06/05/2018, 09:28

Phân tích bài “Chạy giặc” của Nguyễn Đình Chiểu – Văn mẫu hay lớp 11

Xem nhanh nội dung Phân tích bài "Chạy giặc" của Nguyễn Đình Chiểu – Bài làm 1 của một học sinh giỏi Văn TP Đà Nẵng Bài thơ chạy giặc được ra đời khi thực dân Pháp đang có âm mưu tấn công chiếm Gia Định. Mặc dù mù lòa không nhìn thấy gì nhưng với tấm lòng xót xa, buồn đau ...

Xem nhanh nội dung

Phân tích bài "Chạy giặc" của Nguyễn Đình Chiểu – Bài làm 1 của một học sinh giỏi Văn TP Đà Nẵng

Bài thơ chạy giặc được ra đời khi thực dân Pháp đang có âm mưu tấn công chiếm Gia Định. Mặc dù mù lòa không nhìn thấy gì nhưng với tấm lòng xót xa, buồn đau vô hạn, nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu đã viết bài thơ Chạy Giặc để ghi lại tâm trạng của mình.

Những năm tháng đấu tranh chống lại bom đạn của kẻ thù, nhân dân ta đã phải hứng chịu biết bao bom đan khốc liệt của kẻ thù, nhà cửa tan tác, bao người hi sinh. Mở đầu bài thơ là cảnh bị Tây đánh bất ngờ:

"Tan chợ vừa nghe tiếng súng Tây

Một bàn cờ thế phút sa tay"

Bọn giặc hết sức tàn ác, chúng tấn công rất nhanh chóng cũng rất bất ngờ. Tiếng súng đột ngột ấy của chúng đã đẩy cuộc sống thanh bình, đông đúc, nhộn nhịp của dân ta bỗng chốc tan biến sâu vào quá khứ và mở ra trước mắt cảnh tượng chạy giặc thật kinh hoàng, đau xót:

"Bỏ nhà lũ trẻ lơ xơ chạy

Mất ổ bầy chim dáo dác bay".

Với ngôn ngữ hiện thực, trong trẻo hai câu thực của bài thơ là một bức tranh cụ thể sinh động thể hiện lại tình cảm tan tác bi thương của nhân dân khi ấy. Sự xuất hiện của giặc thù quá đột ngột, sự chống chọi của quân ta lại thất bại quá nhanh chóng khiến cảnh dắt dìu gồng gánh nhay chạy loạn càng thật đau lòng. Đang sống hạnh phúc êm ấm bên những người thân, bất chợt giặc thù từ đâu ập đến bắt giết, mọi gia đình đều chưa chuẩn bị gì, chỉ biết hốt hoảng dắt nhau trốn chạy. Nhà thơ đặc tả cảnh tượng ấy bằng hai chữ hìn ảnh lũ trẻ lơ xơ chạy và bầy chim dáo dác bay. Lối đảo ngữ lơ xơ, dáo dác lên trước trong trường hợp này làm nổi bật lên trước mắt người đọc dáng vẻ xơ xác, tan tác của lũ trẻ và bầy chim nhưng cũng khắc họa được tâm trạng hoang mang và ngơ ngác của chúng.

Theo quy của thể thơ, lẽ ra hai câu thơ kế tiếp nhà thơ phải bàn luận vấn đề, nhưng không, với tất cả lòng đau đớn xót xa của mình, ông tiếp tục vẽ lên một bức tranh toàn cảnh quê hương bị giặc thù đang tâm tàn phá trong một không gian thật là xa rộng:

"Bến Nghé của tiền tan bọt nước

Đồng Nai tranh ngói nhuốm màu mây".

Tuy Bến Nghé, Đồng Nai chỉ là một bến nước, một dòng sông ở Gia Định nhưng đó cũng chính là toàn cảnh của quê hương ta khi quân Pháp đặt gót giày xâm lược đến. Cả một mảnh non sông gấm vóc đang yên ổn tốt tươi trong phút chốc đã bị kẻ thù đang tâm tàn phá thành ra tro bụi. Tiền tài, sản vật của nhân dân bị chúng thả sức cướp bóc. Nhà của làng quê bị đốt phá, lửa khói dấy lên ngút trời. Nỗi xót đau thương thật lay động cả trăng sao.

Hai câu thơ ấy đúng là một bức tranh cụ thể và sinh động đầy gợi cảm về hình ảnh quê hương bị giày xéo, tàn phá khắp nơi: tan tác, đỗ vỡ, khói lửa đầy trời. Ngoài ra, đó cũng là một lời gián tiếp mạnh mẽ lên án hành động cướp phá hung bạo của thực dân Pháp xâm lược.

Bằng ngòi bút sắc sảo của tác giả, cùng với tình yêu quy hương đất nước, ý chí căm thù giặc sâu sắc, bốn câu thơ thực và luận đã làm nên một bức tranh toàn cảnh, nêu bật được hình ảnh bi thương của đất nước, quê hương dưới gót giày đinh xâm lược của giặc Pháp. Cả một trời hốt hoảng, tan tác, đau buồn từ mặt đất đến bầu trời, từ con người đến loài vật. Quân giặc đã cướp bóc tiền của, đốt phá nhà cửa, xóm làng trong khắp cả một vùng Đồng Nai, Bến nghé.

Phải nói rằng tác giả có một tình yêu thương dân vô bờ bến, nên mặc dù không được chứng kiến tác giả vẫn có thể khắc họa chi tiết những mất mát đau thương của nhân dân:

"Hỏi trang dẹp loạn rày đâu vắng

Nỡ để dân đen mắc nạn này.

Từng câu, từng chữ trong mỗi câu thơ là một tiếng kêu đau đớn, xót xa xuất phát từ trái tim nồng nàn yêu quê hương, đất nước, đỏ rực ngọn lửa căm thù trước tội ác trời không dung đất không tha của giặc. Nhà thơ không những đau xót vì cảnh quốc phá gia vong, nhân dân tan tác, đau thương, lơ xơ, dáo dác mà ông còn thất vọng và bất bình biết mấy trước tình cảnh quê hương ngập tràn bóng giặc mà quân của triều đình thì bặt tăm khuất dạng bỏ mặc nhân dân phải chịu thống khổ điêu linh. Hai câu thơ kết còn hàm chứa một nỗi chờ mong đến khắc khoải bóng dáng của trang dẹp loạn tài ba xuất chúng sẽ mau chóng ra tay cứu nước phò đời.

Cũng có một tình yêu nước vô bờ bến như Nguyễn Đình chiểu, nhiều nhà yêu nước đã đứng lên đấu tranh chống lại kẻ thù. Nhưng do ta lực lượng còn yếu, chưa có tổ chức vững chắc nên các cuộc khởi nghĩa của nhân dân đều bị dẹp. Tấm lòng của nhà thơ đã trở thành nguồn động viên lớn cho toàn dân, góp phần vào thắng lợi vĩ đại của dân tộc.

Phân tích bài thơ Chạy giặc của Nguyễn Đình Chiểu – Bài làm 2

“Tan chợ vừa nghe tiếng súng Tây,

Một bàn cờ thế phút sa tay

Bỏ nhà lũ trẻ lơ xơ chạy

Mất ổ đàn chim dáo dát bay.

Bến Nghé của tiền tan bọt nước,

Đồng Nai tranh ngói nhuốm màu mây.

Hỏi trang dẹp loạn rày đâu vắng,

Nỡ để dân đen mắc nạn này?”

Đừng nói đến cảnh dân chạy giặc vội, mà trước hết hãy chú ý đến “tiếng súng Tây" rộ lên vào thời điểm tan chợ. Nghĩa là trước lúc súng nổ, chợ búa vẫn họp bình thường. Cuộc sống hoàn toàn thanh bình yên ổn. Lúc tan chợ là lúc bắt đầu sự sum họp của gia đình. Những đứa em ngóng anh chị, con cái đợi cha mẹ, cháu chắt đợi ông bà, cảnh hạnh phúc đầm ấm đơn sơ sẽ diễn ra ở mọi nhà với những món quà giản dị của chợ vùng quê: củ khoai, tấm bánh đúc ngô, dăm ba gióng mía, mấy nắm bỏng rang trộn mật… Cả nhà sẽ xúm quanh mâm cơm thanh đạm có bát canh chua, khúc cá kho, hay giản dị hơn chỉ có “râu tôm nấu với ruột bầu"… Tiếng súng Tây nổ đúng vào lúc đó, bất ngờ, đột ngột, dữ dội vô cùng.

Súng Tây thời ấy nổ ghê gớm lắm: “súng giặc đất rền". Nghe tiếng súng thì bọn giặc đã ở ngay bên cạnh. “Vừa nghe” thế mà cả bàn cờ thế đã hỏng “phút sa tay”. Thất bại ập đến nhanh quá. Thời gian ngắn ngủi càng tăng thêm tính chất đột ngột, bất ngờ, căng thẳng của tình thế. Và vì thế, thay cho cảnh sum họp đầm ấm là cảnh tượng lộn xộn sẻ nghé tan đàn:

“Bỏ nhà lũ trẻ lơ xơ chạy,                                             

Mất ổ đàn chim dáo dát bay."

Súng vừa nổ, giặc đã ập đến. Người lớn còn chưa kịp đi chợ về hoặc còn đang ở ngoài đồng. Cho nên hốt hoảng lũ trẻ dắt díu nhau chạy lơ xơ. Đặt chữ “lơ xơ" lên trước chữ “chạy" là rất gợi tả. Dường như ta chỉ nhìn thấy sự rã rời, hốt hoảng sắp kiệt sức của những em bé, rồi sau mới biết là các em chạy. Hình ảnh so sánh đàn chim mất ổ dáo dát với lũ trẻ bỏ nhà chạy lơ xơ thật là đặc sắc. Nhưng cũng phải thấy thêm rằng khi giặc đến, chẳng những con người khốn khổ mà chim muông cũng không được yên ổn. Giặc đến làm đau cả sông núi, đau cả chim muông, đau cỏ cây.

Tả chạy giặc, một cuộc chạy vội vã, đột ngột không hề được chuẩn bị, chỉ có tả lũ trẻ và bầy chim là rất thành công. Xa hơn cảnh tượng sống động, bối rít hốt hoảng, lộn xộn của lũ trẻ và bầy chim là sự mất mát, thiệt hại của cả 1 vùng quê rộng lớn:

“Bến Nghé cửa tiền tan bọt nước,

Đồng Nai tranh ngói nhuốm màu mây. ”

Của cải bị mất mát, nhà cửa bị thiêu cháy, con cái lạc cha mẹ, và chắc là sẽ không tránh khỏi sự chết chóc đau thương:

“Đau đớn bấy mẹ già ngồi khóc trẻ,

ngọn đèn khuya leo lét trong lều.

Não nùng thay vợ yếu chạy tìm chồng,

cơn bóng xế dật dờ trước ngõ.”

 Giặc đến gieo bao tội ác lên đầu nhân dân, trước hết là những người dân lành, dân đen "cui cút làm ăn toan lo nghèo khó" trong ấp trong làng.

Nguyễn Đình Chiểu cũng phải chạy giặc và ông thấu hiểu sâu sắc những cảnh đó. Ông cất lên tiếng hỏi và cũng là lời trách móc phê phán những người có chức, có quyền, có trách nhiệm của triều đình:

“Hỏi trang dẹp loạn rày đâu vắng,

Nỡ để dân đen mắc nạn này?"

Không phải chỉ là một câu hỏi gay gắt và lời phê phán nghiêm khắc những trang dẹp loạn của triều đình. Hình như câu thơ còn là một tiếng khóc nghẹn tràn đầy nước mắt của con người mù lòa hết lòng yêu nước thương dân mà không thể làm gì cho dân trong cơn loạn lạc.

Phân tích bài thơ Chạy giặc của nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu – Bài làm 3

1. Kết cấu bài thơ

Bài thơ này có nét tương đồng với bài Vịnh khoa thi Hương. Sáu câu đầu là tả cảnh, kể sự việc để hai câu cuối bộc lộ cảm xúc. Bài thơ mở đầu bằng một chi tiết tạo không khí chiến tranh rất ấn tượng : đó là tiếng súng Tây – hiện diện đặc trưng nhất của kẻ xâm lược kiểu mới, có vũ khí tối tân hơn hẳn chúng ta. Sự thất thủ của quân triều đình, đó là điều không tránh khỏi, dẫn đến cuộc chạy tản cư và những cảnh tượng tàn phá thương tâm. Những chi tiết của cảnh gây cảm xúc nhiều hơn tả thực – đây là một nét đặc trưng lớn của thơ, nhất là thơ trung đại, so với văn xuôi. Nhà thơ đã liên tưởng đến hai sự kiện gây xúc động nhất là bọn trẻ con phải bỏ nhà chạy lơ xơ, không có người dẫn dắt che chở và bầy chim nhỏ bé hiền lành mất tổ bay tan tác.

Những con người ngây thơ, hiền lành, vô tội nhất, những con vật yếu ớt nhất đã phải hứng chịu hậu quả của cuộc xâm lược, những người cầm súng mắt xanh mũi lõ hung dữ, phá vỡ cuộc sống yên bình của làng quê. Việc liệt kê những địa danh như Bến Nghé, Đồng Nai vừa thất thủ đã gợi nên sự đồng cảm sâu sắc nơi người đọc, nhất là người dân Nam Bộ. Bởi chúng là những địa danh có từ rất sớm, rất quen thuộc với hàng trăm triệu con người. Cách tả "cửa tiền tan bọt nước" và "tranh ngói nhuốm màu mây" là tả ước lệ, không đi vào chi tiết song nhờ có hai địa danh quen thuộc nên vẫn gây được sự chia sẻ, đồng cảm. Qua những cảnh tượng được tả, tác giả bộc lộ cảm xúc đã nêu bằng việc đặt câu hỏi :

Hỏi trang dẹp loạn rày đâu vắng.
Nỡ để dân đen mắc nạn này?.

Hai từ nỡ và mắc nạn cho thấy sự lo lắng và xót xa của tác giả trước cảnh tượng đáng thương của người dân. Nguyễn Đình Chiểu cũng phải chạy giặc trong mù hòa hơn ai hết ông thấu hiểu nỗi đau sâu sắc trước cảnh tượng thương tâm đó.

2. Ngôn ngữ nghệ thuật.

Bài thơ sử dụng ngôn ngữ tiếng Việt đại chúng, giản dị mà trong sáng, dễ hiểu. Kĩ thuật đối xứng được khai thác khéo léo để tạo ra bức tranh toàn cảnh :

Bỏ nhà lũ trẻ lơ xơ chạy, 
Mất tổ bầy chim dáo dác bay.

Ở hai câu này, Nguyễn Đình Chiểu đã khéo chọn  hai hình ảnh đặc trưng và có sức gợi : lũ trẻ hốt hoảng phải lìa bỏ mái ấm gia đình và bầy chim non phải rời tổ dáo dác bay. Hai hình ảnh đặc tả tạo thành cặp đối xứng để diễn tả ý khái quát cả con người và tạo vật đều đau khổ vì quân xâm lược.

Bến Nghé cửa tiền tan bọt nước,
Đồng Nai tranh ngói nhuốm màu mây.

Hai câu trên tại thành cặp đối diễn tả ý khắp nơi, từ mắt đất (nước) đến bầu trời (mây) đều có dấu hiệu của sự tàn phá, hủy diệt. Miêu tả một cảnh tượng, một miền quê bị chiến tranh tàn phá với cảm xúc trào dâng, Nguyễn Đình Chiểu đã khiến cho người đọc cùng một lúc chia sẻ nỗi căm hờn đối với bè lũ cướp nước, bán nước và xót xa cho đất nước quê hương và dân lành.

Phân tích bài thơ “Chạy giặc” của Nguyễn Đình Chiểu – Bài làm 4

Năm 1858, thực dân Pháp nổ súng vào bán đảo Sơn Trà – Đà Nẵng, mở đầu cuộc xâm lược nước ta. Nhưng do sức kháng cự kiên cường của quân dân ta, lại gặp phải nạn dịch lớn, quân Pháp buộc phải quay vào Nam đánh chiếm thành Gia Định (2-1859). Cũng như nhiều người khác, Nguyễn Đình Chiểu phải chạy giặc. Ông lánh về quê vợ ở làng Thanh Ba, Cần Giục. Tiếng súng xâm lăng của quân cướp nước đã phá vỡ nhịp sống bình yên gây tang tóc cho những người dân vô tội. Chứng kiến cảnh nước mất nhà tan, nhân dân lâm vào cảnh cùng khổ. Nguyễn Đình Chiểu đã viết bài thơ “Chạy giặc” với tình yêu nước, thương dân vô cùng sâu sắc.

Bài thơ mở đầu bằng hình ảnh chạy loạn tan tác mà nguyên nhân của nó là “tiếng súng Tây”:

Tan chợ vừa nghe tiếng súng Tây
Một bàn cờ thế phút sa tay.

“Vừa nghe” tức là tin hết sức sốt dẻo, chuyện hết sức bất ngờ. Mới đây thôi, chợ vẫn đông, cuộc sống vẫn yên ả, bình thường. Nhưng sau tiếng súng địch, cuộc sống của người dân bỗng trở nên hoảng loạn. Câu thơ thứ nhất có người hiểu: vừa tan chợ thì nghe tiếng súng Tây, lại có người hiểu: vừa nghe tiếng súng Tây thì chợ tan. Cách hiểu thứ nhất e chưa đi tới tận cùng hàm lượng nghĩa của ý thơ. Cách hiểu thứ hai hợp lí hơn: súng nổ, chợ tan, và tan rất nhanh. Cách hiểu này xuất phát từ chỗ nhận ra biện pháp đảo trang đảo ngữ. Theo trật tự cú pháp thông thường thì: Vừa nghe tiếng súng Tây (nên) tan chợ. Nhưng tác giả đã để hai từ “tan chợ” lên đầu câu để diễn tả rõ hơn sự nhốn nháo, hoảng loạn.

Nhịp điệu bình yên của cuộc sống bị đảo lộn một cách đột ngột được ví với “Một bàn cờ thế phút sa tay”. Cờ thế là nói về những nước cờ cuối cùng quyết định sự thắng – thua. Chỉ cần nhỡ tay một chút, lập tức bị hạ gục, không phương cứu vãn. Lưu ý thêm rằng, nếu như ở câu thứ nhất vừa nghe tiếng súng thì đến câu thơ thứ hai đã là một phút sa tay. Sự thất bại quá nhanh của vua quan nhà Nguyễn làm cho nhân dân, vốn không chuẩn bị tinh thần “chạy giặc”, bây giờ càng trở nên hốt hoảng thương tâm. Hai câu thực là hai câu thơ đặc tả cảnh tương đau lòng ấy:

Bỏ nhà lũ trẻ lơ xơ chạy
Mất ổ bầy chim dáo dát bay.

Nhà thơ không quá ham chi tiết. Ông chỉ chọn hai đối tượng chính để miêu tả là lũ trẻ và bầy chim. Đây là hai câu thơ thể hiện rõ nhất cảnh chạy giặc thương tâm, kinh hoàng. Đưa “bỏ nhà” và “mất ổ” lên đầu câu, đưa “lơ xơ” và “dáo dát” (vốn là tính từ) lên trước các động từ “chạy”“bay”, tác giả đã khắc họa được cảnh loạn li một cách khá sắc sảo. Có thể nói hình ảnh lủ trẻ lơ xơ chạy là hình ảnh “đắt” nhất toàn bài. Lơ xơ vừa nói lên cái “run rẩy”, cái “hớt hơ hớt hải”“bơ vơ trơ trọi” của lũ trẻ, vừa chỉ dược những bước chân hãy còn non nớt và tội nghiệp của chúng. Những đứa trẻ vô tội này, lẽ ra phải được sống trong hạnh phúc nhưng cảnh mất nước đã khiến chúng trở thành những nạn nhân đầu tiên. Sự thương tâm của lũ trẻ càng được tô đậm hơn trong sự đối sánh với cảnh bầy chim mất tổ. Đây là một cảnh thực nhưng đồng thời là một ẩn dụ nghệ thuật có sức gợi lớn. Nhà cũng như tổ chim, là nơi ở, thể hiện sự đầm ấm, yên vui. Thế mà giờ đây đã “mất”, đã “tan” hết cả rồi. Lìa bỏ tổ ấm ấy, bầy chim và lũ trẻ biết tìm về đâu? Từ “dáo dát”, vì thế, vừa thể hiện sự nháo nhác, tán loạn, vừa nói đến dáng bay chới với với những tiếng kêu thảm thiết của bầy chim. Cảnh chạy giặc, qua những chi tiết có tính gợi cảm và những hình ảnh mang màu sắc tượng trưng hiện ra cụ thể, rõ nét, khiến ai cũng đau lòng. Phải là người yêu thương gắn bó sâu sắc với nhân dân, tự mình trải nếm nỗi đau chạy loạn Đồ Chiểu mới viết được những câu thơ làm xúc dộng lòng người đến thế.

Từ chỗ phơi bày cảnh chạy giặc, nhà thơ nói đến những mất mát to lớn mà nhân dân phải chịu, đồng thời vạch trần tội ác của kẻ thù qua hai câu luận:

Bến Nghé của tiền tan bọt nước
Đồng Nai tranh ngói nhuốm màu mây.

Nếu như hai câu 3 – 4 là cận cảnh thì hai câu 5 – 6 là viễn cảnh, vẽ lại sự mất mát diễn ra trong một khung cảnh rộng lớn. Bến Nghé và Đồng Nai vốn là hai vùng đất nổi tiếng về sự trù phú, sầm uất và giàu có của Nam Bộ. Vậy mà giờ đây “của tiền” đã tan thành “bọt nước”, cửa nhà (tranh, ngói) đã bị thiêu trụi thành mây khói. Bước chân của kẻ thù vừa đặt lên đất Gia Định, ấy thế mà tội ác của chúng đã chất cao như núi. Sự xuất hiện của chúng đồng nghĩa với sự hủy diệt, đồng nghĩa với tai họa.

Với sáu câu thơ đầu, bức tranh “chạy giặc” đã được hoàn tất khâu cuối cùng: cảnh gần là lũ trẻ, bầy chim, cảnh xa là Bến Nghé, Đồng Nai, dưới mặt đất là “trẻ chạy lơ xơ”, trên cao là “bầy chim dáo dát”. Tất cả những hình ảnh, sự việc ấy được đặt trong một không gian nhuốm màu tang tóc: “Tranh ngói nhuốm màu mây”. Đứng trước hiện thực đau lòng ấy là một người yêu nước thương dân, thử hỏi làm sao Nguyễn Đình Chiếu lại im lặng được? Hai câu kết thực sự là thái độ trách cứ của nhà thơ với triều đình Nguyễn bạc nhược, hèn nhát.

Hỏi trang dẹp loạn này đâu vắng
Nỡ để dân đen mắc nạn này.

Không chỉ trách cứ, câu thơ còn mang sắc thái, châm biếm, mỉa mai và phê phán. Lẽ ra, trước nạn ngoại xâm, các bậc mày râu, hảo hán phải ra tay dẹp loạn. Đằng này họ lẩn tránh, làm ngơ. Vua quan nhà Nguyễn quá yếu hèn, nghe đến Tây là đã sợ thất kinh, còn đâu nhuệ khí mà đánh giặc. Việc “dân đen mắc nạn này” là kết quả tất yếu của nguyên nhân đã nói ở trên: vắng trang dẹp loạn! Nhà thơ hỏi cũng chỉ để mà hỏi vì ông hoàn toàn thất vọng trước thực tế. Phía sau câu thơ là nỗi đau Đồ Chiểu. Phê phán kẻ đã nỡ để dân lầm than, nhà thơ trực tiếp bày tỏ thái độ đứng về nhân dân, thông cảm với nỗi đau của nhân dân và nỗi đau của dân tộc. Thế mới biết, dẫu bị mù lòa, nhà thơ vẫn nhìn thấy tất cả, hiểu tất cả. Ông đã dùng “đôi mắt” của tấm lòng để hiểu, để căm giận và để thương yêu. Đó chính là yếu tố cốt tử nhất làm nên tầm vóc, giá trị của “ngôi sao” Nguyễn Đình Chiểu.

Không chỉ sử dụng một cách điêu luyện và linh hoạt các biện pháp nghệ thuật quen thuộc của thi pháp văn học truyền thống như đảo trang, hoán dụ, ẩn dụ… mà còn sáng tạo ra những hình ảnh, những từ ngữ có sức gợi cảm lớn, Nguyễn Đình Chiểu đã dựng lại một cách chân thực tình cảnh điêu linh của người dân trong những ngày đầu thực dân Pháp xâm lược nước ta. Bài thơ cũng là một minh chứng cho tấm lòng yêu nước thiết tha, cháy bỏng của Nguyễn Đình Chiểu, người mở đầu cho dòng văn học yêu nước chống Pháp ở Nam Bộ nói riêng và ở Việt Nam nói chung. 

Thu Thủy (Tổng hợp)

0