25/05/2018, 09:00

Phát triển thương mại điện tử ở Việt Nam – những điều cần phải chú ý

Riêng về tính pháp lý Luật pháp Quốc Tế thừa nhận tính pháp lý đối với các tín hiệu điện tử . Thừa nhận tính pháp lý của các giao dịch thương mại điện tử Thừa nhận tính pháp lý của chữ ký điện tử và chữ ký số hoá, và có ...

Riêng về tính pháp lý Luật pháp Quốc Tế thừa nhận tính pháp lý đối với các tín hiệu điện tử .

  • Thừa nhận tính pháp lý của các giao dịch thương mại điện tử
  • Thừa nhận tính pháp lý của chữ ký điện tử và chữ ký số hoá, và có các thiết chế pháp lý, các cơ quan xác định cho việc xác thực, chứng nhận chữ ký điện tử và chữ ký số hoá.
  • Bảo vệ pháp lý các hợp đồng thương mại điện tử
  • Bảo vệ pháp lý các thanh toán điện tử
  • Quy định pháp lý đối với các dữ liệu có xuất xứ từ nhà nước, chính quyền địa phương, doanh nghiệp nhà nước trong đó có các vấn đề giải quyết như: Nhà nước có phải là chủ nhân của các thông tin có quyền được công khai hoá và thông tin phải giữ bí mật hay không? Người dân có quyền công khai hoá các dữ liệu của chính quyền hay không? khi công khai hoá thì việc phổ biến các số liệu đó có được xem là một nguồn thu cho ngân sách hay không?…
  • Bảo vệ pháp lý đối với sở hữu trí tuệ liên quan đến mọi hình thức giao dịch điện tử. Bảo vệ bí mật riêng tư một cách thích đáng.
  • Bảo vệ pháp lý đối với mạng thông tin, chống tội phạm xâm nhập với mục đích bất hợp pháp như thu thập tin tức mật, thay đổi thông tin trên các trang web, thâm nhập vào các dữ liệu, truyền vius phá hoại …

Sự ra đời và phát triển của TMĐT là xu thế tất yếu, khách quan của quá trình số hoá, là kết quả của sự nỗ lực của từng nước và toàn thế giới trong việc tạo môi trường pháp lý và đường lối chính sách cho nền kinh tế số hoá.

Trong tổng doanh số của TMĐT, buôn bán giữa các doanh nghiệp chiếm khoảng 50%, dịch vụ tài chính và các dịch vụ khác 45%, dịch vụ bán lẻ 5%. Như vậy, tuy mới bắt đầu phát triển mạnh mẽ trong khoảng chưa đầy 10 năm qua nhưng TMĐT đã chứng tỏ là một lĩnh vực ẩn chứa khả năng phát triển tiềm tàng.

Thực tế TMĐT đã đem đến những lợi ích thiết thực, giúp người tham gia TMĐT thu được thông tin phong phú về thị trường và đối tác, giảm chi phí tiếp thị và giao dịch, rút ngắn chu trình sản xuất, tạo dựng và củng cố quan hệ bạn hàng, tạo điều kiện dành thêm nguồn nhân lực để mở rộng quy mô và công nghệ sản xuất.

Xét trên bình diện quốc gia, trước mắt TMĐT sẽ kích thích sự phát triển của lĩnh vực CNTT, đồng thời TMĐT sẽ tạo điều kiện cho việc sớm tiếp cận với nền kinh tế số hoá (digital economy). Điều này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với các nước đang phát triển. Sớm chuyển sang nền kinh tế số hoá sẽ giúp các nước đang phát triển tạo ra bước nhảy vọt, tiến kịp các nước đi trước trong một thời gian ngắn hơn.

Nếu xem xét tình hình thanh toán điện tử ở Việt Nam theo các cấp bậc đã phân chia trước thì thanh toán điện tử ở Việt Nam mới chỉ ở mức độ sơ đẳng nhất, có nghĩa là thanh toán điện tử này không khác mấy so với giao dịch qua điện thoại - phone banking - và giao dịch với một máy rút tiền tự động ATM. Vì vậy, để đánh giá tình hình và triển vọng thanh toán điện tử của các ngân hàng ở Việt Nam thì chỉ có thể xem xét dựa trên các hoạt động thanh toán bằng thẻ thanh toán điện tử hay thanh toán bằng hình thức chuyển tiền điện tử.

  • Thẻ thanh toán điện tử

Mặc dù phương thức thanh toán bằng thẻ đã trở nên phổ biến trên hầu hết các nước trên thế giới nhưng ở Việt Nam hình thức này dường như vẫn hoàn toàn mới mẻ và rất ít người biết đến. Năm 1990, hợp đồng làm đại lý chi trả thẻ Visa giữa ngân hàng Pháp BFCE và Vietcombank đã mở đầu cho phương thức thanh toán mới này ở Việt Nam. Tiếp theo Vietcombank, ngân hàng Công thương Sài Gòn cũng liên kết với trung tâm thẻ Visa để làm đại lý thanh toán thẻ Visa cho các công ty nước ngoài.

Còn Citibank là một ngân hàng Mỹ đầu tiên có mặt ở Việt Nam thông qua chi nhánh của mình ở Hà Nội và thành Phố Hồ Chí Minh đã thực hiện thanh toán thẻ điện tử ở Việt Nam. Citi Bank là ngân hàng điện tử có thể thanh toán cho hầu hết các loại thẻ thông dụng trên thị trường thế giới như Mastercard, Visa, Amex… Với một mạng lưới ATM có mặt ở nhiều nơi khách hàng sử dụng thẻ có mặt tại Việt Nam sẽ rất thuận lợi trong việc thanh toán bằng thẻ điện tử.

Bên cạnh đó, một loạt các chi nhánh ngân hàng thương mại như Eximbank, Indovina, ANZ, ngân hàng á châu cũng lần lượt xâm nhập vào thị trường thanh toán thẻ Việt Nam, một loạt các điểm thanh toán thẻ đặt ở khách sạn, nhà hàng, sân bax… và vô số các nơi công cộng như siêu thị, các điểm vui chơi giải trí, các khu du lịch đã tạo được điều kiện thuận lợi nhất cho khách hàng.

  • Chuyển tiền điện tử

Hiện nay, hình thức chuyển tiền điện tử tại Việt Nam đã được áp dụng ngày một rộng rãi ở các hệ thống ngân hàng thương mại cũng như ngân hàng Nhà nước. Phương thức chuyển tiền ở các ngân hàng tại Việt Nam hiện nay gồm có:

- Chuyển tiền liên ngân hàng. Một trong những yếu tố quan trọng để4khách hàng tín nhiệm và thực hiện các dịch vụ chuyển tiền qua Vietcombank (kể cả các khách hàng mở4tài khoản giao dịch ở ngân hàng khác) đó là độ an toàn, tính chính xác, mức phí hấp dẫn trong nghiệp vụ chuyển tiền qua mạng SWIFT của Vietcombank.

Điển hình là ở Vietcombank, điểm nổi bật trong công tác chuyển tiền trong thời gian qua nhiều doanh nghiệp qua mua bán giao dịch đã tạo được sự tín nhiệm với đối tác nước ngoài nên phương thức chuyển tiền được thay cho phương thức thanh toán L/C trong các hợp đồng mua bán với nước ngoài. Vì vậy, cùng với đà phát triển của toàn ngân hàng Ngoại thương, khâu chuyển tiền cũng đóng vai trò quan trọng. Cụ thể trong năm 1998 Vietcom bank đã thực thực hiện 76,258 điện chuyển khoản đi .ước ngoài, trong đó có 43905 bức điện chuyển tiền cho các tổ chức cá nhân, 13115 bức chuyển tiền cho các tổ chức tín dụng (Nguồn: Báo cáo cuối năm của Ngân hàng Ngoại thương)

Như vậy, chuyển tiền điện tử đã ngày một phát triển ở các ngân hàng. Tuy nhiên, hình thức chuyển tiền điện tử mới chỉ được áp dụng thanh toán trong từng hệ thống ngân hàng. Do đó việc thanh toán giữa các hệ thống ngân hàng khác nhau và khác địa bàn cũng chưa thực sự nhanh chóng.

- Chuyển tiền nhanh- moneygram: Dịch vụ này chủ yếu phục vụ chuyển tiền kiều hối. Chuyển tiền qua dịch vụ này nhanh, thuận tiện, thu hút được khách hàng. Năm qua, ngân hàng Ngoại Thương đã thực hiện được 12989 món với số tiền 8228 triệu USD (Nguồn: Phòng thanh toán thuộc ngân hàng Ngoại Thương).

Tóm lại, trong thực tế giao dịch ngân hàng mới chỉ được tiến hành tại các chi nhánh, qua thư tín, điện thoại hoặc hệ thống máy giao dịch tự động. Tuy nhiên, một vài năm qua, nhiều ngân hàng Việt Nam đã đổi mới, bắt đầu sử dụng Internet như một kênh cung cấp các sản phẩm truyền thống cho người tiêu dùng cũng như bắt đầu nghiên cứu các sản phẩm phục vụ riêng cho thương mại điện tử.

  • Khả năng tiếp cận và phát triển thanh toán điện tử tại các ngân hàng ở Việt Nam

Để thanh toán điện tử có khả năng đi vào cuộc sống và phát triển, chúng ta phải tạo vị thế cho thanh toán điện tử cũng như thương mại điện tử và triển khai các cơ sở cần thiết cho việc phát triển hệ thống thanh toán trong nền kinh tế số. Vì vậy, ta cần xem xét các cơ sở hạ tầng cho thanh toán điện tử như cơ sở công nghệ, cơ sở kinh tế, cơ sở chính trị- xã hội với những thuận lợi cũng như khó khăn để từ đó đánh giá khả năng tiếp cận và phát triển hình thức thanh toán này ở các ngân hàng Việt Nam trong xu thế điện tử hoá thương mại điện tử toàn cầu.

0