Phân tích Văn tế nghĩa sĩ cần Giuộc của Nguyễn Đình Chiểu – Văn mẫu hay lớp 11
Xem nhanh nội dung Phân tích Văn tế nghĩa sĩ cần Giuộc của Nguyễn Đình Chiểu để làm nổi bật tượng đài nghệ thuật bi tráng – Bài làm 1 của một học sinh giỏi Văn TP Hà Nội Năm 1859, giặc Pháp tấn công thành Gia Định, Nguyễn Đình Chiểu viết bài thơ "Chạy giặc”, hai câu ...
Xem nhanh nội dung
Phân tích Văn tế nghĩa sĩ cần Giuộc của Nguyễn Đình Chiểu để làm nổi bật tượng đài nghệ thuật bi tráng – Bài làm 1 của một học sinh giỏi Văn TP Hà Nội
Năm 1859, giặc Pháp tấn công thành Gia Định, Nguyễn Đình Chiểu viết bài thơ "Chạy giặc”, hai câu kết nói lên niềm mong ước thiết tha:
"Hỏi trong dẹp loạn rày đâu vắng
Nỡ để dân đen mắc nạn này ”
Và mấy năm sau, nhà thơ viết bài “ Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc" – đỉnh điểm nghệ thuật và tư tưởng trong sự nghiệp thơ văn của ông. Có thể coi bài văn tế là tấm lòng trung nghĩa của Nguyễn Đình Chiểu trang trải đối với những nghĩa sĩ anh hùng của nhân dân ta trong buổi đầu chống Pháp xâm lược. Nhà thơ lỗi lạc đất Đồng Nai đã dựng nên một “tượng đài nghệ thuật’’ mang tính chất bi tráng về người nông dân yêu nước chống ngoại xâm.
Sau khi chiếm đóng ba tỉnh miền Đông, giặc Pháp đánh chiếm ba tỉnh miền Tây Nam Bộ. Năm 1861, vào đêm 14-12 nghĩa quân đã tấn công đồn giặc ở Cần Giuộc, thuộc tỉnh Long An ngày nay. Trận đánh diễn ra vô cùng ác liệt “làm cho mã tà, ma ní hồn kinh”. Gần 30 chiến sĩ nghĩa quân đã anh dũng hi sinh. Nguyễn Đình Chiểu đã viết bài văn này – bài ca về người anh hùng thất thế nhưng vẫn hiên ngang.
“Văn tế nghĩa sĩ cần Giuộc" là một “tượng đài nghệ thuật’’ hiếm có. “Bi tráng” là tầm vóc và tính chất của tượng đài nghệ thuật ấy: vừa hoành tráng, hùng tráng vừa thống thiết, bi ai. Hùng tráng ở nội dung chiến đấu vì nghĩa lớn. Hùng tráng ở phẩm chất anh hùng, ở đức hi sinh quyết tử. Hùng tráng ở chỗ tượng đài được dựng lên giữa một bối cảnh thời đại sóng gió dữ dội, quyết liệt của đất nước và dân tộc. Hoành tráng về quy mô, nó không chỉ khắc họa một nghĩa quân, một anh hùng mà là đông đảo những "Dân ấp, dân lân mến nghĩa làm quân chiêu mộ" dưới ngọn cờ "Bình Tây” của Trương Công Định. Tính chất, quy mô hùng tráng, hoành tráng ấy lại gắn liền với bi ai, đau thương, thống thiết. Cái “ tượng đài nghệ thuật” về người nông dân đánh giặc Pháp giữa thế kỉ XIX đã được dựng lên trong nước mắt. Trong toàn bài văn tế, đặc biệt trong phần thích thực và ai vãn, ta cảm nhận sâu sắc tính chất bí tráng này.
Mở đầu bài văn tế là một lời than qua cặp câu tứ tự song hành. Hai tiếng “Hởi ơi!” vang lên thống thiết, đó là tiếng khóc của nhà thơ đối với nghĩa sĩ, là tiếng nấc đau thương cho thế nước hiểm nghèo:
“Súng giặc, đất rền; lòng dân trời tỏ ”
Tổ quốc lâm nguy. Súng giặc nổ vang rền trời đất và quê hương xứ sở. “Tan chợ vừa nghe tiếng súng Tây…” (“Chạy giặc”). Trong cảnh nước mất nhà tan, chỉ có nhân dân đứng lên gánh vác sứ mệnh lịch sử, đánh giặc để cứu nước cứu nhà. Tâm lòng yêu nước, căm thù giặc của nhân dân, của những người áo vải mới tỏ cùng trời đất và sáng ngời chính nghĩa. Có thể nói cặp câu tứ tự này là tư tưởng chủ đạo của bài văn tế, nó được khắc trên đá hoa cương, đặt ở phía trước, chính diện của tượng đài nghệ thuật.
Hình ảnh trung tâm của tượng đài nghệ thuật “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” là những chiến sĩ nghĩa quân. Nguồn gốc của họ là nông dân nghèo, sống cuộc đời “cui cút” sau lũy tre xanh. Chất phác và hiền lành, cần cù và chịu khó làm ăn, quanh quẩn trong xóm làng, làm bạn với con trâu, đường cày, sá bừa, rất xa lạ với "cung ngựa trường nhung”:
“Nhá linh xưa
Cui cút làm ăn; toan lo nghèo khó
Chưa quen cung ngựa, đâu tới trường nhung;
chỉ biết ruộng trâu ở trong làng bộ”
Họ là lớp người đông đảo, sống gần gũi quanh ta. Quanh năm chân lấm tay bùn với nghề nông "chưa hề ngó tới’’ việc binh và vũ khí đánh giặc:
“Việc cuốc, việc cày, việc bừa, việc cấy, tay vốn quen làm; tập khiên, tập súng, tập mác, tập cờ, mắt chưa từng ngó.”
Thế nhưng khi đất nước bị giặc Pháp xâm lăng, những “dân ấp dân lân” ấy đã anh dũng đứng lên “Mến nghĩa làm quân chiêu mộ". Đánh giặc để cứu nước cứu nhà, để bảo vệ “bát cơm manh áo ở đời" là cái nghĩa lớn mà họ “mến" và đeo đuổi. Nguyễn Đình Chiểu đã viết nên những câu cách cú hay nhất (giản dị mà chắc nịch) ca ngợi lòng yêu nước căm thù giặc của người nghĩa sĩ:
“Bữa thấy bòng bong che trắng lốp, muôn tới ăn gan;
ngày xem ống khói chạy đen sì, muốn ra cắn cổ”.
Đối với giặc Pháp và lũ tay sai bán nước, họ chỉ có một thái độ “ăn gan” và “cắn cổ”, chỉ có một chí khí: “Phen này xin ra sức đoạn kình… chuyến này dốc ra tay bộ hổ”.
Hình ảnh người chiến sĩ nghĩa quân ra trận là những nét vẽ, nét khắc, hùng tráng nhất, hoành tráng nhất trong "tượng đài nghệ thuật" bài văn tế. Bức tượng đài có hai nét vẽ tương phản đối lập: đoàn dũng sĩ của quê hương với giặc Pháp xâm lược. Giặc cướp được trang bị tối tân, có “tàu thiếc, tàu đồng”, “bắn đạn nhỏ, đạn to”, có bọn lính đánh thuê “mã tù, mã ní" thiện chiến. Trái lại, trang bị của nghĩa quân hết sức thô sơ. Quân trang chỉ là “một manh áo vải”. Vũ khí chỉ có "một ngọn tầm vông" hoặc “một lưỡi dao phay", một súng hoả mai khai hoả “bằng rơm con cúi”. Thế mà họ vẫn lập được chiến công: “đốt xong nhà dạy đạo kia" và “chém rớt đầu quan hai họ”.
“Tượng đài nghệ thuật” đã tái hiện những giờ phút giao tranh ác liệt của các chiến sĩ nghĩa quân với giặc Pháp:
“Chi nhọc quan quản gióng trống kì, trống giục,đạp rào lướt tới,
coi giặc cũng như không;
Nào sợ thằng Tây bắn đạn nhỏ, đạn to, xô cửa xông vào,
liều mình như chẳng có.
Kẻ đâm ngang, người chém ngược, làm cho mã tà,ma ní hồn kinh;
Bọn hè trước, lũ ó sau, trối kệ tàu thiếc tàu đồng súng nổ".
Đây là những câu gối hạc tuyệt bút. Không khí chiến trận có tiếng trống thúc quân giục giã, có “bọn hè trước, lũ ó sau” vang dậy đất trời cùng với tiếng súng nổ. Các chiến sĩ của ta coi cái chết nhẹ tựa lông hồng, tấn công như vũ bão, tung hoành giữa đồn giặc: "đạp rào lướt tới”, “xô cửa xông vào", "đâm ngang chém ngược”, “hè trước, ó sau”… Giọng văn hùng tráng, phép đối tài tình, các động từ mạnh được chọn lọc và đặt đúng chỗ… đã tô đậm tinh thần chiến đấu quả cảm vô song của các chiến sĩ Cần Giuộc. Nguyễn Đình Chiểu đã dành cho các chiến sĩ nghĩa quân những tình cảm đẹp nhất: ngợi ca, khâm phục, tự hào. Qua đó ta thấy, trước Nguyễn Đình Chiểu chưa có nhà văn nào viết về người nông dân đánh giặc hay và sâu sắc như thế.
Trong bài “Văn tế nghĩa sĩ cần Giuộc” còn có những giọt lệ, lời than khóc, một âm điệu thống thiết, bi ai được thể hiện ở phần ai vãn. Nhiều nghĩa sĩ đã ngã xuống trên chiến trường trong tư thế người anh hùng: “Những lăm lòng nghĩa lâu dùng; đâu biết xác phàm vội bỏ”. Đất nước vô cùng tiếc thương. Một không gian rộng lớn bùi ngùi, đau đớn:
“Đoái sông Cần Giuộc cỏ cây mấy dặm sầu giăng; nhìn chợ Trường Bình già trẻ hai hàng lụy nhỏ “
Tiếng khóc của người mẹ già, nỗi đau đớn của người vợ trẻ được nói đến vô cùng xúc động. “Hàng trăm năm sau chúng ta đọc Nguyễn Đình Chiểu có lúc như vẫn còn thấy ngòi bút nhà thơ nức nở trên từng trang giấy” (Hoài Thanh): “Đau đớn bấy mẹ già ngồi khóc trẻ, ngọn đèn khuya leo lét trong lều;
"Não nùng thay vợ yếu chạy tìm chồng, cơn bóng xế dật dờ trước ngõ".
Các nghĩa sĩ đã sống anh dũng, chết vẻ vang. Tấm gương chiến đấu và hi sinh của họ là “Tấm lòng son gửi lại bóng trăng rằm" đời đời bất diệt, sáng rực mãi, trường tồn cùng sông núi. Rất đáng tự hào:
“Ôi! Một trận khói tan; nghìn năm tiết rỡ”.
Bài học lớn nhất của người chiến sĩ để lại cho đất nước và nhân dân là bài học về sống và chết, sống hiên ngang, chết bất khuất. Tâm thế ấy đã tô đậm chất bi tráng tượng đài nghệ thuật về người nông dân đánh giặc:
"Sống đánh giặc, thác cũng đánh giặc, linh hồn theo giúp cơ binh,
muôn kiếp nguyện được trả thù kia… ”
Dám xả thân vì nghĩa lớn "cây hương nghĩa sĩ thắp thêm thơm”, các nghĩa sĩ nghĩa quân trong “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” là niềm tự hào và biết ơn sâu sắc của nhân dân ta.
Tóm lại, "Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” khẳng định văn chương lỗi lạc, tấm lòng yêu nước thương dân mãnh liệt, thiết tha của Nguyễn Đình Chiểu. Đúng là “Người thư sinh dùng bút đánh giặc” (Miền Thẩm). Một giọng văn vừa hùng tráng vừa thống thiết bi ai. Nguyễn Đình Chiểu đã dựng nên một “tượng đài nghệ thuật” mang tính chất bi tráng về người nông dân yêu nước chống ngoại xâm. "Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” là một kiệt tác trong văn tế cổ kim của dân tộc. Nhà văn Hoài Thanh có viết: “Nhà văn nghèo ấy đã sống cuộc sống của quần chúng, thông cảm sâu sắc với quần chúng, và đã cùng quần chúng phấn đấu gian nan. Chính quần chúng cần cù, dũng cảm đã tiếp sức cho Nguyễn Đình Chiểu, cho trí tuệ, cho tình cảm, cho lòng tin và cho nghệ thuật của Nguyễn Đình Chiểu”.
Phân tích Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc của Nguyễn Đình Chiểu để thấy đây là bức tượng đài bi tráng về người nông dân nghĩa sĩ đánh Pháp từ những ngày đầu chúng xâm lược đất nước ta – Bài làm 2
Nguyễn Đình Chiểu là một nhà Nho yêu nước cuối thế kỉ XIX. Cuộc đời của ông đầy những bất hạnh. Nhưng bằng nghị lực phi thường, ông trở thành tấm gương sáng về nhiều mặt… "Với Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” Nguyễn Đình Chiểu đã dựng lên bức tượng đài bi tráng về người nông dân nghĩa sĩ đánh Pháp cuối thế kỉ XIX. Lời đánh giá trên rất xứng đáng với thành công của tác phẩm. Hơn một thế kỉ qua, đọc lại bài văn tế ấy, ai không dạt dào xúc động, bởi “nước mắt anh hùng” có bao giờ ráo khô?
Mở đầu tác phẩm, tác giả đã cất lên tiếng than:
Hỡi ôi! Súng giặc đất rèn; lòng dân trời tỏ!
Đây chính là hoàn cảnh, là cái nền mà trên đó, Nguyễn Đình Chiểu đã dựng nên bức tượng đài bất hủ. Đất nước bị xâm lăng. Súng giặc đã rền khắp núi sông. Kẻ thù hung hãn đã tới. Xã tắc chao đảo trước “tàu sắt, tàu đồng, súng nổ”. Phải chăng, đây là lúc:
Bến Nghé của tiền tan bọt nước
Đồng Nai tranh ngói nhuốm màu mây
Cũng chính là lúc:
Bỏ nhà lũ trẻ lơ xơ chạy
Mất ổ bầy chim dáo dát bay
(Chạy Tây – Nguyễn Đình Chiểu)
Từ hoàn canh khốc liệt, tan tác, đau thương này, tấm lòng của người dân đã rực sáng giữa trời xanh!
Họ là ai?
Họ không phải là những sĩ phu, những chí sĩ, cũng không phải những đại gia từng được ơn vua lộc nước hậu hình. Họ chỉ là những người:
Côi cút làm ăn, lo toan nghèo khó…
… Chỉ biết ruộng trâu, ở trong làng bộ
Việc cuốc, việc cày, việc bừa, việc cấy, tay vốn quen làm;
Tập khiên, tập súng, tập mác, tập cờ, mắt chưa từng ngó
Họ hoàn toàn là nông dân, nông dân 100% những con người quanh năm chưa từng bước ra khỏi lũy tre làng! Hơn thế, họ còn là những nông dân nghèo, nghèo lắm. Hai chữ “côi cút” của cụ Đồ mới xót xa làm sao! Có nghĩa là ngày thường, những tháng năm dài dặc lúa, họ chẳng được “chăn dắt” như mạo nhận của bọn vua quan. Một đời, nhiều đời thui thủi bán mặt cho đất, bán lưng cho trời! Thế nhưng, chính những con người bị bỏ rơi ấy lại là những người đầu tiên đúng lên, cho dù chẳng phải quân cơ, quân vệ. Họ chỉ vì nghĩa lớn mà tập hợp dưới cờ.
Một mối xa thư đồ sộ, há để ai chém rắn đuổi hươu
Hai vầng nhật nguyệt chói lòa, đâu dung lũ treo dê bán chó.
Với hai câu văn trên, cụ Nguyễn Đình Chiểu dã cho ta thấy họ quả là những nghĩa sĩ, những con người có trách nhiệm lớn với non sông, những con người mang trong mình dòng máu bất khuất. Cho nên, chính họ đã quyết “Phen này xin ra sức đoạn kình… Chuyến này dốc ra tay bộ hổ”.
Đó chính là tư tưởng của những Triệu Thị Trinh, Bố cái Đại vương Phùng Hưng từng chém cá kình ở biển Đông, bắt hổ dữ ở rừng sâu trong lịch sử dân tộc.
Nhưng Cụ Đồ Bến Tre vẫn không quên chính họ là những người chán đất có tấm lòng căm thù giặc tới tận xương tủy:
Bữa thấy bòng bong che trắng lốp, muốn tới ăn gan
Ngày xem ống khói chạy đen sì, muốn ra cắn cổ!
Chính sự căm thù này khiến họ vượt qua khó khăn thiếu thốn, không đợi trang bị vũ khí, ăn mặc, không đợi luyện tập quân sự, không sợ kẻ địch mạnh, có vũ khí tối tân, có lính đánh thuê hung hãn, có bọn Việt gian thâm hiểm… nhất quyết ngay một lúc vào trận với những vũ khí tự tạo thô sơ: “Hỏa mai đánh bằng rơm con cúi/ Gươm đeo dùng bằng lưỡi dao phay", nghĩa là có gì đánh nấy, miễn là giết được giặc! Nếu không có tấm lòng vì nghĩa lớn, làm sao có được cái gan ấy?
Và, khi vào trận, họ quả là phi thường:
Chi nhọc quan quản gióng trống kì trống giục, đạp rào lướt tới, coi giặc cũng như không; nào sợ thằng Tây bắn đạn nhỏ, đạn to, xô cửa xông vào liều mình như chẳng có.
Kẻ đâm ngang, người chém ngược, làm cho mã tà ma ni hồn kinh; bọn hè trước, lũ ó sau, trối kệ tàu sắt, tàu đồng súng nổ.
Quả là một trận chiến dũng mãnh, quyết liệt đến liều mạng của lòng căm thù! Các động từ mạnh như “đạp – lướt – xô – xông – đâm ngang – chém ngược…” khiến cho người đọc hàng trăm năm sau còn như thấy trước mắt khí thế vũ bão ào ào của nghĩa quân. Trong ánh lửa bập bùng, loang loáng những bắp tay trần, loang loáng ánh thép dao phay, rầm rập những bước chân, ầm ầm tiếng thét giết tươi kẻ thù…
Trong văn học Việt Nam đến thời điểm ấy, hiếm có một bức tranh công đồn nào hiện thực sinh động như thế! Không một chút ướt lệ, ngòi bút, kí sự, đặc tả của nhà Nho mới quý giá biết bao! Vì sao một người “quanh mình chỉ có bóng đêm” mà lại nhìn sáng tỏ đến như thế? Tài năng hay tấm lòng? Có lẽ là tất cả!
Chính tinh thần quyết chiến ấy của người nghĩa sĩ đã làm nên những chiến công rất đáng ca ngợi. Họ đã tiêu diệt được tên chỉ huy ác ôn, đã đốt cháy ổ gián điệp, tức là kẻ thù nổi, kẻ thù chìm, kẻ thù bằng xương bằng thịt, kẻ thù tư tưởng (nhà dạy đạo)… Càng có ý nghĩa lớn khi những chiến công ấy được lập lên từ những vũ khí rất thô sơ! Bức tượng đài hoành tráng ấy càng lẫm liệt.
Xót xa thay! Họ đã ngã xuống! Sự hi sinh anh dùng của họ đã làm đau xót cả đất trời Nam Bộ:
Đoái sông Cần Giuộc, cỏ cây mấy dặm sầu giăng;
Nhìn chợ Trưởng Bình, già trẻ hai hàng lụy nhỏ.
Đất trời mờ mịt! Người người khóc thương! Nỗi sầu thảm này biết mây xót xa! Đằng sau cái chết của người anh hùng sẽ là:
Đau đớn bấy! Mẹ già ngồi khóc trẻ, ngọn đèn khuya leo lét trong lều; não nùng thay! Vợ yếu chạy tìm chồng, cơn bóng xế dật dờ trước ngõ.
Có thể nói, Nguyễn Đình Chiểu đã hòa máu và nước mắt để viết nên những câu văn não lòng như thế!
Mặc dù Nguyễn Đình Chiểu đã gạt lệ để ngợi ca tấm gương hi sinh oanh liệt của người chiến sĩ với tấm lòng son vằng vặc ánh trăng rằm, “sống đánh giặc, thác cũng đánh giặc, linh hồn theo giúp cơ linh, muôn kiếp nguyện được trả thù kia”, nghĩa là những con người ấy chết mà vẫn sống! Nhưng lòng chúng ta vẫn không sao ngăn được ngậm ngùi xót thương đau đớn!
Bức tượng đài bi tráng mà Nguyễn Đình Chiểu đã dựng nên bằng ngòi bút cùa mình sẽ mãi mãi tồn tại cùng non sông đất Việt! Đây là bức tượng đài đầu tiên về người nông dân đánh giặc! Chúng ta đều biết, người Việt ta từ khi biết dùng cành cây chọc lỗ gieo hạt cũng là lúc biết vót nhọn ngọn tầm vông, nhọn mũi chông tre để chống lại mọi kẻ thù bốn chân và kẻ thù hai chân! Họ thực là chủ nhân của đất nước. Nhưng trong văn học chính thống trước thời Nguyễn Đình Chiểu, họ chưa một lần trở thành nhân vật trung tâm! Nay Nguyễn Đình Chiểu đã trả lại địa vị chính đáng cho những người chân lấm tay bùn này. Nguyễn Đình Chiểu đã trở thành ngôi sao sáng trên bầu trời văn học nước ta cuối thế kỉ XIX có phần đóng góp xứng đáng của “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” ! “Văn tế nghĩa sĩ cần Giuộc” mãi mãi là “bài ca về những người anh hùng thất thế'’ (Phạm Văn Đồng).
Xin được thắp một nén tâm hương tưởng nhớ, hai lần tưởng nhớ, tưởng nhớ người anh hùng liệt sĩ, tưởng nhớ nhà thơ yêu nước Nguyễn Đình Chiểu.
Phân tích bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc để làm nổi bật vẻ đẹp của hình tượng những người nghĩa sĩ nông dân yêu nước – Bài làm 3
Nguyễn Đình Chiểu (1822-1888) một nhà nho yêu nước nồng nàn, căm thù giặc sâu sắc. Cuộc đời ông phải trải qua nhiều bi kịch đau khổ và bất hạnh. Có lẽ vì vậy mà hơn ai hết ông càng cảm nhận được nỗi đau mất nước khi thực dân Pháp sang xâm lược nước ta. Năm 1859 giặc Pháp tràn vào sông Bến Nghé chiếm thành Gia Định, ông phải vào quê vợ ở Thanh Ba, Cần Giuộc lánh tạm. Về phía thực dân Pháp sau khi chiếm được thành Gia Định chúng bắt đầu thực hiện quá trình mớ rộng cuộc tấn công ra các vùng lân cận. Cần Giuộc chẳng mấy chốc đã bị giặc Pháp tràn đến. Những người nông dân áo vải, chân lấm, tay bùn đã đứng dậy đấu tranh. Họ gia nhập nghĩa binh, sẵn sàng hi sinh vì nghĩa lớn. Trong số họ nhiều nghĩa sĩ đã hi sinh oanh liệt. Những tấm gương hi sinh đó đã gây nên niềm cảm kích lớn trong nhân dân. Đỗ Quang, tuần phủ Gia Định giao cho Nguyễn Đình Chiểu làm bài văn tế đọc tại buổi truy điệu hơn hai mươi nghĩa sĩ đã hi sinh trong trận đêm ngày 16-12-1861. Với lòng cảm phục và tình cảm xót thương vô hạn, Nguyễn Đình Chiểu đã viết bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc. Bài văn tế không những thể hiện được tình cảm xót thương vô hạn của tác giả và của nhân dân đối với các nghĩa sĩ cần Giuộc mà còn khắc họa lên vẻ đẹp chân thực, bi tráng mà rất đỗi hào hùng của những người nông dân yêu nước đánh Tây.
Hỡi ôi!
Súng giặc đất rền; lòng dân trời tỏ…
Khi Tổ quốc lâm nguy, khắp đất nước đều rền vang tiếng súng. Chính từ sự gian nguy, đau thương đó, tình yêu đất nước của những người nông dân bình thường mới được thể hiện, vẻ dẹp thực sự của tâm hồn trong họ mới được bày tỏ cùng trời đất.
Tấm lòng, tình yêu giang sơn, tổ quốc của những người nông dân bình dị càng được thể hiện một cách rõ rệt và sâu sắc hơn khi tác giả đã liên tục dùng biện pháp so sánh đối lập trong các câu văn tiếp sau.
Nhớ lính xưa:
Cui cút làm ăn; toan lo nghèo khó,
Chưa quen cung ngựa, đâu tới trường nhung;
Chỉ biết ruộng trâu, ở trong làng bộ.
Việc cuốc, việc cày, việc bừa, việc cấy, tay vốn quen làm;
Tập khiên, tập súng, tập mác, tập cờ, mắt chưa từng ngó…
Trước đây họ vẫn sống, vẫn tồn tại nhưng chỉ là “cui cút làm ăn”. Họ vẫn sống, vẫn tồn tại nhưng chỉ trong thầm lặng. Trong cuộc sống, họ có nỗi lo toan “miếng cơm manh áo” giản dị đời thường; họ chỉ quen làm lụng việc nhà nông: cày, bừa, cấy, hái, làm bạn với con trâu, với ruộng đồng. Họ chưa biết đến “cung ngựa”, “trường nhung”, chưa quen với “tập mác, tập cờ”. Những người nghĩa sĩ ở đây chỉ là những nông dân áo vải, chưa quen chiến trận, chưa được luyện rèn, chỉ vì lòng yêu chính ghét tà mà đứng lên đánh giặc.
Khi mà “tiếng phong hạc phập phồng hơn mươi tháng”, họ ngóng trông mệnh lệnh của triều đình: "trông tin quan như trời hạn trông mưa”.
Thì ra cái bi kịch xót xa là ở chỗ này: triều đinh nhu nhược, không hiểu được lòng dân yêu nước. Lòng căm thù giặc của những người nông dân thì không thể kiềm chế:
Mùi tinh chiên vấy vá đã ba năm, ghét thói mọi như nhà nông ghét cỏ.
… Bữa thấy bòng bong che trắng lốp, muốn tới ăn gan; ngày xem ống khói chạy đen xì, muốn ra cắn cổ.
Hình tượng người nông dân, những người nghĩa sĩ yêu nước hiện lên thật quả cảm hào hùng. Lòng yêu đất nước tha thiết xuất phát từ chính trái tim của họ đã khiến cho họ trở nên đẹp đẽ, lấp lánh.
Vẻ đẹp của những người nghĩa sĩ nông dân yêu nước được toát ra chính từ lòng căm thù giặc sục sôi. Chính lòng căm thù giặc đã biến thành hành động vùng lên quật khởi rất hào hùng.
Nào đợi ai đòi, ai bất, phen này xin ra sức đoạn kinh:
Chẳng thèm trốn ngược, trốn xuôi, chuyến này dốc ra tay bộ hổ.
Trong những tác phẩm phản đối chiến tranh phong kiến phi nghĩa trước đây, người nông dân khi phải đi làm lính biên thú phương xa để bảo vệ cương thổ của nhà vua, họ ra đi với tâm trạng và thái độ “bước chân xuống thuyền, nước mắt như mưa” thì ở đây, người nông dân của Nguyễn Đình Chiểu lại hoàn toàn khác. Họ tự giác, tự nguyện đứng lên chiến đấu để bảo vệ giang sơn, tổ quốc, ấy là nét đẹp bản chất nhất trong hành động của người nông dân – nghĩa sĩ Cần Giuộc. Đến đây không chỉ vẻ đẹp trong tâm hồn mà ngay cả vẻ đẹp trong hành động của những người nghĩa sĩ nông dân yêu nước cũng đã được Nguyễn Đình Chiểu khắc họa lên một cách rõ rệt. Từ cái động lực tinh thần tự nguyện gánh vác trách nhiệm lịch sử mà đã tạo ra cho họ sức mạnh vô cùng lớn. Họ đã hành động, đứng lên chông giặc ngoại xâm. Không chờ bày bố mà chỉ “ngoài cật có một manh áo vải nào dại mang bao tấu, bầu ngòi, trong tay cầm một ngọn tầm vông, chi nài sắm dao tu, nón gõ”. Hình ảnh người nông dân được hiện lên trong tác phẩm khiến cho chúng ta vừa cảm thấy tự hào và xen lẫn niềm xót xa. Những người nghĩa sĩ dường như đóng vai trò là hiện thân của cả một sức mạnh dân tộc. Đối mặt với kẻ thù lớn mạnh với “đạn nhỏ, đạn to”, “tàu thiếc, tàu đồng” với đội quán xâm lược nhà nghề, vậy mà vũ khí để họ dùng chống lại chỉ là “một manh áo vải", “một ngọn tầm vông”, chỉ có “lưỡi dao phay” và chỉ là nhừng “hỏa mai đánh bằng rơm con cúi”. Thử hòi rằng đem những thứ đó ra đối chọi với súng đạn của thực dân khác nào bước chân vào chỗ chết. Cái sự thật phũ phàng đó như phô bày ra trước mắt ta thật xót đau biết mấy. Đó là tấn bi kịch của những người nghĩa sĩ Cần Giuộc, cũng là tấn bi kịch của cuộc sống nước ta vào thời kì nghiệt ngã ấy. Tấn bi kịch này đã đưa đến cái họa mất nước kéo dái cả thế kỉ.
Nhưng cũng chính từ cái tấn bi kịch này mà đà làm sáng ngời lên vẻ đẹp hình tượng của những người nghĩa sĩ nông dân yêu nước. Bằng sự ngoan cường, lòng yêu nước nồng nàn, họ đã làm nên được những điều phi thường, chính họ đã cất lên dược bản anh hùng ca chiến tranh của dân tộc. Bất chấp sự hiểm nguy, bất chấp sự chênh lệch, sự đối lập của hoàn cảnh chiến đấu, họ vẫn quyết chiến và quyết thắng, lấy tinh thần xả thân vì nghĩa để bù đắp lại sự thiếu hụt, chênh lệch của mình với kẻ thù. Hoàn cảnh chiến đấu chênh lệch là vậy nhưng vì những người nghĩa sĩ chiến đâu bằng chinh tinh thần sự quyết chiến không sợ hi sinh nên hiệu quả chiến đấu lại vô cùng lớn.
Chỉ với những vũ khí thô sơ như:
Hỏa mai đánh bằng rơm con cúi, cũng đốt xong nhà dạy đạo kia,
Gươm đeo dùng bằng lười dao phay, cũng chém rớt đầu quan hai nọ.
Kẻ đâm ngang, người chém ngược, làm cho mã tà ma ni hồn kinh..
Chỉ với những vũ khí thô sơ, nhưng lòng yêu nước, tinh thần dân tộc đã tạo nên được những điều kì diệu. Hình ảnh người nghĩa sĩ nông dân hiện lên với một vẻ đẹp rực rỡ hào quang của chủ nghĩa yêu nước, dường như đã làm lu mờ đi cái thời kì đen tốì của lịch sử mất nước hồi nửa cuối thế kỉ XIX.
Bài văn tế như bức tượng đài bằng ngôn từ, tạc khác nên hình tượng những người nghĩa sĩ nông dân hào hùng mà bi tráng, tượng trưng cho tinh thần yêu nước, căm thù giặc ngoại xâm của cha ông ta. Bức tượng đài ấy là dấu mốc thể hiện cả một bi kịch lớn của dân tộc – bi kịch mất nước, và báo hiệu một thời kì lịch sử đen tôi của dân tộc ta – thời kì một trăm năm Pháp thuộc. Nhưng thật hào hùng, trong cái bi kịch lớn ấy, tinh thần bất khuất của nhân dân Nam Bộ nói riêng và nhân dân Việt Nam nói chung vẫn ngời sáng bởi cái lí tưởng cao đẹp của nghĩa sĩ cần Giuộc — họ sẵn sàng hi sinh vì nghĩa lớn, vì dân tộc.
Phân tích bài Văn Tế Nghĩa Sĩ Cần Giuộc của Nguyễn Đình Chiểu – Bài làm 4
Nguyễn Đình Chiểu được coi là ngôi sao sáng của nền văn học Việt Nam, ông có rất nhiều những đóng góp lớn lao và tiêu biểu trong những bài đó là những bài thơ nói về hình tượng người nông dân Việt Nam đó là bài Văn Tế Nghĩa Sĩ Cần Giuộc.
Những hình tượng nổi bật của người nông dân Việt Nam trong cách mạng đã tạo nên những khởi đầu lớn lao và tạo nên những yếu tố quan trọng và có ảnh hưởng lớn đến sự nghiệp thơ ca của ông, trong những sáng tác đó tiêu biểu là hàng loạt những hình tượng điển hình và tiêu biểu là nghệ thuật sáng tạo và những sáng tạo đó đã ghi lại dấu ấn cho chính bản thân mình, cuộc đời gắn bó với những khát khao và ước mơ là xây dựng và phục vụ cho nhân dân vì vậy những sáng tác của ông đã tràn ngập niềm tin về hình tượng người nông dân cách mạng, những người xuất thân từ những người yêu nước và có những ý chí riêng vì vậy họ luôn vững bước trên con đường của mình, nghệ thuật hình tượng tiêu biểu ở đây là cách xây dựng hình tượng, nghệ thuật thật bi tráng và nó mở ra một thời kì lịch sử to lớn và có sự ảnh hưởng mạnh mẽ tới người đọc hôm nay và mai sau.
Mỗi con người đều phấn đấu để đạt được những điều tưởng chừng như nhỏ bé nhưng nó lại vô cùng lớn lao, những niềm tin yêu về những người nông dân cách mạng, hình tượng người nông dân điển hình và tiêu biểu cho cả một sức mạnh to lớn đã góp phần mạnh mẽ tạo nên một niềm tin yêu nhẹ nhàng và sâu thẳm, hình ảnh người nông dân trong bài thơ này hiện lên thật hiên ngang nó mang một vẻ đẹp bình dị và có sức tạo hình gợi cảm mạnh mẽ mỗi con người đều rất anh hùng và tự hào về truyền thống quý giá của dân tộc, niềm tin yêu về một đất nước với muôn vàn khó khăn và thử thách nó gian lao, như vàng thử lửa vậy, nhưng điều đó không làm cho người nông dân nản bước vẫn vững tin trên con đường xưa và có ảnh hưởng mạnh mẽ tới người đọc hôm nay và mai sau, hình tượng thơ tiêu biểu ở đây là những người nông dân học là những con người bình thường, nhưng khi đất nước bị xâm lược học lại trở thành những con người anh hùng và sẵn sàng hy sinh cho một tổ quốc mến thương cả cuộc đời của họ đều gắn bó và có những đóng góp lớn cho sự nghiệp phát triển của đất nước, nó là một điều cực kì có sự ảnh hưởng lớn tới người đọc.
Nghệ thuật xây dựng hình tượng của tác giả đã làm gia tăng lên mức độ biểu đạt nhân vật trong lòng tác giả, ở đây tác giả đã tạo nên những điều lớn lao và nó thu hút mạnh mẽ những ảnh hưởng và những thu hút đáng kể trong lòng người đọc, hình tượng thơ mạnh mẽ và có sức thu hút tuyệt diệu, nó không chỉ tạo nên niềm tin yêu cho con người mà đây là hình tượng thơ hấp dẫn và nó thu hút sự chú ý cũng như niềm tin cho cả thế hệ về một sự thật đó là dù có chiến tranh bom đạn dội xuống thì với niềm tin yêu với đất nước chúng ta vẫn có thể vượt qua kẻ thù nào chúng ta cũng có thể đánh thắng. Văn tế nghĩa sĩ cần giuộc là bài thơ ngoài nêu lên hình tượng về một người anh hùng bi tráng thì còn có hình tượng thơ tiêu biểu và đó là những hình ảnh mang dấu ấn mạnh mẽ và chi tiết đó là những lòng căm hận của nhân dân ta đối với kẻ thù xâm lược ngoài những sự chiến đấu kiên cường đó thì nhân dân ta cũng biết chiến đấu và hy sinh cho một tổ quốc mến yêu nó là nền tảng tinh thần và là sức mạnh to lớn đối với một dân tộc mến thương và cũng mang sức mạnh to lớn mạnh mẽ ảnh hưởng đến niềm tin yêu của con người.
Những người nông dân này xuất phát từ những người chiến sĩ cần giuộc là người chân lấm tay bùn không ai biết đến nhưng khi có kẻ thù xâm lược thì xuất hiện bao anh hùng cứu nước, nó đã tạo nên những ảnh hưởng và sức sống mạnh mẽ ảnh hưởng tới người đọc, mang trong mình những niềm tin yêu đó nhân dân ta vẫn luôn ủng hộ và kiên cường chống lại kẻ thù, bao năm công vỡ ruộng vất vả chưa thành danh nhưng chỉ cần một trận đánh tây cũng đủ để công danh ngàn đời được mọi người biết đến, những điều tưởng chừng như lạ lẫm như tay họ vẫn chỉ quen với việc cầm cầy cuốc thì nay họ phải tập quen với sung, với mác…Hình tượng người nông dân nổi lên thật mạnh mẽ và sâu sắc nó mang một âm hưởng nhẹ nhàng và có sự ảnh hưởng tới những hình tượng thơ khác, chỉ với manh áo vải che thân, và những công cụ đánh giặc là những ngọn tầm bông nhưng họ vẫn tạo nên bao công trạng vẻ vang và nó thu hút sự ảnh hưởng mạnh mẽ của mọi người bởi sự gan dạ kiên trì vượt qua bao khó khăn gian nan vất vả.
Nơi chiến trường nguy hiểm, nó đã phản ánh được phần nào những nguy hiểm và gian nao trong con đường chiến đấu để bảo vệ tổ quốc, niềm tin sẽ chiến thắng sẽ tạo nên một sức mạnh cực kì to lớn và quan trọng cho con người, niềm tin về nhân dân, những người chiến sĩ áo vải đã tạo nên những chiến thắng vẻ vang cho con người và niềm tin yêu về một đất nước hào hùng đã kiên trì vượt qua khó khăn để tạo nên niềm tin yêu vững chắc và vang vọng trong tim mỗi con người, ở đâty hình ảnh người chiến sĩ cần giuộc đã làm gia tăng lên tinh thần chiến đấu nhẹ nhàng và cũng đầy ác liệt của dân ta, bao khó khăn gian khổ cũng vượt qua kẻ thù nào cũng đánh thắng, với những niềm tin to lớn đó nhân dân ta có đủ sức mạnh và niềm tin để chiến đấu với kẻ thù xâm lược, sự chiến đấu đó đem lại sức mạnh và niềm tin vững chắc cho nhân dân, mỗi một dân tộc đều xuất hiện những người anh hùng kiên trì và bền bỉ này.
Tiếng khóc thương cho những người đã hy sinh trong chiến tranh bao nhiêu người chiến sĩ của ta đã phải chết trong bom đạn đó là điều làm cho nhân dân ta cực khổ, và nó đem lại niềm tin yêu vững chắc cho muôn đời, đó là niềm tin sẽ giành được độc lập tự do. Bài thơ này có sự khóc thương cho những người đã hy sinh cho cả dân tộc Việt Nam, sự khóc thương để lại nhiều đau đớn chứ không hề có sự bi lụy, hình tượng thơ điển hình và nó mang một sức mạnh to lớn cho dân tộc Việt Nam, hình ảnh thơ có những chút nhẹ nhàng và nó gợi hình gợi cảm cho người đọc. Những tiếng khóc thương đó thật bi tráng và không có chút bi lụy bởi những người chiến sĩ của ta là người kiên trì bền bỉ chứ không hề có sự bi lụy nào ở đây, hình tượng thơ mang một âm vang nhẹ nhàng và sâu sắc trong lòng của tác giả, điều đó đã mang cho chúng ta những lời khóc thương nhưng nó không có bi lụy mà nó vô cùng tạo hình tượng và bi tráng trong hình ảnh con người.
Bài văn tế với việc áp dụng những hình thức nghệ thuật vào để tạo nên một hình tượng người nông dân Việt Nam đầy những chất bi tráng và vô cùng hùng vĩ nó tạo nên một hình tượng thơ hay và tiêu biểu đó là những hình ảnh bi tráng và những con người vệ quốc và đấu tranh cho một tổ quốc mến thương và cho một dân tộc hào hùng, những người chiến sĩ ca ngợi những người chiến sĩ sẵn sàng hi sinh vì tổ quốc và có nhiều những đóng góp lớn lao và nó ảnh hưởng đến hình tượng thơ và những hình tượng người nông dân nghĩa sĩ cần giuộc thể hiện trong tác phẩm này, những hình tượng đó tạo nên một sức mạnh, bài thơ đã nổi bật lên những hình tượng nghệ thuật tiêu biểu và nó ảnh hưởng đến những biện pháp nghệ thuật đặc sắc trong tác phẩm. Văn tế nghĩa sĩ cần giuộc là một bức tranh bi tráng và nó ảnh hưởng lớn đến hình tượng nghệ thuật trong tác phẩm, mỗi tác phẩm là một lời ca về những làn điệu nhẹ nhàng, nghệ thuật xây dựng hình tượng đó đặc sắc và mang lại âm vang nhẹ nhàng và nó đã mang cho mỗi con người chúng ta hiểu được sâu sắc những hình tượng thơ đó, điều đó làm cho mỗi người chúng ta có được cảm xúc và hình tượng thơ đó đã làm cho mỗi con người nổi bật và tiêu biểu.
Tiếng khóc bi tráng của tác giả đã xuất phát từ hình tượng thơ và mang những cảm xúc đặc biệt xuất phát từ cảm hứng của nhà thơ, đây là tấm lòng yêu nước của tác giả về một thời kì lịch sử hào hùng, và những người lính áo vải đã quyết tâm và nó giúp cho người đọc hình dung ra những hình tượng thơ tiêu biểu và mang đậm cảm xúc nhẹ nhàng và mang một âm hưởng hào hùng, xuất phát trong tâm hồn mỗi người đọc, đều có những cảm xúc riêng và nó ảnh hưởng đến những điều rất quan trọng trong tâm trí của thầy, hình tượng thơ ở đây không phải là những điều xa vời với thực tế nó gắn chặt với lợi ích của con người nơi đây.
Với ngôn ngữ bình dị Nguyễn Đình Chiểu đã tạo nên một phong cách thơ đặc sắc và tiêu biểu cho những hình tượng thơ đó là cảm xúc cũng như hình tượng thơ sâu sắc được thể hiện và làm nổi bật lên những hình tượng người anh hùng dân tộc xuất phát từ những nông dân áo vải.
Thu Thủy (Tổng hợp)