Phân tích truyện ngắn Chữ người tử tù – Nguyễn Tuân – Văn mẫu hay lớp 11
Xem nhanh nội dung Phân tích truyện ngắn Chữ người tử tù – Nguyễn Tuân – Bài làm 1 của một học sinh giỏi Văn tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu Nguyễn Tuân là một nhà văn lớn của nền văn học Việt Nam hiện đại. Nói đến Nguyễn Tuân là nói đến một nghệ sĩ tài hoa. Mỗi lời văn của Nguyễn ...
Xem nhanh nội dung
Phân tích truyện ngắn Chữ người tử tù – Nguyễn Tuân – Bài làm 1 của một học sinh giỏi Văn tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu
Nguyễn Tuân là một nhà văn lớn của nền văn học Việt Nam hiện đại. Nói đến Nguyễn Tuân là nói đến một nghệ sĩ tài hoa. Mỗi lời văn của Nguyễn Tuân đều là những nét bút trác tuyệt như một nét chạm khắc tinh xảo trên mặt đá quý của ngôn ngữ (Tạ Tỵ). Một trong những nét bút trác tuyệt đó là tác phẩm Chữ người tử tù. Nối bật lên trong tác phẩm là hình tượng nhân vật Huấn Cao và cảnh cho chữ – một cảnh tượng xưa nay chưa từng có.
Huấn Cao là nhân vật khá điển hình cho bút pháp lãng mạn. Chúng ta đều biết văn học lãng mạn thường mô tả theo những mẫu hình lí tưởng. Có nghĩa là nhà vàn thường thả trí tưởng tượng của mình để theo đuổi những vẻ đẹp hoàn hảo nhất. Bởi thế nhân vật viết theo lối lãng mạn có tầm vóc phi thường. Nó là biểu hiện cho những gì mà nhà văn mơ ước, khao khát. Huấn Cao là thế. Từ đầu đến cuối, ông hiện ra như một con người phi thường. Từ tài hoa đến thiên lương, từ thiên lương đến khí phách, nhất nhất đều có tầm vóc phi thường. Có thể nói Huấn Cao là một giấc mơ đầy tính nhân văn của ngòi bút Nguyễn Tuân.
Là nhân vật tài hoa nghệ sĩ, phẩm chất đầu tiên của Huấn Cao là tài hoa. Thiên truyện được mở đầu bằng cuộc đối thoại của hai nhân vật quản ngục và thơ lại. Ở đây tuy Huấn Cao hiện lên gián tiếp nhưng cũng đủ để cho ta thấy ông nổi tiếng với tài văn võ song toàn, uy danh đồn khắp cõi tỉnh Sơn. Cái tài được tô đậm nhất ở nhân vật này là tài viết chữ đẹp. Đó là nghệ thuật thư pháp – một bộ môn nghệ thuật truyền thống và cao siêu của dân tộc. Ở sự gửi gắm, kí thác toàn bộ những tâm nguyện sâu xa của mình. Bởi thế mỗi con chữ là một tác phẩm nghệ thuật sâu xa của mình. Bởi thế mỗi con chữ là một tác phẩm nghệ thuật, là sự kết tinh những vẻ đẹp tâm hồn của người viết. Mỗi con chữ là hiện thân của khí phách, của thiên lương và tài hoa. Chữ Huấn Cao thể hiện nhân cách Huấn Cao. Nó quý giá không chỉ vì được viết rất nhanh, rất đẹp, đẹp lắm, vuông lắm mà trước hết vì đó là những con chữ nói lên khát vọng tung hoành của một đời con người. Chính vì thế mà có được chữ của ông Huấn Cao đã trở thành tâm nguyện lớn nhất, thiêng liêng nhất của quản ngục. Để có được chữ Huấn Cao, quản ngục sẵn sàng đánh đổi tất cả, kể cả sự hi sinh về quyền lợi và sinh mệnh của mình. Nhưng Huấn Cao không chỉ là một đấng tài hoa, sâu xa hơn, ông còn có một tấm lòng – đó là tấm lòng biết quý trọng thiên lương của con người.
Một nhà văn nước ngoài đã nói về chân lí sâu xa. Hãy đập vào trái tim mình thiên tài là ở đó. Thì ra gốc của tài năng là ở trái tim, gốc của cái tài là cái tâm. Tấm lòng biết trọng thiên lương là gốc rễ của nhân cách Huấn Cao. Trong mắt Huấn Cao, quản ngục chỉ là một kẻ tầm thường không làm nghề thất đức. Bởi lí Huấn Cao đã thể hiện sự khinh bỉ không cần giấu giếm, đến khi nhận ra viên ngục là một thanh âm trong trẻo chen vào giữa bản đàn mà nhạc luật điều hỗn loạn xô bồ thì Huấn Cao rất ân hận. Bằng tất cả sự xúc động, Huấn Cao đã nói: Ta cảm cái tấm lòng biệt nhỡn liên tài của các ngươi… Thiếu chút nữa ta phụ một tấm lòng trong thiên hạ. Câu nói ấy đã hé mở cho chúng ta thấy phương châm của một nhân cách sống là phải xứng đáng với những tấm lòng.
Cảm hứng lãng mạn bao giờ cũng xui khiến các nghệ sĩ khắc họa những hình tượng sao cho hoàn hảo thậm chí đến mức phi thường. Ông Huấn Cao cũng thế. Nguyễn Tuân đã khiến cho hình tượng này trở thành một con người siêu phàm với việc tô đậm một khí phách siêu việt. Căm ghét xã hội thối nát, ông đã cầm đầu cuộc khởi nghĩa chống lại triều đình, sự nghiệp không thành, ông lĩnh án tử hình. Nhưng tù đày, gông cùm và cái chết cùng không khuất lạc được ông. Ông luôn tìm thấy ở những nơi mà tự do bị tước bỏ. Đối với Huấn Cao, mọi sự trói buộc, tra khảo, giam cầm đều vô nghĩa. Và khi quản ngục hỏi ông muốn gì để giúp, ông đã trả lời bằng sự khinh bạc đến điều… lời nói của ông có thể là nguyên cớ để ông phải rước lấy những trận trả đũa. Nhưng một khi đã nói nghĩa là ông không hề run sợ, không hề quy phục trước cường quyền và bạo lực. Có thể Huấn Cao sừng sững trong suốt cả thiên truyện như một khí phách kiên cường bất khuất, uy vũ bất năng khuất.
Những phẩm chất tuyệt vời đó của Huấn Cao đã chói sáng lên trong cảnh tượng cuối cùng mà Nguyễn Tuân đã gọi là cảnh tượng xưa nay chưa từng có – cảnh cho chữ. Cảnh cho chữ là sự biểu hiện sống động rực rỡ của tài hoa, thiên lương và khí phách của Huấn Cao.
Muốn hiểu được giá trị sâu sắc của cảnh cho chữ cho chúng ta không thể không nói tới quá trình dẫn đến cảnh cho chữ ấy. Người tinh ý sẽ dễ nhận thấy rằng câu chuyện có hai phần rõ rệt: Phần đầu giới thiệu các nhân vật và dẫn dắt câu chuyện chuẩn bị cho phần sau. Phần sau khắc họa cảnh cho chữ. Nếu không có phần hai thì phần đầu chỉ là những mẩu vụn vặt, thiếu sức sống. Bởi thế phần hai tuy ngắn nhưng lại là kết tinh của toàn bộ câu chuyện. Và bút lực của Nguyễn Tuân càng dồn vào phần này đậm nhất. Toàn bộ câu chuyện xoay quanh một tình huống đặc biệt. Đó là cuộc gặp hết sức éo le của Huấn Cao và quản ngục – Nơi gặp gỡ là nhà tù, thời gian là những ngày cuối cùng trước khi ra pháp trường của Huấn Cao. Những điều này làm cho tình thế trở nên ngặt nghèo, bức xúc, khó xoay sở. Nhưng oái ăm hơn cả vẫn là thân phận của hai nhân vật, về bình diện xã hội, họ là những kẻ đối địch. Một người là kẻ phản loạn, dám nổi dậy chống lại thể chế đương thời, còn người kia lại là một viên quan đại diện cho chính thể ấy. Nhưng về bình diện nghệ thuật, họ lại là hai người tri âm: Một người có tài viết chữ đẹp còn người kia lại vô cùng ngưỡng mộ cái tài đó. Sự trái ngược này đã đặt quản ngục trước sự lựa chọn nghiệt ngã: hoặc là muốn làm tròn bổn phận cua một viên quan thi phải chà đạp lên tấm lòng tri kỉ hoặc muốn trọn đạo tri kỉ phải phản bội lại chức phận của một viên quan. Quản ngục sẽ hành động như thế nào? Ông ta hành động như thế nào thì tư tưởng tác phẩm sẽ nghiêng về hướng đó.
Với một tương quan như vậy, quan hệ giữa họ ban đầu rất căng thẳng. Tâm nguyện lớn nhất của quản ngục là có được chữ của ông Huấn Cao nhưng đây là cơ hội cuối cùng. Còn Huấn Cao tuy có tài viết chữ nhưng lại chỉ cho chữ những ai ông cho là tri kỉ. Vậy muốn có chữ của Huấn Cao thì quản ngục phải được ông thừa nhận là tri kỉ trong vòng mấy ngày tới. Điều đó lại dường như không thể đạt được. Trong mắt Huấn Cao, quản ngục chỉ là kẻ tiểu nhân, giữa họ là một vực sâu ngăn cách. Thực ra quản ngục cũng có những ưu thế để đối xử với những người tù thông thường. Đó là ông ta có thừa quyền lực và tiền bạc. Nhưng Huấn Cao không phải hạng tiểu nhân như thế, quyền lực không ép được ông cho chữ, tiền bạc không mua được chữ ông. May thay ở viên quản ngục lại có một tấm lòng trong trẻo – tấm lòng biệt nhỡn liên tài. Và tấm lòng này đã khiến cho Huấn Cao cảm động. Sự cảm động này của Huấn Cao là cội nguồn dẫn đến cảnh cho chữ.
Vậy là việc Huấn Cao cho chữ không giống như việc trả nợ một cách tầm thường, không giống việc một kẻ sắp bị tử hình đang đem tài sản cuối cùng cho người sống, cũng không phải là cơ hội cuối cùng mà để Huấn Cao trình diễn tài năng, về bản chất việc cho chữ là sự xúc động của một tấm lòng trước một tấm lòng.
Và cảnh cho chữ được Nguyễn Tuân gọi đó là cảnh xưa nay chưa từng có. Bởi trước hết lẽ ra nó phải diễn ra ở nơi sang trọng, đàng hoàng thì nó lại diễn ra trong căn buồng giam chật hẹp, hôi hám, bẩn thỉu. Và người đem cho cái đẹp lẽ ra phải thuộc thế giới tự do thì ở đây lại là tử tù sắp bị hành hình. Đặc biệt ở đây diễn ra một sự đổi ngôi xưa nay chưa từng có. Kẻ cầm quyền hành trong tay thì bị tước hết quyền uy, khúm núm trước Huấn Cao, kẻ tưởng chừng bị mất hết quyền sống là ông Huấn Cao trở nên đầy quyền uy khi chăm chú tô đậm những nét chữ và cho quản ngục những lời khuyên. Và quản ngục vái lạy Huấn Cao như một bậc thánh nhân: Kẻ mê muội này xin bái lĩnh. Cảnh cho chữ lã khẳng định sự chiến thắng của cái đẹp, thiên lương trước cái xấu, cái ác. Trong căn phòng giam ẩm tháp đó, ánh sáng rực rờ của bó đuốc đã đẩy lùi bóng tối, mùi thơm của chậu mực đã xua đuổi mùi phân chuột, phân gián, màu trắng của tấm lụa bạch đã xóa tan sự u ám của nhà tù. Lúc này cái đẹp đang lên ngôi, cái đẹp đang đăng quang, chiến thắng hoàn toàn cái xấu. Trong những con người ấy lúc này chỉ còn là niềm kính trọng, tôn sùng cái đẹp. Và thiên lương của Huấn Cao đang tỏa sáng, soi đường dẵn dắt quản ngục – một kẻ nhầm đường, lạc lối. Qua đây tác giả cũng khẳng định rằng cái đẹp có thể tồn tại ở mọi nơi, mọi lúc, chiến thắng mọi cái xấu, cái ác. Và cái đẹp có thể cứu rỗi linh hồn con người, giúp con người hiểu nhau hơn, xích lại gần nhau hơn. Cái đẹp sẽ không mất đi ngay cả khi nó bị vùi dập. Đó là giá trị nhân văn của tác phẩm.
Với nghệ thuật vẽ mây, nảy trăng và nghệ thuật đối lập, Nguyễn Tuân đã làm nổi bật hình tượng Huấn Cao và khẳng định sự chiến thắng của cái đẹp. Đồng thời nhà văn còn sử dụng hệ thống ngôn ngữ cổ: biệt nhỡn liên tài, thiên lương, bái lĩnh, sở nguyện… mang lại cho truyện bầu không khí và nhịp điệu của thời phong kiến xa xưa, giúp nhà văn tái tạo câu chuyện của một thời vang bóng.
Phân tích tác phẩm Chữ Người Tử Tù (Nguyễn Tuân) – Bài làm 2
Nguyễn Tuân trước Cách mạng tháng Tám là một nhà văn duy mĩ. Ông yêu đến say đắm cái đẹp, ngợi ca cái đẹp, tôn thờ cái đẹp. Theo ông mĩ là đỉnh cao của nhân cách con người. Ông săn lùng cái đẹp không tiếc công sức. Ông miêu tả cái đẹp bằng kho ngôn ngữ giàu có của riêng ông. Những nhân vật hiện lên trong tác phẩm của Nguyễn tuân phải là hiện thân của cái đẹp. Đó là những con người tài hoa hoạt động trong những hoàn cảnh, môi trường đặc biệt, phi thường. Ông phát hiện, miêu tả cái đẹp bên ngoài và bên trong của nhân vật. Trong cái đẹp của ông bao gồm cái chân và thiện. Ông lại còn kết hợp mĩ với dũng. Truyện ngắn “Chữ người tử tù” (1939) trong tập “Vang bóng một thời” là áng văn hay nhất, tiêu biểu nhất của Nguyễn Tuân. Giá trị tư tưởng và dụng công nghệ thuật của Nguyễn Tuân được thể hiện chủ yếu trong đoạn văn tả “một cảnh tượng xưa nay chưa từng có”, cảnh tượng một người tử tù cho chữ một viên cai ngục.
Ông Huấn Cao trong truyện “Chữ người tử tù” là một nho sĩ tài hoa của một thời đã qua nay chỉ còn “vang bóng”. Nguyễn Tuân đã dựa vào nguyên mẫu nhà thơ, nhà giáo, một lãnh tụ của cuộc khởi nghĩa nông dân là Cao Bá Quát, một con người hết sức tài hoa và dũng khí phi thường để sáng tạo ra nhân vật Huấn Cao (Cao là họ, Huấn là dạy). Cao Bá Quát trước khi trở thành lãnh tụ nông dân cũng là thày giáo. Nguyễn Tuân đã dựa vào hai tính cách của nguyên mẫu để xây dựng nhân vật Huấn Cao. Cao Bá Quát, người viết chữ đẹp nổi tiếng và khí phách lừng lẫy. Xây dựng nhân vật Huấn Cao, Nguyễn Tuân vừa thể hiện lý tưởng thẩm mĩ của ông lại vừa thỏa mãn tinh thần nổi loạn của ông đối với xã hội đen tối tàn bạo lúc bấy giờ.
Truyện có hai nhân vật chính, một là ông Huấn Cao có tài viết chữ đẹp, một nữa là viên quản ngục say mê chữ đẹp của ông Huấn, quyết tìm mọi cách để “xin chữ” treo trong nhà. Lão coi chữ của Huấn Cao như báu vật.
Họ đã gặp nhau trong tình huống oái ăm là nhà ngục. Người có tài viết chữ đẹp lại là một tên “đại nghịch” cầm đầu khỏi nghĩa nông dân (triều đình gọi là nổi loạn, giặc) đang bị bắt giam chờ ngày thụ hình. Còn người mê chữ đẹp của ông Huấn Cao lại là một quản ngục đại diện cho cái trật tự xã hội ấy. Trên bình diện nghệ thuật họ là tri âm tri kỉ, trên bình diện xã hộ họ ở hai vị trí đối lập. Tình huống của truyện có tính kịch. Từ tình huống đầy kịch tính ấy, tính cách hai nhân vật được bộ lộ và tư tưởng chủ đề của truyện được thể hiện một cách sâu sắc.
Huấn Cao nói: “Ta nhất sinh không vì vàng ngọc hay quyền thế mà ép mình viết câu đối bao giờ”. Huấn Cao coi thường tiền bạc và uy quyền, nhưng Huấn Cao vui lòng cho chữ viên quản ngục vì con người sống giữa chốn bùn nhơ này, nơi người ta chỉ biết sống bằng tàn nhẫn, bằng lừa lọc lại có kẻ biết trọng người có nghĩa khí, biết tôn quý cái đẹp của chữ nghĩa “ta cảm cái tấm lòng biệt nhỡn liên tài của các người. Nào ta có biết đâu một người như thầy quản đây mà lại có những sở thích cao quí như vậy”. Viên quản ngục cũng không dễ gì nhận được chữ của Huấn Cao. Hắn đã bị nghi ngờ, bị đuổi. Có lần hắn mon men vào ngục định làm quen và biệt đãi Huấn Cao để xin chữ thì lại bị Huấn Cao cự tuyệt: “ngươi hỏi ta muốn gì? Ta chỉ muốn có một điều. Là nhà ngươi đừng đặt chân vào đây”. Về sau hiểu được tấm lòng của viên quản ngục, ông đã nói một lời sâu sắc và cảm động: “thiếu chút nữa ta đã phụ một tấm lòng trong thiên hạ”.
Coi khinh cường quyền và tiền bạc, Huấn Cao chỉ trọng nhứng tấm lòng biết quí cái đẹp, cái tài, có sở thích cao quý. Những con người ấy theo Huấn Cao là còn giữ được “thiên lương”. Ông khuyên viên quản ngục bỏ cái nghề nhơ bẩn của mình đi “ở đây khó giữ được thiên lương cho lành vững và rồi cũng đến nhem nhuốc mất cả đời lương thiện đi”.
Huấn Cao còn đẹp ở khí phách. Ông là một người tử tù gần đến ngày tử hình vẫn giữ được tư thế hiên ngang, đúng là khí phách của một anh hùng Cao Bá Quát. “Đêm hôm ấy, lúc trại giam tỉnh Sơn chỉ còn vẳng có tiếng mõ trên vọng canh, một cảnh tượng xưa nay chưa từng có đã bày ra trong một buồng tối chật hẹp, ẩm ướt, đầy mạng nhện, đất bừa bãi phân chuột, phân gián”. Tác giả cố ý miêu tả bằng cách tương phản giữa tính cách cao quí của Huấn Cao với cái dơ dáy, bẩn thỉu của nhà tù, một hình ảnh thu nhỏ của xã hội thời bấy giờ.
Vẻ đẹp rực rỡ của Huấn Cao hiện lên trong đêm viết chữ cho viên quản ngục. Chính trong tình tiết này, cái mĩ và cái dũng hòa hợp. Dưới ánh đuốc đỏ rực của một bó đuốc tẩm dầu, “một người tù cổ đeo gông, chân vướng xiềng, đang dậm tô nét chữ trên tấm lụa trắng tinh căng trên mảnh ván. Người tù viết xong một chữ, viên quản ngục lại vội khúm núm cất những đồng tiền kẽm đánh dấu ô chữ trên phiến lụa óng”. Hình ảnh người tử tù trở nên ***g lộng. Viên quản ngục và viên thư lại trở nên nhỏ bé, bị động, khúm núm trước người tử tù.
Vì sao Nguyễn Tuân lại nói đây là một “cảnh tượng xưa nay chưa từng có”?
Cảnh tượng này quả là lạ lùng, chưa từng có vì trò chơi chữ nghĩa thanh tao có phần đài các lại không diễn ra trong thư phòng, thư sảnh, mà lại diễn ra nơi ngục tối chật hẹp, bần thỉu, hôi hám.
Cảnh tượng lạ lùng chưa từng thấy là hình ảnh tên tử tù cho chữ thì nổi bật lên uy nghi lộng lẫy, còn viên quản ngục và thư lại, những kẻ đại diện cho xã hội đương thời thì lại khúm núm run rẩy.
Điều đó cho thấy rằng trong nhà tù tăm tối, hiện thân cho cái ác, cái tàn bạo đó, không phải cái ác, cái xấu đang thống trị mà chính cái Đẹp, cái Dũng, cái Thiện, cái cao cả đang làm chủ. Với cảnh cho chữ này, cái nhà ngục tăm tối đã đổ sụp, bởi vì không còn kẻ phạm tội tử tù, không có quản ngục và thư lại, chỉ có người nghệ sĩ tài hoa đang sáng tạo cái đẹp trước đôi mắt ngưỡng mộ sùng kính của những kẻ liên tài, tất cả đều thấm đẫm ánh sáng thuần khiết của cái đẹp, cái đẹp của thiên lương và khí phách. Cũng với cảnh này, người tử tù đang đi vào cõi bất tử. Sáng mai ông sẽ bị tử hình, nhưng những nét chữ vuông vắn, tươi đẹp hiện lên cái hoài bão tung hoành cả một đời của ông trên lụa bạch sẽ còn đó. Và nhất là lời khuyên của ông đối với tên quản ngục có thể coi là lời di huấn của ông về đạo lí làm người trong thời đại nhiễu nhương đó. Quan niệm của Nguyễn Tuân là cái Đẹp gắn liền với cái Thiện. Người say mê cái đẹp trước hết phải là người có thiên lương. Cái Đẹp của Nguyễn Tuân còn gắn với cái Dũng. Hiện thân của cái Đẹp là hình tượng Huấn Cao với khí phách lừng lẫy đã sáng rực cả trong đêm cho chữ trong nhà tù.
Bên cạnh hình tượng Huấn Cao lồng lộng, ta còn thấy một tấm lòng trong thiên hạ. Trong đêm cho chữ, hình ảnh viên quản ngục cũng cảm động. Đó là âm thanh trong trẻo chen vào giữa một bản đàn mà nhạc luật đều hỗn loạn xô bồ. Cái tư thế khúm núm, giọng nói nghẹn ngào, cái cúi đầu xin bái lĩnh và cử chỉ run run bưng chậu mực không phải là sự quỵ lụy hèn hạ mà là thái độ chân thành khiến ta có cảm tình với con người đáng thương này.
Đoạn truyện ông Huấn Cao cho chữ là đoạn văn hay nhất trong truyện ngắn “Chữ người tử tù”. Bút pháp điêu luyện, sắc sảo khi dựng người, dựng cảnh, chi tiết nào cũng gợi cảm, gây ấn tượng. Ngôn ngữ Nguyễn Tuân biến hóa, sáng tạo, có hồn, có nhịp điệu dư ba. Một không khí cổ kính trang nghiêm đầy xúc động, có phần bi tráng toát lên trong đoạn văn.
“Chữ người tử tù” không còn là “chữ” nữa, không chỉ là Mỹ mà thôi, mà “những nét chữ tươi tắn nó nói lên những hoài bão tung hoành của một đời người”. Đây là sự chiến thắng của ánh sáng đối với bóng tối. Đấy là sự chiến thắng của cái đẹp, cái cao thượng, đối với sự phàm tục nhơ bẩn, cũng là sự chiến thắng của tinh thần bất khuất trước thái độ cam chịu nô lệ. Sự hòa hợp giữa Mỹ và Dũng trong hình tượng Huấn Cao là đỉnh cao nhân cách theo lí tưởng thẩm mĩ của Nguyễn Tuân, theo triết lí “duy mĩ” của Nguyễn Tuân.
Phân tích chữ người tử tù của Nguyễn Tuân – Bài làm 3
A – MỞ BÀI
Truyện ngắn Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân có nguyên mẫu lịch sử từ cuộc đời Cao Bá Quát (1855), một danh sĩ đời Nguyễn mà tài văn thơ và tính cách ngang tàng đã trở thành huyền thoại.
Nguyễn Tuân vốn là một người đề cao chữ “ngông” – một phản ứng với thời đại và cũng là một nhà văn có phong cách nghệ thuật độc đáo. Do đó Huấn Cao đã thừa hưởng hay nói đúng hơn là phiên bản của hai con người rất tài hoa và đầy khí phách. Đặt trong hoàn cảnh đen tối trước Cách mạng tháng Tám, việc Nguyễn Tuân ca ngợi Huấn Cao có tài, có tâm, có khí phách chính là một ẩn dụ để nhà văn bày tỏ niềm cảm phục với những người đương thời đang dũng cảm chiến đấu vì nước quên mình.
B – THÂN BÀI
1) Một con người tài hoa
Hình tượng Huấn Cao hiện lên trong tác phẩm trước hết là vẻ đẹp của một người có tài viết thư pháp. Đây là những thủ pháp tinh thông điêu luyện để viết chữ đẹp. Thời xưa, chữ Hán vốn được coi là chữ của thánh hiền và thứ chữ khối vuông ấy có người thì viết như rồng bay phượng múa, có người thì viết cứng cỏi sắc sảo cho nên chẳng những nó có tính tạo hình mà còn ít nhiều biểu hiện tính cách của người viết. Có chữ thánh hiền ở trong bụng đã là con người được tôn trọng. Viết chữ thánh hiền mà không ai bắt chước thì đó là người đặc biệt được tôn trọng trong văn hóa của người xưa. Vì thế thưởng thức chữ đẹp đòi hỏi phải có văn hóa cao, có khả năng thẩm mĩ tinh tế. Chơi chữ trở thành một thú vui tao nhã bậc nhất của người xưa. Có điều thưởng thức chữ đẹp đã khó, sáng tạo chữ đẹp khó gấp bội phần (viết, chạm, khắc thành câu đối, thành hoành phi, thành những bức trung đường; có khi thành bộ tứ bình hay là bức châm…). Do đó người viết chữ đẹp đượccoi là nghệ sĩ và việc sáng tạo ra chữ đẹp đối với người xưa là một thứ nghệ thuật siêu việt.
Trong truyện ngắn này Huấn Cao chính là một nghệ sĩ sáng tạo cái đẹp, Nguyễn Tuân không trực tiếp miêu tả “tay tiên thảo những nét” của Huấn Cao. Nên nhớ rằng Nguyễn Tuân vốn rất thích chi li và luôn muốn quan sát đối tượng một cách trực tiếp. Đọc Người lái đò sông Đà thìrõ.
Nguyễn Tuân đãdùng cái thủ thuật “vẽ mây nẩy trăng” một cách gián tiếp qua lời kể chuyện đầy cảm phục của viên quản ngục và viên thơ lại. Ngay khi Huấn Cao chưa đến nhà giam thì quản ngục đã chú ý nét đặc biệt của nhân vật Huấn Cao “người mà vùng tỉnh Sơn vẫn khen cái tài viết chữ rất nhanh và rất đẹp… Chữ ông Huấn Cao đẹp lắm… Có được chữ ông Huấn mà treo là có một báu vật trên đời”.
Thực ra trong toàn bộ tác phẩm, những băn khoăn tính toán, những mưu mẹo, những biệt đãi, những đau khỗ nhẫn nhục, những hốt hoảng tuyệt vọng và rồi hi vọng được nhen lên, rồi hồi hộp thành kính của viên quan ngục, là những thủ pháp nghệ thuật đầy hiệu quả để Nguyễn Tuân ca ngợi cái tài hoa vừa quý vừa hiếm của ông Huấn Cao.
2) Cái tâm cao cả
Một kì tài như Nguyễn Du khi khép lại Truyện Kiều đã nói những điều gan ruột “Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài”. Có lẽ Nguyễn Tuân cũng rất đồng ý với suy ngẫm của cụ Tố Như và đã xây dựng tính cách ông Huấn Cao nghiêng hẳn về chữ “tâm”. Nên nhớ rằng Nguyễn Tuân rất cực đoan trong việc miêu tả ca tụng hết lời những người có tài. Nói chính xác hơn cái “tài” luôn là cảm hứng chủ đạo trong các sáng tác của Nguyễn Tuân.
Đọc Chữ người tử tù cảm giác của độc giả kính mến trân trọng Huấn Cao có lẽ không phải vì tài mà có lẽ ở tấm lòng ông ta. Nhân vật Huấn Cao sáng ngời nhất trong sự nghiệp của Nguyễn Tuân có lẽ là nhờ sự nghiêng lệch của chữ “tâm” này. Huấn Cao được tác giả thể hiện và ca ngợi cái tài của ông luôn đi với cái tâm và Huấn Cao coi trọng trước hết là chữ “tâm” (tâm hồn, đạo đức, nhân cách).
Đối với Huấn Cao chữ đẹp không phải là ở kiểu chữ, ở cách viết mà quan trọng là nội dung của nó, ý nghĩa của nó. Nó có thể biểu hiện những phẩm chất trong sáng nói lên những ước mơ khát vọng cao đẹp của một đời người. Huấn Cao có ý thức rõ rệt khi sử dụng cái tài của mình. Ông biết chọn người để cho chữ “tính ông vốn khoảnh, trừ chỗ tri kỉ, ông ít chịu cho chữ”. Ông không hề vì vàng ngọc và những kẻ có quyền thế cũng không bao giờ ép được ông viết chữ. Xét trong mối quan hệ giữa tài và tâm như thế việc Huấn Cao cho chữ người quản ngục là rất khác thường. Bởi vì chính Huấn Cao đã nói “Đời ta cũng mới viết có hai bộ tứ bình và một bức trung đường cho ba người bạn thân của ta thôi”.
Ở đây, quản ngục là kẻ thù của Huấn Cao, là đại diện trực tiếp cho cái triều đình thối tha đã ra bản án tử hình ông. Tuy nhiên, nếuhiểu diễn biến câu chuyện sẽ thấy cái tâm của Huấn Cao thể hiện nổi bật trong việc ông phát hiện và cảm nhận cái tâm của viên quản ngục và viên thơ lại. Mới đầu thấy viên quản ngục biệt đãi mình, Huấn Cao nghi ngờ đấy chính là âm mưu đen tối “hay là hắn muốn đến dò những điều bí mật của ta”. Và vì thế Huấn Cao tỏ thái độ khinh bỉ đến mức tàn nhẫn “Người hỏi ta muốn gì? Ta chỉ muốn có một điều là nhà ngươi đừng đặt chân vào đây”. Sau đó nghe viên thơ lại kể về tâm sự và nguyện vọng xin chữ của quản ngục, Huấn Cao hết sức xúc động “Ta cảm cái tấm lòng biệt nhỡn liên tài của các người. Nào ta có biết đâu một người như thầy quản đây mà lại có những sở thích cao quý như vậy. Thiếu chút nữa ta phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ”. Như vậy một con người biết coi khinh vàng ngọc như Huấn Cao nhưng rất sợ “một tấm lòng”, rất sợ mình phụ tình người. Dĩ nhiên đó là con người có chất người nhiều nhất, ở đây Huấn Cao trân trọng tấm lòng biết yêu cái đẹp biết quý cái tài, có sở thích cao đẹp. Theo Huấn Cao đó là tấm lòng của những con người còn giữ được thiên lương “là thanh âm trong trẻo giữa một bản đàn mà nhạc luật đều hỗn loạn xô bồ”.
Có thể thấy Huấn Cao, viên quản ngục, viên thơ lại, tuy ba người ở ba vị trí khác nhau nhưng họ đều gặp nhau ở một điểm chung đó là cái đẹp. Một người biết sáng tạo cái đẹp; một người yêu quý và biết thưởng thức cái đẹp; một người ngưỡng mộ và tôn kính cái đẹp. Cả ba người đều đã chứng tỏ cái đẹp cố một sức mạnh kì diệu. Nó có thể làm cho những người khác nhau về mọi phương diện (đặc biệt là vị trí xã hội) gặp gỡ nhau có sự giao cảm với nhau về tâm hồn. Nói chính xác cái tâm, cái thiên lương cao cả của Huấn Cao đã gặp được cái tâm cái thiên lương đẹp đẽ của viên quản ngục, của viên thơ lại – những người tưởng như là kẻ thù của Huấn Cao.
3) Khí phách anh hùng
Hình tượng Huấn Cao còn hiện lên trong tác phẩm với vẻ đẹp của khí phách anh hùng. Đấy là khí phách chân chính của kẻ sĩ không sợ cái chết, khí phách hiên ngang bất khuất của Cao Bá Quát. Khi Huấn Cao chưa đến nhà giam tỉnh Sơn Tây, chỉ qua những lời trò chuyện của viên quản ngục và viên thơ lại “Y văn võ đều có tài… một tên tù có tiếng là nguy hiểm…” người đọc có thể hình dung những hoạt động anh hùng của Huấn Cao trong cõi đời tự do. Tiếp đó là sự xuất hiện của Huấn Cao trước cửa nhà giam đã cho thấy một tính cách mạnh mẽ ngang tàng. Ở đây thái độ của Huấn Cao là thái độ của một người làm chủ tình thế chứ không phải là một người tử tù đang mang trên vai chiếc gông nặng trĩu. Ông nói với những người bạn tù “rệp cắn tôi đỏ cả cổ lên rồi, phải dỗ gông đi”. Sau đó trước lời đe dọa của tên lính áp giải, Huấn Cao vẫn lãnh đạm không thèm chấp chỉ “chúc mũi gông nặng, khom mình thúc mạnh đầu thanh gông xuống thềm đả tảng đánh thuỳnh một cái”.
Câu nói và hành động ấy không chỉ là sự ngang nhiên, coi khinh bọn lính giải tù mà là sự biểu thị ý chí tự do, muốn làm việc gì thì làm bằng được.
Như vậy Huấn Cao là người bị tù đày về thể xác nhưng vẫn hoàn toàn tự do về tính cách và tư tưởng. Ông là “khách tự do” trong điều kiện nhà tù nghiệt ngã. Tất cả những điều đó gợi liên tưởng đến đôi câu đối vẻ ngỗ ngược ngang tàng của Cao Bá Quát.
Một chiếc cùm lim chân có Đế
Ba vòng xích sắt đứng thì Vương
Những chuỗi ngày trong chốn lao tù chờ ra pháp trường, Huấn Cao vẫn giữ được tư thế cứng cỏi, ung dung đường hoàng trong cách ứng xử. Ông vẫn thản nhiên, vẫn cố ý trả lời viên quản ngục bằng cái giọng “làm ra khinh bạc”. Huấn Cao bình tĩnh “đợi trận lôi đình báo thù và những thủ đoạn tàn bạo của quản ngục bị sĩ nhục”. Ông không hề sợ hãi bởi vì “đến cảnh chết chém ông còn chẳng sợ nữa là những trò tiểu nhân thị oai này”. Cùng với tính cách cứng cỏi như thế khi nhận được tin sắp bị giải về kinh chịu án tử hình, Huấn Cao trầm ngâm rồi mỉm cười tưởng như trong giây phút đó ông đã quên cảnh ngộ bi thảm của mình để nghĩ tới cái sở nguyện của viên quan coi ngục là có một ngày kia được treo ở nhà riêng mình một câu đối do ông Huấn Cao viết. Chính vì thế Huấn Cao đã đồng ý cho chữ người quản ngục. Có lẽ bằng hành động ấy ông muốn truyền lại cái tài, cái tâm và khí phách cao đẹp của mình cho người đời sau.
4) Cảnh cho chữ
Tất cả vẻ đẹp của hình tượng Huấn Cao được thể hiện tập trung nhất trong cảnh cho chữ. Đấy cũng là tình tiết khắc họa sâu sắc nhất chủ đề tư tưởng của tác phẩm. Trước hết cảnh tượng xưa nay chưa từng có ấy đã diễn ra trong phòng giam của một kẻ tử tù. Chỉ vài nốt bút vẽ khéo léo, Nguyễn Tuân đã tạo ra vẻ trang nghiêm cổ kính và có phần huyền bí kết hợp với việc cho chữ “trong một không khí khói tỏa như đám cháy nhà, ánh sáng đỏ rực của một bó đuốc tẩm dầu rọi lèn ba cái đầu người đang chăm chú”. Không những thế, Nguyễn Tuân còn sử dụng thủ pháp đối lập, tương phản. Một bên là “tấm lụa bạch còn nguyên vẹn lần hồ”, rất mới mẻ sạch sẽ, nơi con người sẽ sáng tạo cái đẹp và nâng niu cái đẹp. Đối lập với “trong một buồng tối chật hẹp, ẩm ướt, tường đầy mạng nhện, đất bừa bãi phân chuột, phân gián”. Đấy là hình ảnh tượng trưng cho sự xấu xa. Ánh sáng ngọn lửa làm cho cái xấu xa đáng kinh tởm mờ dần, nhường chỗ cho tấm lụa mỗi lúc một sáng đẹp lên, mỗi lúc càng có ý nghĩa hơn lên. Nguyễn Tuân rất có dụng ý miêu tả quá trình: bắt đầu là “tấm lụa bạch”, tiếp theo “người tù đậm tô nét chữ trên tấm lụa trắng tinh”. Cứ mỗi nét chữ được viết thì tấm lụa chuyển thành phiến lụa óng. Khi những nét chữ cuối cùng kết thúc, tấm lụa trở thành “bức lụa trắng trẻo với những nét chữ vuông vắn”. Cái tài, cái tâm của Huấn Cao được trọn vẹn nhất khi tấm lụa trở thành bức châm khiến cho cả ba người chỉ cần nhìn nó rồi nhìn nhau đã hiểu tấm lòng tri kỉ.
Sự đối lập tương phản ở nơi nào cho chữ càng làm tăng thêm tínhchất tương phản trong cảnh cho chữ (giữa người cho chữ và kẻ xin chữ). Một bên là Huấn Cao, người tử tù, người đứng đầu bọn phản nghịch “cổ đeo gông, chân vướng xiềng đang đậm tô nét chữ”. Một bên là viên quản ngục và viên thơ lại, những kẻ coi tù, những kẻ đại diện cho triều đình bấy giờ. Hành động “run run bưng chậu mực” là thái độ ngưỡng mộ đầy vẻ tôn kính. Trong thế tương phản như vậy, Huấn Cao hiện ra như một nghệ sĩ tài hoa với một tư thế uy nghi lồng lộng đang ban phát cái đẹp. Sự có mặt của ông tượng trưng cho cái đẹp cao cả. Còn viên quản ngục và viên thơ lại biểu hiện cho tư thế của kẻ chịu ơn, những kẻ nhận sự ban phát cái đẹp. Điều kì diệu là dù có sự tương phản đối lập nhưng ở đây quyền uy lớn nhất chính là cái đẹp đã thống nhất “tam vị nhất thể”. Đây quả là một cảnh tượng chưa từng có, một tấm lòng đền đáp một tấm lòng trong thiên hạ, một tấc lòng son của kẻ tri âm dành cho kẻ tri kỉ được tiến hành trong một khung cảnh không thích hợp chút nào.
Huấn Cao không chỉ hiện ra như một nghệ sĩ tài hoa mà còn như một kẻ sĩ cứng cỏi, có phẩm tiết trong sáng, có cái tâm cao cả, có tinh thần bất khuất. Chính con người rất hiên ngang trước cường quyền bạo ngược, rất coi khinh vàng ngọc, quyền thế ấy cũng là người rất trân trọng và tinh tế trong việc đối xử với người tốt. Cảnh cho chữ đã hiện lên vẻ đẹp của một tấm lòng trọng nghĩa, một cách ứng xử cao thượng đầy tinh thần văn hóa.
Những người nghĩa sĩ anh hùng xưa bao giờ cũng coi trọng đạo nghĩa. Vì chữ nghĩa, vĩ ân trả oán mà họ sẵn sàng coi khinh cái chết. Huấn Cao phát hiện được một nhân cách trong sáng giữa chốn tối tăm. ông không muốn nhân cách ấy bị bóng tối lao tù làm cho u ám. Ông ân cần khuyên bảo viên quản ngục bằng những lời tâm huyết “Ở đây lẫn lộn. Ta khuyên thầy Quản nên thay chốn ở đi. Chỗ này không phải là nơi để treo một bức lụa trắng…”. Như vậy Huấn Cao không chấp nhận cái đẹp, cái tài lại chung sống lẫn lộn với cái xấu, cái ác. Ông càng không thể chấp nhận một người vừa biết yêu cái đẹp lại vừa dù là bắt buộc phải “nhúng tay vào chàm”. Do đó muốn yêu quí thưởng thức cái đẹp, muốn chăm lo cho nó thì trước hết phải giữ lấy điều thiện ở đời “Tôi bảo thực đấy, thầy Quản nên tìm về quê mà ở đã, thầy hãy thoát khỏi cái nghề này đi đã, rồi hãy nghĩ đến chuyện chơi chữ. Ở đây khó giữ thiên lương cho lành vững và rồi cũng đến nhem nhuốc mất cái đời lương thiện đi”. Tuy đang trong vai trò của một kẻ tử tù, đang bị uy quyền phong kiến đè bẹp nhưng Huấn Cao vẫn sáng rực rỡ như một con người tự do chủ động với giọng nói của bậc đàn anh. Có lẽ đây cũng là “lời châm” để vạch hướng chỉ đường giải thoát cho người tù chung thân: viên quản ngục.
Điều lạ lùng xưa nay chưa từng xảy ra không phải chỉ vì việc cho chữ (vốn là một thú chơi tao nhã có phần đài các) mà nó diễn ra trong không gian tồi tệ, hơn thế nơi tù ngục bẩn thỉu này không phải cái ác, cái xấu làm chủ tình thế. Trái lại cái Đẹp – cái Thiện – cái Cao cả đã chiến thắng và tỏa sáng. Tất cả đều thấm đẫm trong ánh sáng thuần khiết của vẻđẹp, của thiên lương và khí phách. Đấy cũng chính là chiến thắng vĩ đại của tinh thần bất khuất so với thái độ nô lệ cam chịu.
Và lúc này đã có một sự thay đổi ngôi diễn: kẻ tử tù như một giáo chủ ban ơn khuyên dạy điều hay lẽ phải, còn kẻ coi tù như một đệ tử lễ phép, một người chịu ơn thành kính.
Nếu nói Huấn Cao chẳng hề sợ gì e không ổn. Thực ra người mà Huấn Cao sợ chính lại là kẻ đang vái mình và nói qua dòng nước mắt. Thái độ ấy khiến ta chọt nhớ đến câu thơ nổi tiếng của họ Cao “Nhất sinh đề thủ bái mai hoa”. Cảnh cho chữ diễn ra thật, cảm động khi ngục quan “vái người tù một vái, chắp tay nói một câu: “Kẻ mê muội này xin bái lĩnh”. Tự xưng là kẻ mê muội tức là viên quan đã chấp nhận lời khuyên của Huấn Cao. Cử chỉ bái lạy người tử tù không chỉ nâng cao nhân cách Huấn Cao mà còn làm thăng hoa tính cách đẹp đẽ của chính viên quản ngục. .
C – KẾT BÀI
Đọc truyện ngắn Chữ người tử tù ta thấy bao phủ một không khí trang nghiêm cổ kính có phần bi tráng. Tác phẩm cho thấy Nguyễn Tuân không chỉ am hiểu sâu sắc và rất yêu quí những điều cao đẹp mà còn có ngòi bút điêu luyện đầy nghệ thuật để làm sống lại những con người, những cảnh sinh hoạt ngày xưa. Chính điều đó càng tăng thêm vẻ đẹp cho hình tượng Huấn Cao. Có thể khẳng định rằng truyện ngắn này như một áng văn yêu nước trong hoàn cảnh mất nước.
Phân tích tác phẩm Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân – Bài làm 4
Chữ người tử tù là một trong những thiên truyện xuất sắc nhất của Nguyễn Tuân và tiêu biểu nhất cho tư tưởng cũng như phong cách nghệ thuật của ông trước Cách mạng tháng Tám 1945.
Tác phẩm ra mắt lần đầu trên tạp chí Tao đàn, số 1 (1938) lấy tên Giòng chữ cuối cung, với lời đề từ : ""Ngày xưa có một tử tù viết chữ đại tự rất đẹp" – Truyện cổ nước Nam".
Năm 1940, tác phẩm được in lại trong tập Vang bóng một thời và đổi tên là Chữ người tử tù.
1. Nguyễn Tuân là một cây bút có phong cách nghệ thuật rất độc đáo và sâu sắc. Ông luôn luôn tiếp cận thế giới, tiếp cận sự vật nghiêng về phương diện văn hoá nghệ thuật, phương diện thẩm mĩ, và tiếp cận con người nghiêng về phương diện tài hoa nghệ sĩ. Thế giới nhân vật của ông cũng có hai hạng chính diện và phản diện, nhưng có tiêu chí phân loại riêng (cũng nghiêng về phương diện thẩm mĩ) : đấy là những con người, hoặc tạo ra cái đẹp và say mê cái đẹp, hoặc đối lập với cái đẹp, chà đạp lên cái đẹp. Đặc điểm này thấy rất rõ trong Chữ người tử tù.
Nhân vật chính diện ở đây là Huấn Cao, quán ngục và viên thơ lại. Huấn Cao là một nghệ sĩ tài hoa trong nghệ thuật thư pháp : "Chữ ông Huấn Cao đẹp lắm, vuông lắm […] có được chữ ông Huấn mà treo là có một báu vật trên đời". Quản ngục và viên thơ lại không tạo ra được cái đẹp, nhưng say mê cái đẹp đến mức "lo mai mốt đây, ông Huấn Cao bị hành hình mà không kịp xin được mấy chữ, thì ân hận suốt đời”. Còn nhân vật phản diện là tất cả đám nhân sự còn lại của nhà ngục "sống bằng tàn nhẫn, bằng lừa lọc”.
2. Một trong những khâu quan trọng nhất của nghệ thuật truyện ngắn là sáng tạo tình huống truyện độc đáo. Mỗi truyện ngắn thường dược kết cấu xoay quanh một tình huống. Đặt vào tình huống ấy, tâm lí, tính cách nhân vật tự bộc lô rõ nét, đồng thời chủ đề tác phẩm cũng thể hiện sâu sắc. Ngoài ra, tình huống truyện còn có tác động tới kịch tính của tác phẩm, tạo thêm sức hấp dẫn cho thiên truyện.
Tình huống truyện của Chử người tử tù là gì ? Ấy là một tình huống khá éo le : những nhân vật sau này sẽ là tri âm tri kỉ (ông Huấn Cao, quản ngục và viên thơ lại) lại bị đặt vào hai vị thế đối địch : tử tù và cai ngục.
Nhưng phải có tình huống này thì tính cách các nhân vật mới bộc lộ rõ.
Không có tình huống đó thì làm sao biết được tinh thần hiên ngang, bất khuất của Huấn Cao. Khi coi viên quản ngục chỉ như mọi tên cai ngục khác, nghĩa là kẻ đại diện trực tiếp cho chính quyền phi nghĩa, bất lương, ông đã cố tình tỏ thái độ khinh bạc : đối lại thái độ mềm mỏng của quản ngục, ông đã ném ra những lời lẽ rất khó chịu :
" – Ngươi hỏi ta muốn gì ? Ta chỉ muốn có một điều. Là nhà ngươi đừng đặt chân vào đây".
Khi ném ra câu nói đầy tính chất gây sự ấy, ông Huấn sẵn sàng "đợi một trận lôi đình báo thù và những thủ đoạn tàn bạo của quan ngục bị sỉ nhục". Nhưng chính do thái độ ấy mà quản ngục vốn đã kính nể ông Huấn, lại càng cảm phục tinh thần bất khuất của vị thủ lĩnh nghĩa quân : "những người chọc trời quấy nước, đến trên đầu người ta, người ta cũng còn chẳng biết có ai nữa, huống chi cái thứ mình chỉ là một kẻ tiểu lại giữ tù".
Nhưng đứng về phía viên quản ngục cũng vậy. Không có tình huống kia, làm sao ta biết được nhân vật này say mê nghệ thuật, yêu quý người tài, kính trọng người có nghĩa khí như thế nào. Chỉ vì mong mỏi xin được chữ ông Huấn, Quản ngục đã vứt bỏ trách nhiệm cai ngục của mình khi đối xử với tù nhân. Mà sự biệt đãi một tên tù trọng tội như Huấn Cao đâu phải không có thể bị trả giá rất đắt, nếu sự việc bị bại lộ ; đã thế lại còn phải chịu đựng nỗi oan ức bị ông Huấn khinh bỉ và sỉ nhục. Vì làm sao một người như Huấn Cao lại có thể dễ dàng hiểu được "thiên lương" ở một viên quản ngục!
3. Tình huống truyện nói trên còn tạo ra cho tác phẩm một mâu thuẫn có tính kịch khá hấp dẫn, và thiên truyện diễn ra tựa như cách trình bày, khai đoan, đĩnh điểm, thắt nút, mở nút của một vở kịch vậy.
Căn cứ vào mạch truyện, có thể phân chia tác phẩm làm ba đoạn. Từ đoạn đầu đến đoạn cuối, tính cách nhân vật ngày càng bộc lộ rõ hơn, sâu hơn, trong khi mâu thuẫn kịch cũng ngày càng phát triển mạnh để di đến đỉnh điểm và mở nút.
Mâu thuẫn "kịch" ở đây là gì ? Ấy là sự đối lập giữa niềm khát khao của viên quản ngục nóng lòng muốn xin dược chữ của ông Huấn Cao, với thái độ khinh bỉ của ông Huấn đối với ngục quan.
a) Đoạn một : Quản ngục được lệnh tiếp nhận sáu tử tù, trong đó có Huấn Cao và tính cách hai nhân vật chính bước dầu được giới thiệu : Huấn Cao chẳng những "viết chữ rất nhanh rất đẹp" mà "văn võ đều có tài cả". Còn quản ngục là một người "biết kính mến khí phách […] biết trọng người có tài" nhưng bị đày ải vào "một đống cặn bã" ví như "một thanh âm trong trẻo chen vào giữa một bản đàn mà nhạc luật đều hỗn loạn xô bồ".
Ở đoạn thứ nhất này, mâu thuẫn "kịch" bắt đầu phát tín hiệu khi quản ngục tỏ ý sửa soạn tiếp đón Huấn Cao một cách khác thường : Ông ta lệnh cho viên thơ lại : "Thầy bảo ngục tốt nó quét dọn lại cái buồng trong cùng. Có việc dùng đến".
b) Đoạn hai : Huấn Cao nhập ngục. Sự biệt đãi của quản ngục đối với ông Huấn trước sự ngạc nhiên của bọn lính giải tù. Tính cách hiên ngang, bất khuất của vị thủ lĩnh nghĩa quân bộc lộ đậm nét. Mâu thuẫn "kịch" càng trở nên căng thẳng khi ông Huấn cố tình sỉ nhục viên quản ngục. Còn quản ngục thì vừa khổ tâm, vừa nóng lòng sốt ruột : "có một ông Huấn Cao trong tay mình, dưới quyền minh mà không biết làm thế nào mà xin được chữ. Không can đảm giáp lại mặt một người cách xa y nhiều quá, y chỉ lo mai mốt đây, ông Huấn bị hành hình mà không kịp xin được mấy chữ, thì ân hận suốt đời".
c) Đoạn ba : Mâu thuẫn "kịch" đạt tới đỉnh điểm : Lệnh trên truyền xuống giải Huấn Cao vào kinh chịu tội khiến quản ngục "tái nhợt người”. Nhưng liền đó, kịch mở nút và mâu thuẫn triệt tiêu : Huấn Cao hiểu rõ lòng quản ngục và quyết định cho chữ : "Ta cảm cái tấm lòng biệt nhỡn liên tài của các người. Nào ta có biết đâu một người như thầy Quản đây mà lại có những sở thích cao quý như vậy. Thiếu chút nữa, ta đã phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ".
Ở đoạn kết thúc này, tính cách các nhân vật cũng bộc lộ đầy đủ, toàn vẹn. Té ra, trái tim Huấn Cao không phải chỉ đúc bằng sắt thép. Đúng là con người này, không vàng ngọc hay quyền thế nào có được, thậm chí đến "chết chém ông còn chẳng sợ", thế mà hoá ra cũng dễ mềm lòng trước những tâm hồn tri kỉ, nghĩa là cũng như ông, biết quý trọng cái tài, cái đẹp và chất thiên lương của con người. Ôi, trên đi mà không biết quý trọng ba cái đó thì là loài quỷ sứ chứ đâu phải giống người. Đánh giá vẻ đẹp của Huấn Cao mà chỉ thấy cái phía sắt thép, cái phía "vô uý" không biết sợ của ông, là một cách đánh giá phiến diện. Đây là một nhân cách toàn diện, là con người của một chủ nghĩa nhân văn cao quý.
Nhân vật quản ngục cũng vậy – rất xứng đáng là tri âm tri kỉ của Huấn Cao : dám biệt đãi một thù lĩnh phiến loạn, thì quả là cũng không thiếu chất thép ; nhưng đồng thời lại sẵn sàng cúi đầu vái lạy Huấn Cao, có nghĩa là biết kính trọng cái tài, cái đẹp và chất thiên lương cao đẹp ớ người tử tù : Sau khi cúi đầu lắng nghe mấy lời khuyên răn của người tù "Ngục quan cảm động, vái người tù một vái, chắp tay nói một câu mà dòng nước mắt ri vào kẽ miệng làm cho nghẹn ngào : "Kẻ mê muội này xin bái lĩnh"".
Đúng là có những cái cúi đầu làm cho con người trở nên hèn hạ, có những cái vái lạy làm cho con người đê tiện. Nhưng cũng có những cái cúi đầu làm cho con người bỗng trở nên cao cả hơn, lớn lao hơn, lẫm liệt hơn, sang trọng hơn. Đấy là cái cúi đầu trước cái tài, cái đẹp, cái thiên lương.
Chính Cao Chu Thần, nguyên mẫu của nhân vật Huấn Cao trong Chữ người tử tù từng có một câu thơ thật đẹp, thật sang :
Nhất sinh đê thủ bái mai hoa.
(Một đời chỉ biết cúi đầu vái lạy hoa mai).
Cái cúi đầu của thầy quản ngục vái lạy Huấn Cao chính là cái cúi đầu của Cao Bá Quát trước hoa mai vậy.
4. Chữ người tử tù