06/05/2018, 09:38

Phân tích truyện ngắn Thuốc của Lỗ Tấn – Văn mẫu hay lớp 12

Xem nhanh nội dung Phân tích truyện ngắn Thuốc của Lỗ Tấn – Bài làm 1 của một học sinh giỏi Văn tỉnh Tây Ninh Lỗ Tấn (1881 – 1936), nhà văn lớn của Trung Quốc, được mệnh danh là "Chủ tướng của cách mạng văn hoá Trung Quốc". Một trong những vấn đề lớn mà Lỗ Tấn quan tâm là ...

Xem nhanh nội dung

Phân tích truyện ngắn Thuốc của Lỗ Tấn – Bài làm 1 của một học sinh giỏi Văn tỉnh Tây Ninh

Lỗ Tấn (1881 – 1936), nhà văn lớn của Trung Quốc, được mệnh danh là "Chủ tướng của cách mạng văn hoá Trung Quốc". Một trong những vấn đề lớn mà Lỗ Tấn quan tâm là dùng ngòi bút để đánh thức tinh thần dân tộc, ý chí tự cường, chống lễ giáo phong kiến lạc hậu và chống đế quốc. Trong tình trạng xã hội Trung Quốc lúc bấy giờ, Lỗ Tấn nhận thấy một căn bệnh tinh thần phổ biến trong nhân dân. Đó là sự trì trệ, mông muội, u mê về dân trí, hậu quả của hàng nghìn năm phong kiến đè nặng lên đời sống dân tộc. Để chữa được căn bệnh tinh thần ấy, trước hết phải tìm đúng bệnh, phê phán và chỉ ra con đường khắc phục. Chí có làm việc này, đất nước Trung Quốc mới có thể hướng tới một tương lai tươi sáng và tốt đẹp hơn.

Thuốc được viết năm 1919, kể về việc chữa bệnh lao bằng cách ăn bánh bao thấm máu người chết chém và cuối cùng bệnh vẫn không khỏi. Nhưng nội dung tác phẩm không đơn giản chỉ như vậy mà còn đăt ra một vấn đề lớn và khái quát hơn : sự tê liệt, u mê, mông muội của quần chúng và bi kịch không được hiểu, không được ủng hộ của người cách mạng tiên phong. Từ đó, nổi lên một câu hỏi đầy nhức nhối, đớn đau : Phải tìm phương thuốc nào để chữa chạy căn bệnh u mê, đớn hèn của dân tộc?

Cốt truyện Thuốc rất đơn giản. Chỉ vài nét chấm phá với vài ba cảnh, vài ba nhân vật, nhưng có sức gợi điển hình vẻ một đất nước Trung Hoa u ám, nặng nề, nghèo khổ, lạc hậu, cấp thiết phải tự giải phóng.

1. Phương thuốc của sự u mê.

Mở đầu truyện là cảnh đêm thu gần về sáng, trăng lặn rồi nhưng mặt trời chưa mọc. Trong lúc mọi người còn ngủ say cả, hai vợ chồng ông chủ quán trà đã thức dậy, cẩn trọng dồn những đồng tiền chắt chiu, dành dụm từ bao giờ, một bọc tiền đồng, mang đi mua thuốc cho đứa con trai duy nhất đang kiệt quệ, mỏi mòn vì bệnh lao. Thứ thuốc này thật kì quặc, khó tin, nhưng với vợ chồng lão Hoa, lại là phương thuốc đặc biệt, đầy linh diệu, có thể chữa khỏi bệnh lao. Đi lấy thuốc là việc vô cùng hệ trọng, cơ hội hiếm có. Điều đó làm cho cả hai vợ chồng càng xúc động mạnh : bà Hoa giương to mắt, môi run run, còn lão Hoa thì tay cứ run run khi cầm và cất gói tiền vợ đưa.

Niềm tin vào tính chất kì diệu của phương thuốc đã trở thành nguồn ánh sáng soi chiếu từ bên trong dẫn đường cho lão Hoa đi trong đêm tối, giúp lão tãng thêm sinh lực sống : trời lạnh hơn, nhưng lão cảm thấy sảng khoái, như bỗng dưng mình trẻ lại và ai ban cho phép thần thông cải tử hoàn sinh. Tuy nhiên trong đáy tâm thức, lão Hoa vẫn mơ hồ nhận thấy việc đi lấy thuốc có gì ma quái, ghê rợn : lão thấy hơi lành lạnh. Không phải ngẫu nhiên mà đương đi, chiếc đèn lồng của lão tự nhiên tắt và xung quanh là lũ lượt những người trông như kẻ chết đói, như những bóng ma, kì dị, quái lạ. Một cảnh tượng ghê rợn bao trùm. Lão như rơi vào chốn địa ngục vậy. Trong cái đêm mùa thu mờ sáng lạnh lẽo ấy, đâu chỉ có mình lão Hoa lặn lội, lọ mọ đi đến ngã ba đường (nơi pháp trường chém người) nọ, mà có biết bao người cùng đổ xô đến đây. Ngoài những kẻ hiếu kì, liệu còn có bao nhiêu con người cùng mang một niềm tin, trong sự tuyệt vọng khốn khổ vào phương thuốc tuyệt vời này ? Có lẽ rất đông, bởi lão Hoa chỉ thấy lưng người, cả đám xô đẩy nhau ào ào, bao nhiêu người đi qua, xô nhào tới như nước thuỷ triều. Đủ thấy một niềm tin mông muội, u mê bao trùm lên đời sống bao người.

Phương thuốc ấy là gì ? Đó là chiếc bánh bao tẩm máu người : một chiếc bánh bao nhuốm máu đỏ tươi, máu còn nhỏ từng giọt. Nghe nói, ăn thứ bánh bao này, bệnh tật gì cũng tiêu tan. Tuy vậy, phương thuốc ấy vẫn đầy quái lạ, nên lão Hoa vẫn rờn rợn, sợ hãi : lão vội vàng móc gói bạc trong túi ra, run run định đưa cho người mặc áo quần đen, nhưng lại ngại không dám cầm chiếc bánh. Nhưng khi về, cầm chắc gói "thuốc" trong tay, tâm trạng lão Hoa trở nên phấn khởi, tin tưởng. Đây thật là niềm cứu tinh cho cuộc đời lão : Lão để hết tinh thần vào gói bánh… lão sẽ mang cái gói này về nhà, đem sinh mệnh lại cho con lão và lão sẽ sung sướng biết bao ! Niềm tin đã biến thành niêm vui và hi vọng. Mặt trời đã mọc, chiếu sáng khắp nơi, như hoà cùng hi vọng vể một tương lai tốt đẹp đang cháy sáng trong lòng người cha khốn khổ!

Cảnh chế biến và ăn thuốc diễn ra trang trọng giống như một nghi thức hành lễ nhưng vẫn phảng phất không khí ghê rợn. Thái độ nghiêm trang, thành kính của hai ông bà Hoa, khi hai ông bà cùng im lặng run run, bí mật chế biến thuốc, bộc lộ sự tin tưởng thành kính, sâu sắc vào "thần dược", nhưng vẫn không át được cái ghê rợn của phương thuốc ma quái qua những hình ảnh cái chao đèn rách nát loang lổ máu, chiếc bánh đẫm máu, ngọn lửa đỏ sẫm bốc lên, một mùi thơm quái lạ tràn ngập cả quán trà. Nhìn đứa con ăn thuốc, hai ông bà tràn ngập niềm hi vọng : lão Hoa đứng một bên, bà Hoa đứng một bên, trố mắt nhìn con như muốn rót vào người con một cái gì, đồng thời cũng muốn lấy ra một cái gì. Người mẹ cứ lặp đi lặp lại câu nói : sẽ khỏi ngay vừa như khẳng định một hi vọng, vừa như trấn an cả con lẫn bản thân mình. Niềm tin ấy còn được củng cố thêm bằng những lời lẽ dồn dập, khẳng định chắc chắn như đinh đóng cột của bác Cả Khang, người đã mách phương thuốc đặc biệt này : May phúc cho nhà ông đấy nhé! ; Cam đoan thế nào cũng khỏi ; Cam đoan thế nào mày cũng khỏi ; Nhất định khói thôi mà ! Cam đoan khỏi mà!,…

Niềm tin ấy diễn tả sự u mê, lạc hậu đến mức cùng cực của nhân dân Trung Quốc thời bấy giờ.

2. Hình tượng người cách mạng Hạ Du.

Bánh bao được thấm máu người tử tù. Người tử tù đó là một người cách mạng tên là Hạ Du. Hạ Du có một vị trí đặc biệt trong câu chuyện. Đứng về mặt cấu trúc cốt truyện, Hạ Du chỉ xuất hiện trong con mắt của các nhân vật khác, tuy nhiện, nhân vật này là yếu tố liên kết, xâu chuỗi, lắp ghép các tuyến nhân vật và sự kiện với nhau. Ở cảnh 1, chúng ta chưa hề biết Hạ Du là ai, mới chỉ có sự kiện : có người chết chém và có người xin bánh bao tẩm máu để chữa bệnh, ở cảnh 3, tác giả hé mở chút ít về thân thế Hạ Du : con nhà bà Tứ chứ con nhà ai, không ngờ hắn lại nghèo gặm không ra đến như thế; nằm trong nhà tù rồi mà còn dám rủ lão đề lao làm giặc. Hạ Du là trung tâm bàn luận, bày tỏ thái độ nhận thức của mọi người về chính trị, về cách mạng. Cảnh 4, nấm mồ Hạ Du là nơi hai bà mẹ gặp gỡ, cảm thông, an ủi lẫn nhau.

Hạ Du là một trong những nhà cách mạng tiên phong của cách mạng Trung Quốc đầu thế kỉ XX. Anh có lí tưởng rõ ràng : lật đổ ngai vàng, đánh đuổi ngoại tộc, giành độc lập cho dân tộc. Câu nói "Thiên hạ nhà Mãn Thanh chính là của chúng ta" (có nghĩa là nước Trung Quốc là của người Trung Quốc) được các nhà cách mạng dân chủ tư sản năm 1907 nêu ra và hô hào đồng bào nổi dậy chống triều đình Mãn Thanh. Hạ Du hiên ngang trước cái chết, dũng cảm tuyện truyền li tưởng cách mạng với cả tên cai ngục trong những ngày ở tù chờ án chém. Nhưng tất cả ý chí, mục đích, và hành động của anh lại được nhận thức một cách méo mó, đầy sai lạc trong con mắt của quần chúng nhân dân, điển hình là ông Ba (chú anh ta), bác Cả Khang và những người đang tụ tập ở quán trà lão Hoa. Dưới con mắt họ, Hạ Du chỉ là thằng khốn nạn, nhài con không muốn sống, quân làm giặc, kẻ điên khùng, đáng tội chết. Đối với họ hàng thì may mà tố giác được, nếu không thì cà nhà mất đầu hết. Đối với người bị bệnh thì may phúc quá vì lấy được thứ thuốc đặc biệt nhân dịp xứ chém anh ta ! Còn những kẻ khác nghe chuyện Hạ Du thì thú quá, ái chà chà, như nghe chuyện giặc cỏ bị trừng phạt vậy. Thật xót xa và đau đớn cho hình ảnh người cách mạng trong con,mắt của những quần chúng dốt nát và u mê.

Có thể nhận thấy, Hạ Du trong câu chuyện chính là hình ảnh nhà cách mạng nữ Thu Cận (người cùng quê với Lỗ Tấn, từng du học ở Nhật, sau mở tờ Trung Quốc nữ báo tuyên truyền giải phóng phụ nữ), một trong những nhà cách mạng Trung Quốc đặt nền móng cho cuộc cách mạng Tân Hợi, đã phải lên đoạn đầu đài lúc ba mươi sáu tuổi. Hạ Du là một cái tên khác của Thu Cận. Hạ đối với Thu, Du đối với Cận, đều là tên của hai loại ngọc sáng. Những người cách mạng ở đây là những người đang tiến hành cuộc cách mạng tư sản, mong muốn lật đổ chế độ phong kiến để đưa dân tộc Trung Hoa tới một tương lai tốt đẹp hơn.

Nhưng họ chỉ làm "cách mang bên trên", nghĩa là chỉ có một số người làm cách mạng, chưa chuẩn bị sự tuyên truyền rộng rãi trong quần chúng. Vì vậy, điều họ làm chẳng được ai hiểu : nhân dân không hiểu, mẹ cha cũng không, họ hàng càng không. Điều ấy càng cho thấy không chỉ sự mê muội của dân trí mà còn cả sai lầm của những người làm cách mạng tư sản Trung Quốc. Thật là một bi kịch lớn !

3. Vòng hoa trên mộ – một hi vọng về tiền đồ cách mạng Trung Quốc.

Một buổi sáng mùa xuân ở nghĩa địa ven thành phố. Nghĩa địa những người chết chém hoặc chết tù ở về phía tay trái, và nghĩa địa của những người chết nghèo ở về phía tay phải. Cả hai nơi, mộ dày khít, lớp này, lớp khác,… Hình ảnh này mang nhiều ý nghĩa. Thứ nhất, nghĩa địa người chết chém, chết tù để chung, nghĩa là người ta không hề phân biệt đâu là người làm cách mạng, làm chính trị hi sinh vì nhân dân và đâu là kẻ trộm cướp, giết người, tù hình sự, nghĩa là tất cả đều… làm giặc. Thứ hai, mộ của những người bị chính quyền bắt tù tội, giết chóc cũng nhiều như mộ của dân thường ! Một con số cân bằng diễn tả một thực trạng xã hội đen tối, tàn bạo, một bối cánh điển hình thê thảm như địa ngục của một nước Trung Hoa trung cổ.

Hai bà mẹ với hai ngôi mộ, cách nhau một con đường mòn. Hình ảnh con đường mòn thường được nhắc đến trong văn Lỗ Tấn diễn tả một thói quen, một nếp nghĩ, một kiểu ứng xử. Vì thế, con đường mòn tại nghĩa địa này đâu chỉ đơn thuần là ranh giới tự nhiên mà còn là ranh giới vô hình của lòng người, của định kiến lâu đời trong xã hội. Hai bà mẹ này, dù cùng chung nỗi đau mất con, nhưng giữa họ dường như bị ngăn cách bởi một không gian vô hình khó vượt qua.

Trong một khoảnh khắc xúc động, giàu cảm thông bởi cùng nhịp đập với trái tim bà mẹ khốn khổ kia, bà Hoa đã bước qua con đường mòn để bày tỏ niềm đồng cảm, chia sẻ với nỗi đau với mẹ Hạ Du. Phá bỏ khoảng cách vô hình ấy đâu có dễ dàng vì bà Hoa phải vượt qua một định kiến cố hữu, ghê sợ và khinh bỉ những kẻ tử tội : chỉ có những kẻ xấu xa, làm giặc mới bị tù, bị chết chém, loại người ấy đáng bị người đời nguyền rủa, xa lánh.

Người sống – mẹ tử tội đã được cảm thông. Còn kẻ nằm dưới đất, người cách mạng – Hạ Du, cũng được ai đó thấu hiểu, tiếc thương, trân trọng đặt một vòng hoa tưởng niệm. Vừa ngạc nhiên đến mức bàng hoàng, sửng sốt, vừa như ẩn giấu một niêm vui vì có người thấu hiểu con mình, bà mẹ Hạ Du cứ lặp đi lặp lại câu hỏi : Thế này là thế nào? Lời khóc sau đó của bà : Mẹ biết rồi ! Du ơi ! Trời còn có mắt… góp phần hé mở nguyên nhân của sự xuất hiện vòng hoa trên mộ Hạ Du. Tiếng khóc như bộc lộ dấu hiệu của sự thức tỉnh, giác ngộ. Trước đây, bà không hiểu con, và có thể, trong thâm tâm, bà vẫn cho rằng con mình làm giặc, nên lúc nãy, khi gộp bà Hoa ở nghĩa địa, bà vẫn còn ngập ngừng, xấu hổ ; còn từ giờ phút này, bà đã hiểu con mình, hiểu đường đi của con mình là đúng đắn, được người khác đồng tình.

Theo lời của chính Lỗ Tấn : "Trong truyện Thuốc, bỗng dưng tôi thêm một vòng hoa trên nấm mộ anh Du". Sự xuất hiện của vòng hoa ấy là câu trả lời về tương lai sự nghiệp cách mạng mà Hạ Du theo đuổi, là biểu hiện của lòng khâm phục nhân cách kiên cường của Hạ Du và là lời khẳng định một tiền đồ lạc quan tất yếu của cách mạng Trung Quốc. Đây cũng là một ý tưởng mang tính cách mạng của Lỗ Tấn.

4. Thuốc là một tiêu đề nhiều nghĩa.

Trước hết, đó là một phương thuốc chữa bệnh lao của những người dân Trung Quốc lạc hậu, tối tăm. Con người thời kì này không chỉ u mê trong nhận thức khoa học mà còn u mê trong cả nhận thức chính trị, xã hội. Thật là một cãn bệnh tinh thần trầm trọng cần phải chữa chạy, cần phải có một phương thuốc đặc biệt nếu dân tộc Trung Hoa muốn tự giải phóng khỏi hàng nghìn năm phong kiến. Thuốc còn có ý nghĩa thứ hai vì lẽ đó.

Thế giới của Thuốc tồn tại trong ba không gian đời sống, những khoảng không tối tăm, u ám, lạnh lẽo. Đó là một pháp trường như thế giới của những âm hồn và quỷ sứ, địa ngục : ánh mắt cú vọ ngời lên, bao nhiêu người kì dị hết sức, đi đi lại lại như những bóng ma, một người quần áo đen ngòm mắt sắc như hai lưỡi dao. Tiếp đó là không gian của một quán trà, nơi thông tin về mọi sự kiộn xảy ra trong hàng phố, chốn ồn ào đông đúc với rất nhiều nhận xét, quan điểm, tinh cảm, bộc lộ trình độ dân trí của đa số quần chúng nhân dân. Cuối cùng là một nghĩa địa mênh mông, lạnh lẽo : trời lạnh lắm, gió thì tắt, những ngọn cỏ khô đứng thẳng tắp, một tiếng rên rỉ, run run đưa lên giữa không trung nhỏ dần rồi tắt hẳn, một con quạ đen đậu trên cành khô trụi lá,… Tất cả mang bóng dáng của một không gian đen tối, ngột ngạt của xã hội Trung Quốc như thời trung cổ. Tuy nhiên, đến cuối câu chuyện, tác giả đã đưa con người hướng tới một không gian cao rộng hơn. Hai bà mẹ đã vượt ra khỏi tầm không gian chật hẹp của quán trà, không gian tối tăm, ma quái của pháp trường, không gian buồn thảm, lạnh lùng của nghĩa địa mà cùne vươn tới một không gian rộng mở theo cánh chim vút bay thẳng về phía chân trời xa.

Thời gian của câu chuyện diễn ra trong hai mùa : thu và xuân. Không hiểu vì sao cứ đến mùa thu thì người ta mới xử chém người, gọi là thu quyết. Phải chăng lá vàng rụng mùa thu gợi hình ảnh con người đi vào cõi chết ? Hai cái chết của hai người trai trẻ cũng diễn ra vào mùa thu. Họ chết rất khác nhau. Nhưng đến mùa xuân, hai bà mẹ cùng chung nỗi đau khổ đã đồng cảm, thông hiểu nhau. Diễn tả hai mùa, một mùa chuẩn bị khép lại, một mùa mở ra một năm mới, dường như tác giả tỏ bày một niềm hi vọng : lá vàng rụng xuống để tích nhựa cho chồi non. Sự sống sẽ được hồi sinh. Cùng với không gian mở cuối câu chuyện, khoảng thời gian mùa xuân này với những cây dương liễu mới đảm ra được những mầm non bằng nửa hạt gạo, đã gieo vào lòng người đọc một niềm hi vọng về một cuộc sống mới mẻ hơn, đỡ u ám hơn cho những số phận khổ đau trong thiên truyện.

Sức dồn nén cúa truyện ngắn Thuốc thật là lớn, đúng như lời nhà văn Nguyễn Tuân bình luận : "Trong một truyện ngắn của Lỗ Tấn, thường thấy rằng cái ngắn ấy chứa chất không biết bao nhiêu là sự sống, bao nhiêu là cuộc đời nhân dân lao động Trung Hoa, nó héo như đám cỏ bốn nghìn năm bị đè dưới tảng đá lịch sử. Lỗ Tấn viết truyện ngắn, đứng vào chỗ đám cỏ, hất hòn đá kia mà vồng ngọn lên. Truyện Thuốc, theo tôi nghĩ, đã đem được cái xanh rất khoẻ vào đám cỏ úa… Trong truyện, cái người bị chém đầu kia thật ra vẫn không chết, cái tinh thẩn của người ấy vẫn còn sống trong xung quanh, và hoa vẫn tươi trên mộ, đúng như Lỗ Tấn vẫn thường nói : Người chết chỉ chết thật, khi họ chết hẳn trong lòng người sống" .

Phân tích truyện ngắn “Thuốc” của Lỗ Tấn và nêu suy nghĩ của em – Bài làm 2

Lỗ Tấn là một nhà văn Trung Quốc nổi tiếng, văn của ông giàu tính chiến đấu, vừa trữ tình, vừa châm biếm, thể  hiện tinh thần lo âu, bi phẫn sâu sắc của thời đại. Ông còn là người phơi bày các hiện tượng bệnh hoạn của xã hội để lưu ý mọi người tìm phương pháp cứu chữa. Truyện ngắn “Thuốc” là một tác phẩm điển hình cho phong cách ấy, tác phẩm đã kêu gọi mọi người tìm ra phương thuốc chữa khỏi bệnh mê muội của quần chúng và bệnh xa rời quần chúng của những người cách mạng.

Tác phẩm kể về vợ chồng ông bà Hoa Thuyên – chủ quán trà có con trai bị ho lao (một trong những căn bệnh nan y thời đó). Nhờ người giúp, lão Hoa Thuyên tìm đến cai ngục mua nánh bao chấm máu người tử tù mang về  cho con ăn,  vì cho rằng như thế con sẽ khỏi bệnh. Trong lúc đứa con ăn bánh thì có người khách xuất hiện ở quán trà, họ bàn tán về người tử tù bị chém sang nay là Hạ Du, người chiến sĩ cách mạng kiên cường đã dung cảm , hiên ngang tuyên truyền cách mạng trước khi bị hành hình. Nhưng không ai hiểu gì về anh ta cả – họ còn cho rằng anh ta bị điên – là làm giặc. Thằng Thuyên ăn xong chiếc bánh bao tẩm máu người không bao lâu thì chết và mộ Thuyên được chôn gần mộ Hạ Du. Năm sau, vào tiết thanh minh, mẹ Hạ Du và bà Hoa Thuyên đều đến nghĩa trang viếng mộ con, hai bà mẹ cùng một nỗi đau mất con đã đồng cảm cho nhau, họ rất ngạc nhiên khi thất trên mộ Hạ Du có một vòng hoa, vòng hoa ấy gợi lên trong long người mẹ biết bao hoài nghi và bối rối.

Nhân vật người chiến sĩ Hạ Du được Lỗ Tấn lấy nguyên mẫu ngoài đời là nữ liệt sĩ Thu Cận – người đồng hương với tác giả.  Trong tác phẩm, Hạ Du là người thanh niên sớm giác ngộ cách mạng, anh hi sinh cho Trung Hoa, nhưng không ai có thể hiểu nổi điều đúng đắn mà anh đang làm. Nhân vật Hạ Du xuất hiện gián tiếp, anh chính là người bị chém mà ông Cả Khang lấy bánh bao chấm máu, bán cho vợ chồng Hoa Thuyên. Anh xuất hiện trong lời bàn tán của những vị khách tới quán uống trà, rằng anh bị chính cậu của mình tố giác để lĩnh  tiền thưởng, rằng anh là một kẻ điên, một kẻ làm giặc. Anh được kể lại rằng đến tận lúc ở trong lao, anh vẫn tuyên truyền cách mạng chống  nhà Mãn Thanh một cách kiên cường, không hề sợ hãi. Hạ Du dung cảm xả thân nhưng máu của anh đã rơi một cách vô ích, bởi không ai hiểu ý nghĩa của việc anh làm. Tuy nhiên, anh xứng đáng là một anh hùng, hình tượng nhà cách mạng dân chủ tư sản Trung Quốc trước thời cách mạng Tân Hợi.

Đối với vợ chồng lão Hoa Thuyên, tuy họ lấy máu liệt sĩ làm thuốc chữa bệnh cho con nhưng nhà văn không hề ác cảm với họ mà chỉ có lòng xót thương, xót thương cho những u mê, lạc hậu của họ, của những người dân Trung Quốc lúc bấy giờ. Đối với bác cả Khang, lão Nghĩa mắt cá chép, cụ Ba, cậu Năm Gù, người thanh niên hai mươi  tuổi,…, nhà văn tỏ ra thái độ khinh miệt, ghê tởm, nhất là đối với cụ Ba – bà con với Hạ Du, bởi họ vốn không hiểu những việc đáng tự hào mà một người chiến sĩ đã làm, họ chỉ biết a dua, bàn tán và bình phẩm người khác.

Cảnh hai bà mẹ đi viếng mộ con ngày Thanh Minh tiếp tục phơi bày bộ mặt tinh thần lạc hậu của người dân: người cách mạng chôn chung nghĩa địa với những kẻ chết chém, trộm cướp. Người mẹ của chiến sĩ cách mạng cũng cảm thấy hổ thẹn khi con mình bị chôn ở đó, bà không hiểu được ý nghĩa vòng hoa cao đẹp mà tưởng con trai mình vì chết oan khuất mà hiển linh. Bà mẹ họ Hoa và bà mẹ Hạ Du gặp nhau ở nghĩa địa thể hiện bi kịch của người Trung Quốc. Hoa Hạ là tên gọi của nước Trung Hoa thời xưa, tên gọi thống nhất ấy bỗng chia thành hai nửa không hiểu nhau, máu của Hạ bị Hoa dung làm thuốc chữa bệnh cho con. Cả Hoa và Hạ đều bị tổn hại. Các nấm mộ trong nghĩa địa giống như trong bánh bao trong lễ chúc thọ nhà giàu, như vậy, sự chia rẽ Hoa Hạ chỉ có lợi cho những thế lực nhà giàu mà thôi. Đó chính là bi kịch của đất nước Trung Hoa.

Qua tác phẩm “Thuốc”, nhà văn đã vạch trần sự mê muội của quần chúng khi tin rằng ăn bánh bao tẩm máu người sẽ khỏi bệnh lao. Nhà văn kêu gọi mọi người cần tìm ra một phương thuốc khác, cần  một phương thuốc giúp nhân dân nhận ra đó là một thứ thuốc độc giết người chứ không phải là thần dược. Đồng thời, người dân Trung Quốc cũng phải tìm ra một thứ thuốc để chữa bệnh tinh thần của quần chúng khi cho rằng làm cách mạng là làm giặc, phải có cách chữa căn bệnh  mê muội đó của quần chúng và bệnh xa rời quần chúng của những người chiến sĩ cách mạng như Hạ Du.

Phân tích truyện ngắn Thuốc của Lỗ Tấn – Bài làm 3

Khi nhắc đến nền văn học Trung Quốc thì chắc có lẽ không thể không nhắc đến Lỗ Tấn, ông là một nhà văn cách mạng lỗi lạc của Trung Quốc,là một người mà nhiều chuyên gia đã nhận xét là vừa có tài vừa có đức sinh năm ( 1881-1936 ) tên thật là Chu Thụ Nhân , quê ở phủ Thiệu Hưng tỉnh Chiết Giang, Trung Quốc. Đã tận mắt chứng kiến cha mình bị bệnh vì không có tiền chữa bệnh mà mất đi, ông ôm ấp giấc mơ trở thành một thầy thuốc để có thể chữa bệnh cho những người dân nghèo. Và ông quyết định học ngành y để thực hiện ước muốn của mình.

Trong thời gian ông đi học y ở Nhật Bản thì đã có một sự kiện xảy ra đã làm thay đổi cuộc đời và cả sự nghiệp của ông. Đó là một lần khi xem phim, ông đã chứng kiến những người TRung Quốc hớn hở đi xem người Nhật giết chết một người Trung Quốc yêu nước. Lỗ Tấn đã nhận ra rằng, nếu chữa căn bệnh về thể xác mà bỏ quên căn bệnh về tinh thần thì tương lai người TrungQuốc rồi sẽ “ngủ mê trong cái nhà hộp bằng sắt không có cửa sổ” mà thôi. Từ đó, ông đã từ bỏ y học để chuyển sang văn học, dùng văn học để cảnh tỉnh, để “chữa bệnh” về tinh thần cho người dân Trung Quốc.

“Thuốc” được ra đời vào năm 1919 ở thời điểm xay ra cuộc vận động phong trào Ngũ Tứ, là phong trào đòi tự do dân chủ của học sinh sinh viên Bắc kinh bùng nổ mạnh mẽ. Thuốc là một tác phẩm và là một liều thuốc để ông chữa căn bệnh cho người dân của đất nước ông, cho xã hội Trung Quốc lúc bấy giờ, cần phải có một liều “thuốc” đặc trị thì mới có thể chữa trị được, nếu không thì sẽ dần u mê và lụi bại và suy tàn không thể tồn tại như nhân vật Thuyên khi bị bệnh lao, đã cố gắng tìm ra một đơn thuốc nhưng lại không hề tốt và không chữa được để rồi mất mạng.

Ở trong tác phẩm này, thuốc không phải chỉ là được làm ra từ những dược liệu thông thường mà nó chính là một chiếc bánh bao được tẩm máu người, đặc biệt phải là máu của người tử tù thì mới có hiệu quả, mới có thể giúp lão Hoa chữa được bệnh ,của con trai lão được. Có lẽ không ai là không biết rằng, máu của người tử tù, đó là máu của những người Trung Quốc yêu nước và chống lại Nhật Bản. để có được phương thuốc ấy đã phải lấy đi tính mạng của những con người đang ngày đêm cố gắng đem tất cả bình sinh của mình ra để bảo vệ cuộc sống của người thân, của những con người u mê, lạc hậu, mê muội đang cố lấy đi tính mạng của họ chỉ vì mê tín dị đoan, cố chấp, thiếu hiểu biết.

Vợ chồng lão Hoa và mọi người trong quán trà cố chấp cho rằng chỉ cần có chiếc bánh bao tẩm máu người tử tù thì căn bệnh hiểm nghèo của Thuyên sẽ được chữa khỏi. Đặt niềm tin vào một phương thuốc phản khoa học ấy, lão Hoa đã bỏ rất nhiều tiền và công sức để tìm được chiếc bánh bao thần kì ấy, khi ông mang “thuốc” về, nó vẫn còn dính máu và đang nhỏ giọt, máu rất tươi, đó là một hình ảnh ghê sợ biết bao, ám ảnh biết cỡ nào mầy mà ông ta và nhiều người trong quán trà của vợ chồng lão đã rất vui vẻ vì nghĩ rằng con mình sắp hết bệnh và khỏe lại như bao người khác rồi. Để khi con trai chết vợ chồng lão cũng chẳng biết vì sao khi đã có thuốc rồi mà thằng Thuyên vẫn chết.

Ngoài ý nghĩa về một than thuốc để chữa căn bệnh lao phản khoa học đã làm cho Thuyên chết sớm, ở đây Lỗ Tấn còn đưa ra căn bệnh cũng đang rất cần có một phương thuốc để chữa, đó là căn bệnh gia trưởng, u mê, lạc hậu về mặt khoa học của người dân Trung Quốc. Cha mẹ của thằng Thuyên vì lạc hậu thiếu hiểu biết nên mới tin và cho rằng chỉ cần một chiếc bánh bao có tẩm máu tươi của người tử tù thì Thuyên sẽ hết bệnh và thậm chí còn khỏe mạnh hơn, không chỉ có cha mẹ của thằng Thuyên mà còn có tất cả những người có mặt tại quán trà cũng tin như vậy, họ quá tin vào một chiếc bánh bao tẩm máu khi không hề có một chứng cứ xác thực nào cả, họ thậm chí không thèm tìm thử xem có một phương thuốc nào tốt hơn, chắc chắn hơn, có thuốc nhưng lại không phải mất đi tính mạng của người khác không mà họ không hề biết rằng chiếc bánh bao tẩm máu mà họ tìm kiếm ấy, bỏ tiền bạc và công sức để có được ấy thật ra chỉ là một liều thuốc độc mà thôi, nó giết chết một thằng Thuyên bị bệnh lao, hại chết Hạ Du làm cách mạng phải lấy máu tẩm bánh bao, ghê gớm hơn là nó giết chết cả tinh thần của người dân Trung Quốc.

Không chỉ là lạc hậu về phương diện khoa học, mà Lỗ Tấn còn lên án cả về đường lối chính trị của cách mạng của Trung Quốc. Lúc này, cách mạng Trung Quốc đang dò dẫm tìm đường, chưa hề có một con đường chính xác nào cho cách mạng Trung Quốc và đã dẫn đến nhiều hậu quả đáng tiếc, điều đáng tiếc ấy được thể hiện rất rõ qua nhân vật Hạ Du. Đó là do sự xa rời nhân dân, không quán triệt cho dân hiểu làm cách mạng mà không gần dân, xa rời dân chúng. Làm cách mạng mà xa rời quần chúng đó chính là cái sai, cái lỗi để dẫn đến sự hi sinh vô ích của Hạ Du, cho dù anh là một người yêu nước, một nhà cách mạng nhưng người dân không hề hiểu và biết điều đó, Họ cho rằng anh là giặc, là tử tù và máu của anh có thể cứu sống được Thuyên. Máu để tẩm chiếc bánh bao chính là máu người chiến sĩ Hạ Du phải đổ xuống để giải phóng cho nhân dân.Hạ Du đại diện cho một tầng lớp yêu nước và có lý tưởng lúc bấy giờ thế nhưng mọi người lại nhắc đến anh với sự miệt thị và khinh khi, đau đớn hơn là chính chú của Hạ Du lại là người đi báo án để hưởng được số tiền thưởng mà bọn phản quốc đang treo. Nếu có trách thì cũng trách con đường mà Hạ Du đã đi là sai. Bởi vì nhân dân họ không biết điều mà Hạ Du đang cố gắng làm, thậm chí là mẹ anh cũng không biết con mình làm cái gì, họ chỉ biết anh là một tủ tù và cái tốt nhất từ anh chính là máu, mọi người cho rằng chỉ cần có máu của Hạ Du là bệnh của thằng Thuyên sẽ được chữa khỏi, thế nhưng đâu có phải như vậy. thằng Thuyên ăn bánh bao cũng chết, Hạ Du làm cách mạng sai đường Hạ Du đổ máu vô ích. Những nhà cách mạng lúc ấy như một vì sao lẻ loi trên bầu trời đêm đen mà không hề có thêm một vì sao ở gần cả. Có lẽ nào Lỗ Tấn còn đang tìm thuốc để khai sáng con đường đi của cách mạng Trung Quốc để đạt được những thành quả tốt đẹp hơn, giải phóng cho con người lẫn tinh thần của nhân dân Trung Quốc. Qua tất cả những điều ấy cho thấy rõ ràng sự mê muội u tối của người dân Trung Quốc.

Ở cuối tác phẩm, khi hai người mẹ đến thăm mộ con mình, nghĩa trang được chia làm hai phần một bên là dành cho tử tù và một bên là dành cho người dân nghèo. Bà Hoa đến thăm mộ Thuyên và một lát sau gặp mẹ Hạ Du ngập ngừng đến bên mộ Hạ Du. Con đường phân hai bên nghĩa trang tượng trưng cho chính ranh giới mà con người tự đặt ra. Hai bà mẹ bước qua ranh giới ấy và an ủi lẫn nhau cho vơi sự đau xót trước sự ra đi của hai người con trai. Sự đồng cảm, ca ngợi lý tưởng của người chiến sĩ Hạ Du qua vòng hoa được đặt bên nấm mộ của anh mà hai người mẹ vô cùng ngạc nhiên khi thấy được và không hề biết ai là người đã đặt ở đó.Phải chăng đó chính là ánh sáng nơi cuối đường, le lói con đường đi mới, một liều thuốc mới để đem lại hi vọng cho con người.

Như vậy, Thuốc của Lỗ Tấn không chỉ là thuốc để chữa những căn bệnh về thể chất, mà Thuốc còn là nỗi đau khi chưa tìm ra được một con đường trị “bệnh” cho dân tộc, mù mờ về tương lai của đất nươc khi mà người dân còn ngủ trong nhà hộp bằng sắt không có cửa sổ, là tinh thần trách nhiệm của Lỗ Tấn đối với hiện thực và tương lai của nước nhà.

Qua tác phẩm Lỗ Tấn đã nêu rõ thực trạng u tối của đất nước Trung Quốc và con đường cách mạng đang đi là sai vì nó hiu quạnh, không hề gần gũi với nhưng dân. “Thuốc” đã giúp xã hội Trung Quốc lúc này nhìn lại con đường mà mình đang đi là sai và cần phải tìm ra một con đường, chính sách mới thì mới có thể thành công, mới có một phương thuốc có thể chữa lành căn bệnh cho người dân.

Phân tích tác phẩm Thuốc của nhà văn Lỗ Tấn – Bài làm 4

Người nổi tiếng bởi quan điểm: "Chữa bệnh thể xác không quan trọng bằng chữa bệnh tinh thần" không ai khác chính là Lỗ Tấn. Là một nhà thơ tiên phong và là tấm gương noi theo của nhiều thế hệ, Lỗ Tấn đã có sự nghiệp văn nghệ không nhỏ. Ông là người đã khai sinh ra nền văn học cách mạng Trung Quốc. Với phong cách trong nóng ngoài lạnh, các tác phẩm của ông đều để lại những bài học sâu sắc. Và trong đó là " Thuốc".

"Thuốc" được sáng tác vào năm 1919 khi xã hội Trung Quốc là nước thuộc địa nửa phong kiến, các nước đế quốc tranh nhau xâu xé, nhân dân an phận chịu nhục, phong trào Ngũ Tứ nổ ra. Tác phẩm được đăng lần đầu trên Tân thanh niên sau được in trong "Gào thét". "Thuốc" là sự phanh phui về sự u mê lạc hậu của quần chúng, là bức tranh miêu tả bi kịch của người cách mạng tiên phong và là sự đồng cảm, trân trọng ngợi ca của tác giả đối với những người tiên phong ấy. Trong tác phẩm là hai câu chuyện: câu chuyện mùa thu là mua thuốc – ăn thuốc – bàn về thuốc và câu chuyện mùa xuân – hậu quả của thuốc.

Tác phẩm gây ấn tượng đầu tiên bởi nhan đề: "Thuốc". Theo nghĩa thực, nhan đề này chỉ một thứ dược phẩm, thứ thuốc truyền thống chữa bệnh lao: "bánh bao tẩm máu người chết chém" – một thứ thuốc quái đản, mê tín, phản khoa học. Nhưng ý nghĩa nhan đề không dừng lại ở đó. Nhà văn muốn gửi đến người đọc bức thông điệp. Đó là cần phải cảnh tỉnh, cần có một thứ thuốc đặc hiệu để chữa sự u mê, mu muội, vô cảm của quần chúng; chữa trị cho người cách mạng bởi họ chưa thoát khỏi tư tưởng tư sản, còn xa rời, thoát ly quần chúng nhân dân. Với ý nghĩa như vậy nên "thuốc" đã trở thành tác phẩm có tiếng vang lớn thời kỳ này.

Mở đầu bằng câu chuyện lúc "đêm thu gần về sáng", lão Hoa đến pháp trường để mua thứ thuốc "thần dược" về chữa bệnh lao cho con trai độc đinh của lão. Trên đường đi mua thuốc, tâm trạng lão sảng khoái, trẻ lại như được cải tử hoàn sinh. Vì sao ư? Bởi lẽ lão sắp cứu được đứa con trai của gia đình mười đời độc đinh. Thứ "thần dược" ấy chính là chiếc bánh bao tẩm máu người chết chém. Lão để tinh thần vào cái gói bánh ấy nâng niu như đứa con. Mặc dù lúc đầu thái độ của lão còn sợ, run không dám cầm nhưng sau lão sung sướng. Mua được thuốc rồi, lão đem về cho con trai ăn. Chiếc bánh bao ấy được bọc trong lá sen đem nướng. Quái đản như vậy mà vợ chồng lão Hoa vẫn tin tưởng nói với con: "Ăn đi con!Sẽ khỏi ngay". Rồi hai vợ chồng lão lại "trố mắt nhìn con như muốn rót vào người con một cái gì đồng thời cũng muốn lấy ra một cái gì". Không chỉ có vợ chồng lão tin vào thứ thuốc này mà những người đang bàn luận sôi nổi ngoài quán trà kia cũng như vậy. Họ tin nó là một thần dược: "cam đoan thế nào cũng khỏi, nhất định thế nào cũng khỏi, thứ thuốc này đặc biệt lắm"…. Nhưng cuối cùng chiếc bánh bao tẩm máu người tử tù đã không cứu được con trai lão. Bằng câu chuyện này nhà văn đã vạch trần được sự u mê tăm tối mu muội của người dân lao động lúc bấy giờ. Bánh bao tẩm máu người là thứ thuốc quái đản, gây chết người, thứ thuốc độc, phản khoa học. Muốn chữa bệnh lao phải có một thứ thuốc đặc hiệu.

Song song với câu chuyện xung quanh thuốc của gia đình lão Hoa là chuyện người tử tù Hạ Du. Nhân vật này xuất hiện gián tiếp qua lời bàn luận của các nhân vật. Hạ Du là một thanh niên sớm giác ngộ cách mạng, đấu tranh với tư tưởng "thiên hạ Mãn Thanh chính là của chúng ta". Thế nhưng trong mắt mọi người anh chỉ là: "thằng quỷ sứ", "nhãi con", "khốn nạn", "điên"…. Người chú ruột của anh tố cáo cháu mình chỉ để lấy hai mươi lạng bạc. Bác Cả Khang lại coi anh là công cụ bán máu để trục lợi. Lão Nghĩa cũng chỉ tiếc cái áo. Còn đối với vợ chồng lão Hoa, anh là phương thuốc chữa bệnh cho con trai họ. Tất cả con mắt mọi người đều cho anh là giặc, chết là phải. Một cán bộ cách mạng, một con người đi theo lý tưởng của cách mạng mà lại bị coi là giặc trong cái xã hội mà chính anh bảo vệ. Một nghịch lý đáng nực cười của cái xã hội Trung Quốc lúc bấy giờ. Hình ảnh người tử tù Hạ Du đã tố cáo gay gắt tình trạng tê liệt, u mê của quần chúng về chính trị, chỉ rõ sự xa rời thoát ly quần chúng của người cách mạng, khẳng định đất nước Trung Quốc lúc bấy giờ là một con bệnh thập tử nhất sinh, cần có thứ thuốc để chữa trị, tránh nạn vong quốc.

Cuối tác phẩm là con đường mòn ở nghĩa địa. Cả hai bên "mộ dày khít, lớp này lớp khác, như bánh bao nhà giàu ngày mừng thọ". Những người chết oan giống con trai lão Hoa và những người phải đổ máu giống Hạ Du đều đã hi sinh tính mạng chỉ vì tập quán, lối suy nghĩ ấu trĩ, mê muội và lạc hậu. Suy nghĩ ấy như con đường mòn nơi nghĩa địa kia. Nhưng thật kì diệu, con đường mòn ấy đã bị xóa bỏ bởi bà Hoa đã sang an ủi mẹ của Hạ Du. Chi tiết vòng hoa trên mộ Hạ Du vừa là tấm lòng của tác giả dành cho người liệt sĩ, vừa là sự gửi gắm niềm tin. Một kết thúc có hậu cho tất cả sự hi sinh. Máu của người chiến sĩ đã thức tỉnh được một bộ phận quần chúng, có người đã hiểu cái chết vinh quang của họ và nguyện đi theo họ.

Khép lại truyện ngắn, Lỗ Tấn không khỏi khiến người đọc thôi băn khoăn. Nghĩ về cái xã hội Trung Quốc thời kỳ bấy giờ. Câu chuyện không chỉ đơn thuần là truyện mà còn là bức thông điệp, bài học lịch sử mà Lỗ Tấn muốn gửi gắm. Câu truyện đã đến với người đọc nhờ giá tri nội dung sâu sắc ấy.

Thu Thủy (Tổng hợp)

0