại Norham, Quốc-hội Anh-Scotland được triệu tập. Edward muốn được công nhận là chúa tể của Scotland. Edward đứng ra phân xử giữa các đối thủ cạnh tranh,những người đã đồng ý trao lâu đài của hoàng gia Scotland vào tay của ông, đây đồng nghĩa với việc giao cho ông sở hữu vương quốc.
Ngày 13 tháng 6 Người giám hộ và các lãnh chúa người Scotland thừa nhận Edward I là chúa tể của Scotland.
Năm 1292
Năm 17 tháng 11 Edward quyết định ủng hộ John Balliol.
Ngày 30 tháng 11 Balliol lên ngôi vua của Scotland ở Scone.
Năm 1295
Hiệp ước Pháp-Scotland “Liên minh Auld”.
Năm 1296
Tháng 3 chiến tranh nổ ra giữa Edward I và Scotland.
Ngày 30 tháng 3 (quân Anh ) công chiếm lâu đài của Berwick.
Ngày 27 tháng 4 Trận Dunbar, quân đội Scotland bị đánh bại.
Tháng 7 Vua John Balliol đầu hàng và từ bỏ ngôi vua trước Edward I.
Ngày 28 tháng 8 Họp Quốc-hội tại Berwick, Edward nhận được sự kính trọng và trung thành từ khoảng 2.000 quý tộc Scotland; những người “ Ragman Roll”.
Ngày 17 tháng 9 Edward I rời Scotland, chuyển giao quyền điều hành cho John de Warenne, Bá tước của Surrey.
Năm 1297
Tháng 5 William Wallace giết chết Heselrig-cảnh sát trưởng của Clydesdale tại Lanark. Wallace cùng với William Douglas tấn công Scone.
Xuân/ Hè Andrew Murray lãnh đạo một cuộc nổi dậy ở phía Bắc.
Tháng 6->7 lực lượng của Percy và Clifford đầu hàng có điều kiện trước các lãnh chúa Scotland ở Irvine. Ngày 22 tháng 8 Edward I cùng quân đội của mình đi đường thủy đến Flanders.
Tháng 9 Lực lượng của Wallace và Murray tham gia vào cuộc bao vây Dundee. Ngày 11 tháng 9 nổ ra trận đánh Stirling.
Ngày 18 tháng 10 Wallace tấn công Northumberland và Cumberland. Tháng 11 Andrew Murray chết.
Năm 1298
Tháng 1 Quân Scotland chiếm giữ lâu đài Stirling.
Wallace được phong tước hiệp sĩ và được bầu làm người giám hộ của Scotland.
Ngày 14 tháng 3 Edward trở về từ Flanders.
Ngày 22 tháng 7 trận Falkirk, Wallace bị đánh bại.
Năm 1299
Wallace đi ra nước ngoài, quân đội Scotland lại chiếm lâu đài Stirling ( không rõ lần mấy ).
Năm 1300
Tháng 7-> 8 chiến dịch của Edward I Galloway.
Năm 1301
Tháng 7->9 Edward I và Edward của Caernarvon tiến hành chiến dịch ở miền nam Scotland.
Năm 1302
Thỏa thuận ngừng bắn trong 9 tháng
Năm 1303
Ngày 24 tháng 2 trận Roslin, Segrave bị đánh bại.
Tháng 5 Edward I xâm lược Scotland.
Năm 1304
Comyn và các lãnh chúa Scotland khác quy hàng Edward I.
Ngày 22 tháng 4 cuộc vây hãm lâu đài Stirling bắt đầu.
Năm 1305
Ngày 03 tháng 8 William Wallace bị bắt ở gần Glasgow.
Ngày 23 tháng 8 Wallace bị hành hình.
Năm 1306
Ngày 10 tháng 2 Robert Bruce ( người anh hùng Scotland trong trận Bannockburn ) giết chết John Comyn tại Dumfries.
Ngày 25 tháng 3 Robert Bruce đăng quang làm vua của Scotland ở Scone.
Ngày 19 tháng 6 trận Methven, Robert Bruce bị đánh bại.
Tháng 9 Bruce bỏ trốn sang Rathlin Island.
Năm 1307
Tháng 2 Bruce trở lại Carrick.
Ngày 7 tháng 7 Edward I qua đời ở Burgh by Sands thuộc Solway.
NGUỒN GỐC CỦA TRẬN CHIẾN STIRLING BRIDGE
ĐẤT NƯỚC SCOTLAND KHÔNG VUA
đêm 18 tháng 3 năm 1286 đã được chứng minh một cái đêm định mệnh cho vương quốc Scotland. Tại Edinburgh, sau một ngày giải quyết công việc của đất nước, nhà vua Alexander III của Scotland ăn tối và uống rượu với các viên cố vấn của mình ( rượu song lại thấy thèm thèm he he ). Cuối cùng, ông nghĩ rằng mình nên đến thăm bà vợ người Pháp-Yolande de Dreux trẻđẹp mà ông vừa mới kết hôn vào tháng 10 năm trước. Người vợ mới cưới sống ở lâu đài Kinghorn tại Fife và Alexander phải cưỡi ngựa đi 22 dặm để đến với nàngng bóng tối của màn đêm và thời tiết tồi tệ. Khi ông và toán tùy tùng của mình đi dọc theo một con đường núi quanh co trên đỉnh của ngọn núi Firth of Forth, nhà vua đã bị tách ra khỏi đòan tùy tùng của mình. Con ngựa của ông đã bị vấp và hất ông ta xuống vực và vào buổi sáng hôm sau ông đã được tìm thấy trên bờ vực dưới các vách đá, với một chiếc cổ bị gãy – Scotland đã trở nên không có vua.
Nhìn lại thì người ta thấy thời trị vì lâu dài của Alexander được xem như là một thời kỳ hoàng kim của hòa bình và thịnh vượng ở Scotland, nhưng những thành tích của ông đã bị lu mờ bởi thất bại của ông trong việc chế tạo cho đất nước Scotland một người thừa kế nam giới hợp pháp. Margaret-người vợ đầu tiên của ông cũng là con gái của Henry III của Anh quốc, đã chết trong năm 1275 và con cái của họ-hai người con trai và một người con gái cũng không lâu cô sống lâu hơn. Người ta đã hy vọng rằng cuộc hôn nhân của Alexander với cô vợ người Pháp trẻ tuổi có thể tạo ra một người thừa kế nam để khắc phục tình hình, nhưng thay vào đó cái chết không đúng lúc của ông chỉ để lại một người thừa kế nữ 3 tuổi ốm yếu. Cô bé là cháu gái của Alexander có mẹ là nữ hoàng Eric II của Na Uy, bà này cũng qua đời vào năm 1283 sau khi sinh ra Margaret-Maid of `Na Uy ‘ cuối cùng của nhà Hoàng tộc Canmore. Một hội đồng nhiếp chính được chỉ định để quản lý vương quốc thay mặt nữ Hoàng Margaret đang ở Na Uy và đại diện của nó (hội đồng nhiếp chính) đã được gửi đến Edward I, người vào thời điểm này đang bù đầu trong việc giải quyết công việc ở xứ Gascony, để thông báo về tình hình ở Scotland. Đương nhiên nhà vua coi sự kiện này là cực kỳ quan trọng, nhưng vào thời điểm đó ông đã không có một hành động nào cả. Khi quay trở lại Anh trong cuối mùa hè năm 1289, Edward đề nghị một cuộc hôn nhân giữa Edward của Caernarvon-người con trai mới được sinh ra của mình với Maid của Na Uy. Người Scot đã chấp thuận đề nghị này trong Hiệp ước Birgham năm 1290 mặc dù các điều khoản của thỏa thuận vẫn thận trọng nhấn mạnh rằng cac vùng đất của Scotland vẫn tiếp tục tồn tại như là một vương quốc hoàn toàn riêng biệt và độc lập.
Nhưng tất cả sự xắp xếp này trở lên vô nghĩa khi Margaret chết ngay sau khi vừa mới đến Orkney để lại một quyền thừa kế mở và tạo ra cơ hội cho các`Ứng cử viên ‘ tranh giành quyết liệt ngôi vua bị bỏ trống. Nhận thức về sự nguy hiểm của tình trạng này và khả năng xảy ra nội chiến, các quý tộc Scotland đã mời sự can thiệp của Edward I. Trong tháng 5 năm 1291 Edward đã họp mặt với các quý tộc Scotland tại Norham ở vùng biên giới vớiTweed và thông báo với họ rằng ông sẽ ra phán quyết về các yêu cầu khác nhau về ngôi vua mặc dù họ phải thừa nhận ông là chúa tể của Scotland và để đảm bảo hòa bình, Lâu đài Hoàng gia của vương quốc phải được trao cho ông. Trong khi đối mặt với quân đội của Edward vốn đã chuẩn bị sẵn sàng chiến đấu, các quý tộc Scotland đã phải nhượng bộ và giao quyền kiểm soát đất nước cho nhà vua Anh. Người ta không biết được rằng vào lúc nào thì ông nảy ra quyết định thôn tính Scotland mặc dù có thể chỉ đơn giản là cờ đến tay thì ông cứ phất. Eleanor-người vợ yêu dấu Edward đã qua đời vào năm 1290 làm cho tâm địa của vị vua cao tuổi lại càng trở nên bất thường. Sự sụp đổ của Acre vào năm 1291 đã kết thúc giấc mơ của Edward về một cuộc thánh chiến mới tại vùng Đất Thánh (Edward I có tham gia vào cuộc Thập tự chinh lần thứ IX) và ông không còn bị phân tâm về vấn đề này và các suy nghĩ của ông lại được tập trung hơn vào vấn đề đối phó với người Scotland.
Vua John Balliol
Các ứng cử viên nặng ký nhất trong số 14 nguyên đơn yêu cầu ngôi vua là hai người hậu duệ của các con gái của David-Bá tước vùng Huntingdon-anh trai của nhà vua William the Lion. Họ là Robert Bruce (Ông nội của vua Robert I) và John Balliol. Balliol nhà quý tộc trạc trung niên bị ảnh hưởng rất nhiều từ lối sống Anglo-Norman và có rất nhiều bất động sản rộng lớn ở Anh, miền Bắc nước Pháp và Galloway và mặc dù ông này có một số hỗ trợ trong số các quý tộc Scotland, nhưng nói chung ông lại không được nổi tiếng cho lắm ở tại Scotland.
Ngày 17 tháng 11 năm 1292, ở Berwick, Edward quyết định ủng hộ tuyên bố kế thừa ngôi vị của Balliol-người đã tỏ lòng tôn kính với ông ta và ông này đã đăng quang tại Scone vào cuối tháng đó. Nhưng các lâu đài của Scotland nằm dưới sự chiếm đóng của Anh. Edward tiếp tục thể hiện sự thống trị của mình bằng cách phá hoại hệ thống tư pháp độc lập của vương quốc Scotland. Ông ta muốn rằng cá nhân Balliol phải xuất hiện ở nước Anh để trả lời các khiếu nại chống lại triều đình Scotland. Luật pháp thời trung cổ đặc quyền của vị chúa tể là tổ chức các buổi thử thách về chủ quyền. Theo cách này, ông (Edward I ) tìm cách nhấn mạnh rằng Balliol là chư hầu phong kiến của mình và quản lý vương quốc của mình nhân danh nhà vua Anh quốc-chúa tể của mình. Balliol được triệu tập đến Westminster để trả lời các khiếu nại của Macduff ở Fife chống lại những phán quyết của Quốc-Hội Scotland vào ông ta (Macduff ở Fife) và mặc dù ông (Balliol ) đã từ chối trả lời khiếu nại của MacDuff vì chưa tham vấn được ý kiến của người dân của vương quốc của mình, vụ việc là một sự sỉ nhục và giảm bớt quyền lực của ông (Balliol ) với các thành viên Quốc-Hội Scotland. Năm 1293 chiến tranh đã bùng lên giữa Edward I và Philip IV của Pháp về chủ quyền của xứ Gascony. Edward đã gửi giấy triệu tập tới Scotland như họ là chư hầu của mình, bao gồm cả vua John và 18 đại lãnh chúa người Scotland khác, yêu cầu sự phục vụ phong kiến ( mang quân đi đánh không lương cho tôn chủ ) của họ ở ngoài những vùng đất của Scotland. Với một Quốc-Hội vừa mới được thành lập ủng hộ giải pháp cứng rắn của mình, Balliol đã từ chối tuân thủ giấy triệu tập của Edward. Thay vào đó ông đã gửi một sứ giả đến chỗ Philip của Pháp quốc để tìm kiếm sự trợ giúp của ông này. Sự kiện này đã dẫn đến hiệp ước được gọi là ‘Liên minh Auld’ và người Scotland sẽ tiến hành một cuộc xâm lược vào nước Anh nếu người Anh tiến hành xâm lược nước Pháp.
Đầu năm 1296 Balliol chính thức từ bỏ sự trung thành của mình với Vua Anh và chiến tranh giữa Anh và Scotland đã trở nên là điều không thể tránh khỏi. John Balliol-được các nhà sử gia đương đại mô tả như là một «một con chiên trong số những con sói, những kẻ không dám mở miệng “, trở thành người lãnh đạo của một Scotland thống nhất và quyết tâm chống lại ý muốn của Edward Plantagenet.
Vua Edward I khuất phục người Scotland
Năm 1296 vua Edward đã 57 tuổi và ngày càng cảm thấy bực dọc về các cuộc nổi loạn và biến động gần đây ở xứ Wales đồng thời với các sự kiện ở lục địa ( nước Pháp), nhưng ngọn lửa nhiệt tình của ông đã không hề suy giảm. Nó được thể hiện bởi sức mạnh quân sự của Edward I của Anh quốc mà nhà vua đã sử dụng trong các cuộc chiến của ông ở Gascony để chống lại Philip của Pháp quốc và đồng thời tập hợp một lực lượng đáng gờm tại Newcastle để tiến hành một cuộc xâm lược vào Scotland. Trong khi đó, nhận thức được mối đe dọa này, các lãnh chúa phong kiến Scotland cũng tập hợp quân đội tại Caddonlee, điểm tập hợp truyền thống của đội quân người Scotland ở gần Selkirk. Không phải tất cả người Scotland đã tuân theo lệnh triệu tập để gia nhập quân đội vì lợi ích của những người ở miền nam Scotland. Người của Patrick-Bá tước của Dunbar là những người trung thành nhất và đang phục vụ cho Edward. Quân đội của nhà Bruce cũng không tham gia chiến đấu với nước Anh trong lần này vì họ không ủng hộ việc kế thừa ngôi bị của Balliol, họ giữ lời thề trung thành với Edward mà họ đã thề tại lâu đài Wark ở Tweed of Easter năm 1296. Chúng ta cũng không biết rằng liệu William Wallace có tham gia các trận đánh này không bởi vì có thể không giống như Robert Bruce, ông đã hưởng ứng lời kêu gọi và tham gia quân đội tại Caddonlee. Vua Balliol không gia nhập một cách trực tiếp với quân đội Scotland ở Caddonlee, mà John Comyn-Bá tước của Buchan thay mặt ông ta nắm quyền chỉ huy ở đó, cùng với các Bá tước của Menteith, Trathearn, Lenox, Rose, Attholl, Mar và John Comyn “ Biệt danh –đỏ” của Badenoch. Quân đội Scotland vượt qua Solway để vào nước Anh để lại hàng loạt những tàn phá đằng sau những bước tiến quân của họ. Sử gia Lanercost Priory ở thời gần đó đã viết, họ đã “đốt nhà, giết người và bắt thịt gia súc ” và hai ngày sau họ đã triển khai tấn công vào lâu đài Carlisle nhưng nỗ lực của họ đã thất bại, họ đã phải ngừng tấn công vào ngày thứ ba. Trong đầu tháng 4 người Scotland lại đột kích Northumberland và Cumberland một lần nữa, làm hư hại nặng các tu viện và nhà cửa ở Lanercost Hexham.
Các sử gia ở Lanercost ghi lại sự tàn bạo của họ và cáo buộc họ đã phạm tội thiêu sống ở Corhridge “ khoảng 200 học sinh nhỏ tuổi, những cậu bé đang độ tuổi đến trường … đang tập viết những chữ cái và ngữ pháp đầu tiên của họ, đã bị chặn cửa ra vào và châm lửa thiêu sống trong toà nhà.
Sự sụp đổ của Berwick
Các cuộc tấn công mặc dù có gây thiệt hại cũng đã trở thành vô ích và khôngg đóng góp được gì để đánh bại người Anh, họ cũng không lay chuyển từ mục đích của Edward. Trong ngày 28 tháng 3, ông vượt qua Tweed ở gần Coldstream và tiến về hướng đông về phía Berwick khi vượt qua Tweed. Năm 1296 Berwick là thị trấn thịnh vượng nhất và quan trọng nhất về nội thương và ngoại thương của đất nước Scotland. Ngày 29 tháng Ba Edward gửi thư yêu cầu thành phố để đầu hàng nhưng quân đồn trú với sự tự tin được đặt không đúng chỗ đã trả lời đề nghị của ông với những lời chế nhạo và “ tụ quần để khiêu khích ông này- nv bear their breeches”. Nhà vua Anh liền phát động một đợt tấn công tổng lực trên cả hai mặt thủy bộ. Bất chấp việc hướng tấn công bằng quân thủy phải đối mặt với một số thiệt hại, sự tàn khốc của cuộc tấn công trên bộ làm choáng váng quân phòng thủ. Kháng cự nhanh chóng sụp đổ và binh sỹ Scotland bị mất tinh thần đã bỏ chạy khỏi thị trấn. Một nhóm gồm 30 thương gia người Flemish vẫn giữ được vị trí phòng thủ Red Hall trong một khoảng thời gian trước khi tòa nhà bốc lửa và đổ sập xuống và thế là kết thúc tất cả những người ở bên trong. Một phát nỏ bắn ra bởi một trong những người Fleming giết Richard của Cornwall-người em họ ít tuổi của Edward khi ông này nhấc tấm giáp che mặt của mình lên. Ông dường như là nạn nhân người Anh duy nhất đáng lưu ý ở Berwick và nó có thể đã làm cho nhà vua nổi giận. Và giống như “ một con lợn lòi hoang nổi điên truy đuổi con chó săn”. Mặc dù đơn vị đồn trú của lâu đài đã xin được đầu hàng, chỉ có phụ nữ và trẻ em của thị trấn được phép ra đi, các thị dân và người đàn ông trong trấn phải trả giá đắt cho những lời lă.ng mạ trước đó của họ. Nhà vua tung quân của ông ra chiếm thị trấn và một cuộc tắm máu xảy ra sau đó, đây là một vết ố trên danh tiếng vị vua này cho đến ngày nay.
Trận Dunbar
Edward ở lại Berwick trong bốn tuần xây lại hệ thống phòng thủ vì ông dự định biến thành phố thành một thuộc địa của Anh và thành trung tâm hành chính của cuộc chinh phục Scotland. Edward bổ nhiệm Hugh Cressingham làm quan phụ trách ngân khố ( Treasurer ) của Scotland, với trụ sở chính của ông ta là ở tại thị trấn này, vốn đã trở nên đông đúc trở lại với các thương gia người Anh và thị dân. Vị Bá tước của Dunbar lúc này đã quy phục và ra mắt Edward ở Berwick nhưng vợ của ông-người không chia sẻ nhiệt tình của mình với người Anh, đã nắm lấy cơ hội khi vị bá tước này không ở nhà để mở cửa lâu đài của Dunbar cho người Scotland. John de Warenne-Bá tước của Surrey đã được phái đến để chiếm lại Dunbar với đội quân hùng mạnh và bắt đầu một phong tỏa lâu đài. Walter của Guisborough nói rằng lực lượng của Warenne gồm khoảng 1.000 lính kỵ binh chưa kể đến 100 quân kỵ của Giám mục của Durham và 10.000 bộ binh, mặc dù điều này có vẻ nhiều khả năng mô tả về toàn bộ sức mạnh của quân Anh chứ không phải là lực lượng quân đội biệt lập dưới sự chỉ huy của Warenne tại Dunbar-nhiều khả năng đây chỉ là đội tiên phong của quân Anh. Trong ngày 27 tháng 4 Warenne đã bị tấn công bởi đội quân chủ lực của vua John, với kỳ vọng là để bẫy đội quân của vị bá tước này vào giữa đội quân chính của Scotland và lực lượng đồn trú trong lâu đài. Khi quân Scotland xuất hiện trên các ngọn đồi ở trên Spott, và bắt đầu được nhìn thấy từ Dunbar, Warenne cử một lực lượng dưới sự chỉ huy của Hurnfrey de Bohun để khóa trặt đơn vị lính Scotland đồn trú trong lâu đài và quay lại để đối đầu với họ. Khi quân Anh được triển khai để vượt qua Spott Burn và tấn công vào người Scotland-những người vốn vẫn nghĩ rằng họ đã đang nghỉ ngơi. Cho thấy sự thiếu kinh nghiệm thiếu khả năng của họ về quân sự người Scotland rời bỏ các vùng đất cao an toàn, bị phá vỡ hàng ngũ và nhanh chóng bị đánh bại. Quân của Warenne là một đội quân có nhiều kinh nghiệm chiến đấu trong các chiến dịch ở xứ Wales, đã cắt qua một vùng rộng xuyên qua quân Scot đang rối loạn và quân đội của Buchan đã tan rã. Nhiều lính bộ binh đã bị hại gục nhưng trong số các chỉ huy và các hiệp sĩ chỉ có Quận trưởng của Stirling-Sir Patrick Graham, đã bị giết chết trong trận cận chiến trước khi quân đội Scotland đầu hàng. Trận Dunbar có một điểm đáng chú ý là một số lượng lớn các quý tộc và hiệp sĩ Scotland bị bắt làm tù binh và bộ máy quân sự không hiệu quả của người Scotland bị phá hủy hoàn toàn. Có 171 nhà quý tộc Scotland bị cầm tù bao gồm các bá tước, hiệp sĩ và hộ sỹ. Những người nổi tiếng đã bị gửi tới cầm tù tại Tháp London, phần còn lại được chia vào các lâu đài ở ở miền trung và miền Nam nước Anh. Andrew Murray-Bá tước của Moray, người sau này đã hợp tác chặt trẽ với Wallace, và sau đó cũng nhanh chóng chở nên nổi tiếng vẫn còn sau cuộc nổi loan của ông ở miền Nam Scotland, cũng bị bắt trong trận này lúc chỉ là một hộ sỹ ( Người đang trong quá trình đào tạo làm Hiệp sỹ). Ông đã bị gửi đến ngồi tù ở lâu đài Chester Castle-nhà tù vốn gần biên giới với Dunbar nhất.
Sự quy phục của người Scotland
Xương sống của sự kháng sự của người Scotland ( lực lượng của người quý tộc) đã bị hủy diệt ở Dunbar. Có rất ít người tiếp tục chiến đấu và những lâu đài còn lại vẫn nằm trong tay người Scotland đã hạ vũ khí từng chiếc một. Tại Stirling đơn vị đồn trú hùng mạnh bỏ chạy trốn mà không chiến đấu, để lại người gác cổng bàn giao chìa khóa cho người Anh. Chiến dịch đã trở thành một chuyến du hý về quân sự và Edward tiến lên một cách nhàn nhã về phía bắc, đi qua những gì là vương quốc Scotland của ông. John Balliol đã đầu hàng vào ngày 10 tháng 7 tại Brechin và như là một sự sỉ nhục cuối cùng, Edward xé toạc biểu tượng Hoàng gia Scotland trên áo khoác của ông này trước khi tống ông ta vào tù trong Tháp London. Vì vậy Balliol trở thành vật tế thần cho thất bại của cả một dân tộc, và trở thành trong ý thức của người Scotland như là “Toom Tabard-áo choàng trống rỗng “. Cũng như ông đã làm nhục Balliol, Edward bây giờ đã tìm cách để làm nhục vương quốc Scotland bằng cách tách nó ra khỏi những biểu tượng về tình trạng của nó như là một vương quốc độc lập. Ông lấy các sách sử của người Scotland và Black Rood thiêng liêng rồi mang về phía nam cùng với ông ta. The Stone of Destiny, đó là nơi các vị vua của Scotland đã được trao vương miện từ thời xưa ở Scone, đã được gửi đến Westminster Abbey nơi những chiếc ghế bằng gỗ để đăng quang cho các vị vua Anh được bầy xung quanh nó. Bruce của Annandale ( người cha của Robert Bruce-anh hùng của trận Bannockburn nổi tiếng) nghĩ rằng tỏ lòng trung thành với nhà vua Anh sẽ được tưởng thưởng bằng vương miện của Scotland ( để trở thành một vua chư hầu của nước Anh ) nhưng hy vọng của ông bị nghiền nát bởi câu nói gay gắt của Edward, ” ta không có việc gì khác để làm ngoài việc trao vương quốc vừa giành được cho ngươi?” Rõ ràng, ông không muốn có một vị vua nào khác ở Scotland ngoài chính bản thân mình-Edward I nhà Plantagenet. Ông triệu tập tất cả các chủ đất của Scotland đến Berwick rồi ép họ tuyên thệ trung thành với mình. Tài liệu ghi tên của họ đã được người Scotland gọi là “Ragman Roll-Roll người bán giẻ rách”. Tên của William Wallace đã không có trong bản danh sách này và sự kiện này đã trở thành biểu tượng cho tinh thần độc lập của ông vì ông không nợ lời thề trung thành với Edward Plantagenet, mà lòng trung thành của ông vẫn được dành cho đất nước Scotland.
Ngày 17 tháng 9 năm 1296 Edward vượt qua biên giới ( với Scotland để chở về Anh quốc ), và cho kết thúc cuộc chinh phục phía Bắc của ông với một câu nói nổi tiếng bằng tiếng Pháp ( khơ khớ vua Anh giòng Plantagenet chỉ nói tiếng Pháp ) khi nhận xét với một người bạn cũ của mình-Bá tước Surrey “ Bon hesoigne fait qy de merde delivrer” dịch theo tiếng Anh hiện đại là “ It’s a relief to he rid of’ Sh.i.t“ nhà vua cưỡi về phía nam và vị bá tước cao tuổi cũng hồi hưu và an hưởng sự tiện nghi trong các bất động sản của ông ở Yorkshire, và để lại một chính phủ cũng như các đơn vị đồn trú của nó ở Scotland trong tay quan chưởng án đầy năng lực-William Ormsby và Hugh Cressingham-quan trưởng ngân khố cực kỳ tham lam.
Chỉ huy của các bên đối địch
Chỉ huy của quân Anh
Edward Plantagenet, sinh năm 1239, vua Edward I từ năm 1272-> 1307 (mất ở tuổi 67). Mặc dù một số người vẫn đang bàn cãi về việc cho rằng Edward là một “ vị vua thực sự tuyệt vời “, không có nghi ngờ gì về việc ông ta là một vị vua ghê gớm nhất trong số các quốc vương của nước Anh thời trung cổ. Có người còn nói rằng «ông là một con sư tử về niềm tự hào và sự tàn bạo, nhưng là một con beo vì hay thay đổi và không chịu giữ lời hứa của mình nhưng luôn tự cảm thông cho mình bằng từ công bằng «. Edward là con trai cả của Henry III-người mà người ta đã nói: “ông là một người có khiếu về các tác phẩm điêu khắc và hội họa hơn là một người đàn ông thực thụ-chiến binh? ” Tuy nhiên ông ( Henry III) là một mô hình của đạo đức trong nước và đảm bảo cho con trai của ông được sống trong giáo dục đúng như của một hoàng tử ở thế kỷ thứ 13 và mặc dù Edward đã hấp thụ văn hóa cung đình, ông này lại nghiêng về phía lối sống hiệp sĩ hơn. Ở tuổi 15, ông đến Tây Ban Nha và kết hôn với Eleanor của Castile. Đó là một liên minh chính trị để đảm bảo an toàn cho xứ Gascony, mảnh vỡ cuối cùng còn sót lại của đế quốc Angevin ( đất gốc của nhà Plantagenet) rộng lớn trên lục địa châu Âu, nhưng hóa ra đó lại là một chuyến phiêu lưu về tình yêu lớn.
Edward đã dành một năm sau cuộc hôn nhân của mình ở Gascony, mặc dù vẫn còn dưới sự giám sát của nhà vua (Henry III), ông đã tập tọng tham dự vào các vấn đề hành chính trong cái công quốc đầy phiền hà; rõ ràng Henry là đã không bỏ bê vị Hoàng tử-người mà ông chuẩn bị để cho thừa kế vương quyền. Khi trở về nước Anh, Edward đã có cho mình những kinh nghiệm chiến đấu thực tế đầu tiên tại xứ Wales khi chống lại nhà Llewelyn hay nổi loạn, mặc dù ông cũng đã có rất ít thành công. Henry III đối đầu với Simon de Montfort và các vị nam tước vây cánh của ông này, tình trạng vô chính phủ đã dẫn đến chiến tranh và tại Lewes trong năm 1264, Edward lần đầu tiên được nếm mùi chiến trận. Ông đã dẫn đầu đội quân tiên phong của hoàng gia Anh quốc lao vào tấn công cánh trái của de Montfort, rồi đó phá vỡ cánh quân này, sau đó truy kích họ ra xa khỏi chiến trường. Vào thời điểm đó bộ phận hiệp sĩ vô kỷ luật của Edward quay trở lại chiến trường thì họ đã bị thua trận chiến này và cả nhà vua và con trai của ông đã trở thành tù binh. Vị hoàng tử đã trốn thoát khỏi tay những kẻ bắt tù binh mình vào tháng 5 năm 1265 và phục hồi sự nghiệp của Hoàng gia với sự hỗ trợ của các lãnh chúa ở vùng xứ Wales. Giữa và tháng 5 và tháng 8 năm 1265, trong một chiến dịch rực rỡ trong đó lên đến đỉnh điểm là thất bại và cái chết của Simon de Montfort ở Evesham, Hoàng tử Edward đã chứng minh rằng ông đã hấp thụ rất tốt những bài học của thảm họa tại Lewes. Năm 1270 ông khởi hành đi Đất Thánh với khoảng 1.000 người, quá ít để đảo ngược sự suy sụp của các thành bang Thập tự chinh ở Palestine. chiến dịch 16 tháng của ông đạt được rất ít các thành quả nhưng lại có thêm rất nhiều các kinh nghiệm quân sự và làm tăng uy tín và danh tiếng của ông ra bên ngoài. Henry III qua đời năm 1272, trong khi Edward vẫn còn ở nước ngoài; sau khi trở về Anh vào năm 1274 ông đã lên ngôi ở Westminster Abbey ở tuổi 35 tại thời đỉnh cao quyền lực của mình, và được sự ngưỡng mộ và kính trọng ở trong và ngoài nước.
John de Warenne, Bá tước của Surrey, (c.1239-1304) là một người bạn chiến đấu cùng thời của Edward Plantagenet, người mà ông cũng có liên quan về mặt huyết thống của mình từ Geoffrey của Anjou và bởi cuộc hôn nhân của ông với một người em gái cùng cha khác mẹ của Henry III. Ông là người bạn đồng hành của Hoàng tử Edward ở Gascony và từ khi còn nhỏ ông đã chia sẻ cùng một nền giáo dục và đào tạo về tinh thần hiệp sĩ. Ông đã chiến đấu trong cánh của Hoàng tử Edward tại trận Lewes trong năm 1264 và năm sau lại một lần nữa cùng với Edward khi đánh bại và giết chết Simon de Montfort ở trận Evesham. Ông là một trong các chỉ huy trưởng của Edward trong suốt chiến dịch gian khổ ở xứ Wales năm 1277-1295 và đã được cấp vùng đất làm cho ông ta chở thành một trong những lãnh chúa hùng mạnh. Năm 1296 Bá tước Surrey đã đánh bại người Scotland tại trận Dunbar chỉ với duy nhất đội quân tiên phong của Quân đội Anh. Một số người nói rằng chiến thắng của ông như là một kết quả của sự yếu kém của người Scotland hơn là hiển thị bất kỳ khả năng chiến thuật tuyệt vời nào của chính ông. Thực sự thì điều này chưa hẳn đã hoàn toàn đúng. Ông đã bị đánh bại hoàn toàn khi phải đối mặt với Wallace tại trận Stirling Bridge, nhưng ông vẫn giữ lại đủ sự tự tin cho nhà vua để tiếp tục trận Falkirk vào năm sau. Vị bá tước có bốn vị hiệp sỹ cầm cờ cùng với ông tại trận Stirling Bridge ở bên ngoài Cressingham, họ tất cả bọn họ đều là quân nhân chuyên nghiệp có kinh nghiệm chiến đấu nhưng không thể khắc phục những sai lầm của Warenne.
Hugh Cressingham, Quan coi ngân khố của Anh ở Scotland, được đặt tên là “ tracherer – thằng mắc bệnh mắt hột” bởi người Scotland-những người mà ông chỉ là một kẻ tầm thường đối với họ. Ông cũng không được đánh giá cao bởi Walter Guisborough-nhà sử gia có lòng tự trọng cao, người đã mô tả ông là không đáng tin cậy, trơn trượt, kiêu căng, ngạo mạn và tham lam. Cressingham đã nỗ lực phục vụ nhà vua và vào năm 1297 ông đã kiểm soát có hiệu quả chính quyền Anh của Scotland tương tự như là Bá tước Surrey- trung úy của nhà vua (lieutenant-chỉ huy trưởng một đơn vị nào đó chứ không đơn thuần như chức trung úy-sỹ quan sơ cấp ngày nay), vì vậy không được ưa thích ở đất nước này ông đã nghỉ hưu ở dinh thự của mình tại Yorkshire. Cressingham đã có một khoản thu nhập lớn từ giáo xứ Rudby ở Yorkshire cùng với lộc thánh ở các nhà thờ khác và đã bị béo phì vì lối sống giàu có. Tuy nhiên không phải ông không có kinh nghiệm quân sự như các tài liệu về cuối cuộc nổi dậy xứ Wales đã viết.
Walter Huntercombe (chết năm 1320), là một quân nhân giàu kinh nghiệm phục vụ cho Edward I trong suốt các cuộc chiến ở xứ Wales và Scotland. Lần đầu tiên ông được triệu tập để phục vụ Hoàng tử Llewelyn trong năm 1277 và sau đó tên của ông xuất hiện thường xuyên trong các tài liệu như là một người lính chuyên nghiệp và thường vẫn là một chỉ huy quân sự cho đến năm 1310. Ông là một thành viên trong đoàn tùy tùng của Surrey tại Stirling Bridge với 32 hiệp sĩ và binh lính của mình. Ông đã chiến đấu ở trận Falkirk.
Marmaduke de Thweng của IyIlloii ở lâu đài Cleveland, người anh hùng trong trận Stirling Bridge, là một người lính chuyên nghiệp nổi tiếng, người đã phục vụ rất lâu ở Scotland. Ông đã chiến đấu trong trận Bannockburn trong năm 1314.
William Latimer của Corby, ( chết năm 1304), là một người lính chuyên nghiệp mà tên của ông xuất hiện thường xuyên trong các tài liệu ở các cuộc chiến tranh ở xứ Wales và Scotland. Ông đã chiến đấu ở Falkirk trong đơn vị dưới quyền chỉ huy trực tiếp của nhà vua.
Henry de Lacy, Bá tước của Lincoln, chỉ huy đội tiên phong hoặc đội quân đầu tiên. Cùng với ông là Humfrey de Bohun-Bá tước của Hereford và cũng là Huân tước của nước Anh, Roger Bigod-Bá tước của Norfolk và Bá tước Marshal của nước Anh, cùng với 18 hiệp sỹ khác.
Anthony Bek-Giám mục của Durham, chỉ huy đoàn quân thứ hai. Ông liên tục phục vụ Edward I như là một cố vấn, thư ký riêng và sứ giả. Có 28 hiệp sỹ cầm cờ dưới sự chỉ huy của ông.
Vua Edward I tự dẫn đầu đoàn quân thứ ba, một lực lượng lớn hơn ba đội quân khác của quân đội Anh với hai Bá tước và 43 Hiệp sỹ cầm cờ dưới sự chỉ huycủa ông.
John de Warenne, Bá tước của Surrey, chỉ huy đội quân thứ tư, bất chấp thất bại của ông tại Stirling Bridge. Có ba Bá tước và 15 hiệp sỹ cầm cờ dưới quyền chỉ huy của ông.
Các chỉ huy của người Scotland
JOHN BALLIOL
John Balliol của lâu đài Barnard , vua của Scotland (1292-1306), Chúa tể của Galloway, (năm 1229 ->1314). Balliol nói rằng vụ trục xuất ông ra khỏiScotland trong năm 1296 là có “ác ý, lừa dối, phản bội và phản quốc ” và rằng ông không có ý định quay trở lại triều đình Scotland trong bất kỳ thời gian gần nào. Hoặc người Scot đối xử với ông như là một vị vua vắng mặt và đã chiến đấu và chết tại các trận Stirling Bridge và Falkirk nhân danh tên của ông.
WILLIAM WALLACE
William Wallace, người giám hộ của Scotland, ( từ tháng 3 năm 1298 đến tháng 7 năm 1298. Sinh năm l272 mất năm 1305). Mặc dù William Wallace nổi tiếng như một vị anh hùng dân tộc, nhưng cuộc đời của ông vẫn còn bị bao phủ trong bí mật, các tài liệu sai lệch, sự thật về cuộc sống của ông bị méo mó bởi truyền thuyết và văn hóa dân gian. Nhiều huyền thoại xung quanh ông có nguồn gốc từ các bài sử thi của người hát rong mù Harry. Bài thơ The lift of Sir William Wallace được viết hơn một thế kỷ rưỡi sau cái chết của ông. Người hát rong Harry mù tuyên bố rằng bài thơ của ông được dựa trên một bản thảo văn xuôi đã bị thất lạc của John Blair-giáo sĩ của Wallace, tuy nhiên sử thi tạo ra trở ngại bởi sự sai lệch so với thực tế, sự khác biệt thời gian và khai thác bản chất anh hùng lý được tưởng hóa. Có thể, ít nhất phần đầu của bài thơ là gần với sự thật, rằng Harry đã dựa vào bản thảo văn xuôi đã bị thất lạc để sau đó ông đưa thêm phần truyền thuyết để làm sống động câu chuyện về người anh hùng gan dạ của ông. Có tài liệu bằng chứng cho thấy những người anh em của William Wallace- Malcolm, người cao tuổi và John-bị người hành quyết trong năm 1307, đã ủng hộ Robert Bruce ngay từ đầu. William là người có đức tin và được giáo dục bởi những người chú của mình, cả hai đều là linh mục-những người đã dạy anh một tình yêu tự do vĩnh cửu. Người ta cho rằng khi còn trẻ tuổi William cũng có thiên hướng giống như người chú của mình là muốn trở thành một vị linh mục. Bất kể con đường và nền giáo dục của ông trong những năm đầu đời, thì ông đã trở thành nhà lãnh đạo của phiến quân trong năm 1297.
Wallace hoặc `le Waleis ‘có nghĩa là một Welshman ( người đàn ông xứ Welsh ) và người ta tin rằng tổ tiên của William Wallace là Richard Wallace đã đến Scotland trong những năm 1130 trong khi phục vụ cho Walter Fitzalan-người đã được bổ nhiệm làm quản gia của gia đình của vua David I. Nhà Fitzalans sau này trở thành High Stewards của Scotland và cuối cùng là Hoàng tộc nhà Stewart. Gia đình Wallace là một trong những gia đình hiệp sĩ là thành phần phong kiến của của nhà Stewart sau đó và điều này cho phép họ có một địa vị xã hội mà họ đã sở hữu. Vùng đất mà họ đã sở hữu là ở Ayrshire và sau này là ở Renfrewshire, trung tâm của các thái ấp phong kiến lớn của nhà Stewart. Có khả năng là William Wallace đã được sinh ra tại Elderslie, gần Paisley trong Renfiewshire mặc dù có có lập luận ủng hộ một nơi sinh khác của ông là Ayrshire. Việc xác định năm sinh của ông là chưa thỏa đáng và chúng ta chỉ có thể suy đoán về chi tiết về cuộc sống của ông khi ông trở thành nổi tiếng vào tháng 5 năm 1297.
Harry-người hát rong mù cho rằng cha của Wallace đã bị giết chết cùng với John-anh trai của ông trong một trận giao tranh ở Loudoun Hill năm 1291 bởi nhà Lamby khét tiếng, những người đến từ bộ tộc Lamont Clan.
Theo truyền thuyết Ayrshire có hai binh sĩ Anh tìm cách bắt giữ Wallace tại chợ Lanark vì ông này bắt trộm cá. Theo John Strawhorn, tác giả cuốn Lịch sử củaIrvine, truyền thuyết cho rằng Wallace đi đánh cá trên sông Irvine. Ông ở cùng với người chú của mình tại Riccarton. Một nhóm binh sĩ Anh đến gần và rồi chỉ huy của toán lính tiến lên phía trước và yêu cầu tịch thu toàn bộ số cá-đây là cái giá để ông không bị bắt giữ. Ngay cả khi Wallace chịu nộp một nửa số cá của mình, người Anh vẫn từ chối vì cho rằng hối lộ quá ít ỏi và đe dọa giết Wallace nếu ông này từ chối. Wallace được cho là đã hạ gục người lính đứng gần bằng chiếc cần câu của mình rồi cướp lấy thanh kiếm của người lính này. Sự vụ đã leo thang thành một cuộc ẩu đả và hai binh sĩ Anh đã thiệt mạng. Harry mù cho rằng nơi vụ việc này xảy ra ở dọc theo sông Irvine với năm binh sĩ bị thiệt mạng. Ngay sau đó nhà chức trách đã ra lệnh bắt giữ ông. Tuy nhiên, theo một tấm bảng bên ngoài Nhà thờ Thánh Paul ở Dundee, William Wallace đã bắt đầu cuộc chiến tranh giành độc lập của mình bằng cách giết chết con trai của thống đốc người Anh ở Dundee, người luôn có thói quen ức hiếp Wallace và gia đình của ông. Câu chuyện này có lẽ có trọng lượng hơn bởi vì người ta suy đoán rằng Wallace đã học ở nơi nay là Trường cao đẳng của Dundee, Wallace đã giết chết con trai của một quý tộc Anh tên là Selby với một con dao găm. Tuy nhiên không có bất cứ bằng chứng thực tế nào chứng minh cho điều này.
Lần đầu tiên Wallace đi vào lịch sử là khi ông giết chết William de Heselrig, quận trưởng của Lanark, Tháng 5 năm 1297. Theo truyền thuyết thì đây là để trả thù việc viên quận trưởng này đã giết chết Marion Braidfute người thừa kế trẻ tuổi của nhà Lamington mà vừa mới kết hôn Wallace gần lúc đó. Ngay sau đó, ông có được một chiến thắng trong cuộc giao tranh ở Loudoun Hill (gần Darvel, Ayrshire) và Ayr, ông cũng đã chiến đấu bên cạnh Sir William Douglas của Hardy tại Scone và truy đuổi William Ormesby- viên quan trưởng án từ thành phố như Aberdeen, Perth, Glasgow, Scone và Dundee.
Những người ủng hộ cuộc nổi dậy đã bị một cú shock lớn khi các quý tộc Scotland đã đồng ý thương thuyết một cách cá nhân với người Anh tại Irvine vào tháng Bảy ( vua Anh liên tục mua tìm cách chuộc và chia rẽ các nhà quý tộc Scotland ra khỏi đội ngũ quân nổi dậy và thực chất thì sau này quân đội của Wallace là quân đội của nhân dân với rất hiếm hoi các quý tộc tham gia). Trong tháng Tám, Wallace rời khỏi rừng Selkirk với những người theo ông và tham gia vào lực lượng của Andrew Moray-người cũng đang cầm đầu một cuộc nổi dậy, tại Stirling nơi họ chuẩn bị để ứng chiến với người Anh trong một trận chiến mà họ kém hơn rất nhiều lần so với đối thủ cả về số lượng lẫn trang bị.
Khi lực lượng dưới sự chỉ huy của Wallace tăng lên, có những thông tin thu thập được bởi John de Graham cho rằng Wallace đã chuyển lực lượng của ông từ rừng Selkirk đến vùng cao nguyên của Scotland, không có bằng chứng lịch sử cho thấy rằng Wallace đã rời khỏi vùng đất thấp của Scotland để đi đến một nơi khác ngoài chuyến đến thăm nước Pháp và chuyến đi của ông để đến giàn giáo treo cổ ở London.
ANDREW MORAY
Andrew Moray, còn được gọi là Andrew de Moray, Andrew của Moray, hoặc Andrew Murray, là một nhà lãnh đạo quân sự nổi bật của lực lượng yêu nước trong cuộc chiến tranh giành độc lập Scotland. Ông đã lãnh đạo cuộc nổi dậy ở miền Bắc Scotland vào mùa hè năm 1297 để chống lại sự chiếm đóng của vua Edward I của Anh quốc, và thành công trong việc giành lại quyền kiểm soát vùng này cho vua John Balliol của Scotland. Sau đó ông sáp nhập lực lượng của mình với lực lượng của William Wallace và họ cùng chỉ huy đội quân kết hợp để chiến thắng tại trận Stirling Bridge. Moray nằm trong danh sách thương vong trong trận chiến ngày hôm đó và ông đã chết ở một ngày không rõ ràng trong những tháng cuối năm 1297.
Nguồn gốc nhà Moray của Petty
AndrewMoray được sinh ra trong gia đình Moray của Petty ở cuối nửa sau của thế kỷ 13. Người ta không được biết ngày và nơi sinh của ông liệu ông có bất kỳ anh chị em nào. Nhà Moray của Petty là một gia đình nam tước giàu có và có ảnh hưởng chính trị tại tỉnh Moray ở phía đông bắc Scotland. Nguồn gốc của nhà Moray bắt nguồn từ Freskin-một người đàn ông được cho là có nguồn gốc Flemish. Ông đã được cấp đất Laich ở tỉnh Moray trong thế kỷ 12 dưới triều đại Vua David I của Scotland, nơi mà ông đã cho xây dựng một tòa lâu đài có tên là Motte-và-Bailey tại Duffus trên bờ phía bắc của hồ Loch Spynie.
Tỉnh Moray có một lịch sử tách rời khỏi vương quốc Scotland bởi sự chống đối lâu dài xảy ra bên trong nó. Một số đạo quân của Hoàng gia đã bị đánh bại trong các cuộc chiến tranh này. Trong số các vị vua bị chặn đứng bởi người của tỉnh Moray là vua Dub, người đã thiệt mạng khi quân đội của ông đã bị đánh bại tại trận Forres trong năm 967. Tỉnh Moray trở nên là vấn đề đặc biệt nghiêm trọng đối với các vị vua nhà Malcolm Scotland. Cuộc kháng chiến chống lại sự cai trị của hoàng gia Scotland vẫn còn kéo dài đến thế kỷ thứ 12. Năm 1130 một cuộc nổi loạn do Mormaer Óengus của Moray cầm đầu-một hậu duệ của Lulach. Hậu quả của thất bại của quân đội Óengus tại Stracathro là tỉnh Moray lại được đặt dưới sự kiểm soát trực tiếp của hoàng gia, sự tự trị của nó không được phục hồi cho đến năm 1312 khi Vua Robert I cấp lãnh địa bá tước của Moray cho Thomas Randolph-cháu trai của ông. Phản ứng của vua David về cuộc kháng chiến dai dẳng này là di cư những người vùng Flanders và người Anglo-Norman trung thành với triều đình vào vùng này. Một trong những người này là Freskin ( tổ tiên của nhà Moray). Nhiều phiến quân đã buộc phải từ bỏ đất đai của họ. Do đó, những người định cư tiếp theo này có vai trò về quân sự, chính trị và hành chính tựa như người Anh cổ ở dọc theo biên giới Gaelic của Ireland và giống như người Anh Old ở Ireland, thời gian dần xóa đi sự khác biệt văn hóa và ngôn ngữ giữa họ với những người dân bản địa còn lại.
Mặc dù vua David và người kế nhiệm ông đã tìm cách áp đặt sự kiểm soát của họ vào Moray, tỉnh này vẫn tiếp tục chống lại họ. Vua Malcolm IV, cháu trai của David và người kế nhiệm, cũng phải dùng đến biện pháp trốc rễ và trục xuất dân cư địa phương. Quấn sử Holyrood viết rằng vào năm 1163: “vua Malcolm xua đuổi người của Moray”. Mãi đến năm 1229, khi William Comyn của Buchan dẫn đầu một đội quân hoàng gia vào Moray và cuối cùng phải sử dụng các biện pháp tàn nhẫn mới giữ được tỉnh này cho Vua Alexander II, ông này đã được tưởng thưởng bởi một vị vua biết ơn với lãnh địa Badenoch. Chiến dịch cuối cùng, tàn bạo nhất của vua Malcolm chống lại Hoàng tộc đối thủ là để chống lại một đứa trẻ đòi quyền sở hữu vương miện Scotland, đứa bé gái ba tuổi đã công khai bị sát hại bởi tay chân của vua Alexander. Chỉ đến lúc này thì tỉnh Moray mới chấp nhận sự cai trị của vua Malcolm mac của Scotland.
Nhà Moray trong xã hội Scotland
Tại thời gian nổ ra cuộc chiến Anh-Scotland ở cuối thế kỷ 13 (thường được gọi là cuộc chiến tranh giành độc lập của Scotland) gia đình Moray cũng đã được thành lập ở miền bắc và miền nam Scotland. Sir Andrew Moray, người đứng đầu chi nhánh Petty của gia đình này nắm giữ một vùng đất rộng lớn ở tỉnh Moray, bao gồm các lãnh địa của Petty, được điều hành từ thái ấp Hallhill ở bờ phía nam của Moray Firth, Lãnh địa Avoch ở Black Isle, được điều hành từ Avoch Castle nằm về phía đông của Inverness và nhìn ra Moray Firth, và lãnh địa của Boharm được điều hành từ lâu đài Gauldwell. Trong số bất động sản của Sir Andrew của Petty là vùng đất tại Alturile, Brachlie và Croy và tại Boharm là các vùng đất Arndilly và Botriphnie. Andrew Moray ( con trai trẻ tuổi của Sir Andrew của Petty, người lãnh đạo phong trào nổi dậy) được thừa kế những vùng đất và các tòa lâu đài ở đó.
Sự giàu có này được đi kèm với ảnh hưởng chính trị đáng kể. Sir Andrew từ năm 1289 thay thế nhà vua để duy trì pháp luật ở miền bắc Scotland (quan trưởng án) và có thể đã được đồng chọn làm giám hộ sau cái chết bất đắc kỳ tử của Vua Alexander III. Cá nhân các họ hàng của Sir Andrew là những gia đình có quyền lực nhất trong xã hội Scotland. Trong năm 1280 ông cưới người vợ thứ hai của mình, Euphemia Comyn-mẹ kế của Andrew-em gái của John Comyn, lãnh chúa của Badenoch, cháu trai của Vua John Balliol và là một trong những người có ảnh hưởng chính trị nhất tại Scotland. Nhà Morays của Petty cũng có họ hàng với Douglases của Clydesdale, tại thời điểm đó gia đình này chỉ là một chủ đất tương đối nhỏ.
Ảnh hưởng của gia đình Moray không chỉ giới hạn ở phía đông bắc Scotland. Sir William Moray của Bothwell-anh trai của Sir Andrew, nắm giữ một vùng đất rộng lớn ở Lanarkshire và tại Lilleford ở Lincolnshire. Sir William, người được biết đến như là le riche do tài sản cá nhân giàu có của mình, đã cho xây dựng Lâu đài Bothwell nhìn ra Sông Clyde. Thiết kế của nó đã bị ảnh hưởng bởi xu hướng mới nhất có ở lục địa châu Âu rõ ràng như là một tuyên bố về quyền lực và ảnh hưởng của ông này. Vị Moray trẻ được thừa kế tài sản của người chú.
Nhà Moray của Petty cũng sở hữu các tài sản lớn tại các nhà thờ Scotland thời Trung cổ. Một tổ tiên của Andrew Moray, cũng được đặt tên Andrew, đã trở thành giám mục của Moray ở đầu thế kỷ thứ 13 và chịu trách nhiệm cho việc chuyển địa điểm của Toà Giám mục đến Elgin năm 1224 và thành lập một nhà thờ của thành phố. Nhà Moray tiếp tục có các liên kết với nhà thờ. David-một em trai của Sir Andrew, lúc đó là trụ trì của nhà thờ Bothwell ở trung tâm Scotland. Ông này sau đó được thánh hiến vào mùa hè 1299 và được phong làm Giám mục Giáo hoàng Boniface VIII và trở thành một trong những người ủng hộ tin cậy cho vương quyền của vua Robert Bruce.
Tham gia vào cuộc xâm lược vào nước Anh và bị đánh bại
Vào mùa xuân 1296, Andrew Moray cùng với cha và chú của mình, tham gia vào lực lượng quân đội phong kiến của các chủ đất Scotland, vốn được tập hợp để chuẩn bị cho cuộc xung đột sắp xảy ra. Một lực lượng nhỏ được dẫn đầu bởi các vị Bá tước của các vùng Atholl, Ross và Mar và John Comyn… tiến vào Cumberland ( tiên hạ thủ vi cường) và hành quân đến Carlisle, để lại một dấu tích tàn phá khủng khiếp trong trí nhớ của người Anh. Quấn sử St Edmundsbury Chronicle nói rằng cuộc hành binh này đã tiêu hủy 120 ngôi làng và thị trấn. Khi đến được lâu đài Carlisle họ thấy nó được tổ chức chống lại họ bởi chính đồng bào của họ-Robert Bruce, chúa tể của Annandale, con trai của Bruce-người cũng đòi thừa kế ngai vàng của Scotland vừa mới qua đời gần đó. Robert Bruce đã giữ vững được lâu đài Carlisle. Một toán quân Scotland khác cũng đã vượt qua biên giới từ Jedburgh và ồ vào Northumberland, để lại các ngôi nhà và trang trại bị đốt cháy trên đường họ đi qua.
Trận Dunbar ( như đã đề cập ở phần trước) quân đội Scotland đã nhanh chóng bị tràn ngập bởi quân đội của vua Edward dưới sự chỉ huy của John de Warenne-Bá trước của Surrey. Tác giả của quấn Chronicle of Bury St Edmunds nói rằng có đến tám nghìn binh sĩ Scotland bị tử trận tại Dunbar ( gần gấp 4 lần số quân mà William Wallace và Andrew Moray có trong trận Stirling Bridge). Andrew Moray cùng với cha của ông đều bị bắt làm tù binh trong trận này.
Phát động khởi nghĩa ở miền Bắc Scotland
( phần này được viết khá kỹ để thể hiện phong trào kháng chiến của người Scotland trước trận Stirling Bridge)
Trong khi Scotland bị chiếm đóng bởi người Anh, Andrew Moray đã phải chịu đựng sự sỉ nhục trong tù. Nhưng vào một ngày nào đó trong mùa đông năm 1296-97, ông đã trốn thoát khỏi nhà tù. Cuối cùng ông đã trốn trở về tới vùng đất của cha mình, mặc dù người ta không biết rõ ông đã trốn thoát như thế nào. Mặc dù cũng chẳng ai biết rõ thất bại tại trận Dunbar và những nỗi cơ cực khi phải ngồi tù ảnh hưởng đến ông như thế nào, người ta chỉ chắc chắn có một điều rằng ông đã chở về Scotland.
Quấn sử the Hemingsburgh Chronicle có viết “Trong tháng 5 cùng năm [1297] người Scotland bắt đầu nổi loạn. ” Các hành động đầu tiên của cuộc nổi loạn này đã được đánh dấu bằng hai sự kiện: Andrew Moray tuyên bố thách thức của ông với sự cai trị của Anh tại Avoch và William Wallace đánh dấu cuộc nổi dậy của ông chống lại vương quyền của người Anh với vụ giết viên quận trưởng Anh của Lanark. Tin tức về các hành động của Moray đã nhanh chóng thu hút những người ủng hộ ông ta. Alexander Pilchie, một thị dân đến từ Inverness và một số thị dân khác đến từ nhiều thị trấn là những người ủng hộ ông sớm nhất. Mặc dù Sir Andrew Moray của Petty vẫn bị giam giữ trong Tháp London-nơi mà dường như ông đã chết trong khi vẫn là tù nhân của vua Edward-nhiều người thuê đất của ông sẵn sàng tham gia với con trai của ông. Sir William Fitz Warin-huân tước người Anh ở Lâu đài Urquhart trên bờ hồ Loch Ness đã viết cho vua Edward trong tháng bảy năm 1297 rằng: “Một số người đã tham gia cùng với Andrew Moray tại lâu đài [Avoch] trong vùng Ross.”
Tấn công vào lâu đài Urquhart
Mặc dù vương quốc Scotland đã dễ dàng bị chinh phục bởi Vua Edward, nó lại không chịu ngủ yên dưới sự cai trị của ông ta. Những tháng đầu năm 1297 đã cho thấy sự bùng phát bạo lực chống lại những kẻ chiếm đóng người Anh và các đồng minh người Scotland của họ, một số trong đó đã trở nên cực kỳ nghiêm trọng, các quan chức địa phương tìm kiếm sự hỗ trợ của nhà vua. Người Anh ở Argyll và Ross đã bị đuổi đi bằng bạo lực. Trên bờ biển phía tây, các thành phố Lachlan và Ruarie MacRuarie của vùng Garmoran chìm ngập trong những cuộc nổi loạn, các quan chức của hoàng gia bị giết hại và tài sản của hoàng gia bị phá hoại. Bạo lực này đã không bị giới hạn ở phía bắc của Scotland. Cuộc nổi dậy bùng phát to ở vùng Galloway ở phía tây nam Scotland và các phiến quân chiếm giữ các lâu đài vốn nằm trong tay người của vua Edward. Cũng có các cuộc xung đột ở Fife, nơi mà MacDuff của Fife v