Phân tích bài thơ Bài thơ số 28 (Ta-go) – Văn mẫu lớp 11
Phân tích bài thơ Bài thơ số 28 (Ta-go) – Văn mẫu lớp 11 Phân tích bài thơ Bài thơ số 28 (Ta-go) – Bài số 1 Ta-go(1861-1941) là nhà thơ lớn của Ấn Độ, ông đã có nhiều cống hiến quan trọng cho sự nghiệp phục hưng văn hóa Ấn Độ, giải phóng nhân dân Ấn Độ khỏi ách thực dân, góp phần vào ...
Phân tích bài thơ Bài thơ số 28 (Ta-go) – Văn mẫu lớp 11
Phân tích bài thơ Bài thơ số 28 (Ta-go) – Bài số 1
Ta-go(1861-1941) là nhà thơ lớn của Ấn Độ, ông đã có nhiều cống hiến quan trọng cho sự nghiệp phục hưng văn hóa Ấn Độ, giải phóng nhân dân Ấn Độ khỏi ách thực dân, góp phần vào cuộc đấu tranh của nhân loại vì độc lập, hòa bình và tình hữu nghị giữa các dân tộc. Ta-go để lại một gia tài khổng lồ các tác phẩm thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau trong đó đặc sắc là số lượng 52 tập thơ. Một trong số đó là tập thơ “Người làm vườn” tiêu biểu cho giọng thơ giàu chất trữ tình và triết lí, vừa thể hiện tâm hồn Ấn Độ vừa bao quát tinh thần nhân loại. Các bài trong tập thơ “Người làm vườn” không có nhan đề mà chỉ được đánh số thứ tự, bài thơ số 28 là một trong những bài thơ hay nhất của Ta-go và bài thơ này đã xuất hiện trong nhiều tuyển tập thơ tình của thế giới.
Tình yêu luôn là đề tài muôn thuở không bao giờ vơi cạn khơi nguồn cảm hứng cho biết bao tâm hồn thi sĩ,bài thơ là lời tỏ tình của một chàng trai muốn gửi đến cô gái mà chàng trai yêu, qua lời tỏ tình của chàng trai ta nhận ra rằng tình yêu là sự vô tận, mãi mãi không có giới hạn trong trái tim của những ai đang yêu, và như một lời nhắn nhủ đối với những ai đã, đang và sẽ chìm đắm trong men say tình ái rằng: muốn có được hạnh phúc trong tình yêu thì luôn luôn phải tìm hiểu, khám phá và thấu hiểu sâu sắc về nhau. Có như vậy thì tình yêu mới bền đẹp được.
Mở đầu bài thơ là tâm trạng băn khoăn, bồn chồn, lo lắng và thoáng có chút buồn của cô gái ẩn chứa một khát khao cháy bỏng muốn nhìn vào sâu tận trong tâm tưởng của chàng trai:
“Đôi mắt băn khoăn của em buồn
Đôi mắt em muốn nhìn vào tâm tưởng của anh
Như trăng kia muốn vào sâu biển cả”
Trong tình yêu, thì sự tin tưởng lẫn nhau là một yếu tố rất quan trọng, nhưng dường như ở đây cô gái chưa thật sự tin tưởng chàng trai nên muốn nhìn sâu vào tâm tưởng của anh để tìm hiểu, khám phá mọi bí mật. Đôi mắt được ví như lăng kính của cuộc sống mà qua đó ta có thể nhìn thấy mọi vật, nhưng ở đây đã có một sự cường điệu hóa, đôi mắt chỉ có thể nhìn được những vật thuộc phạm vi về hình ảnh bên ngoài, nhưng trong câu thơ, cô gái muốn dùng đôi mắt của mình để nhìn thấu trái tim chàng trai, muốn biết anh đang nghĩ gì, điều lẽ ra mà chỉ có con tim mới cảm nhận được. Tác giả sử dụng hình ảnh so sánh khát khao của cô gái như “trăng” muốn vào sâu “biển cả”. Đây là một hình ảnh ẩn dụ rất lãng mạn, trăng chìm xuống biển như hòa nhập vào mặt biển vô tận mênh mông, đem ánh sáng của mình làm lấp lánh mặt nước biển, qua hình ảnh này cô gái thể hiện rõ khát khao của mình , muốn tâm hồn của mình hòa nhập vào tâm hồn của chàng trai.
Biết rõ khát khao của cô gái, chàng trai bày tỏ hết lòng mình mong rằng cô gái sẽ hiểu:
“Anh đã để cuộc đời anh trần trụi dưới mắt em
Anh không giấu em một điều gì
Chính vì thế mà em không biết gì tất cả về anh”
Chàng trai đã giãi bày tất cả thể hiện ở hành động “không giấu em một điều gì”, thế nhưng nghịch lí là chàng trai đã giãi bày tất cả nhưng cô gái lại “không biết gì tất cả về anh”. Đây chính là sự bí ẩn và tính khó lí giải trong tình yêu.
Chàng trai thể hiện sự chân thành của mình để cô gái tin tưởng bằng một loạt các hình ảnh so sánh, qua đây anh muốn nói với cô gái rằng: Anh có thể sẵn sàng dâng hiến cả cuộc đời mình cho em.
“Nếu đời anh chỉ là viên ngọc
anh sẽ đập nó ra làm trăm mảnh
và xâu thành một chuỗi
quàng vào cổ em.
Nếu đời anh chỉ là một đóa hoa,
tròn trịa, dịu dàng và bé bỏng
anh sẽ hái nó đặt lên mái tóc của em”
Ví cuộc đời anh với “viên ngọc” thể hiện sự trang trọng, cao quý còn “đóa hoa” tượng trưng cho vẻ đẹp, nhưng anh sẵn sàng “đập” viên ngọc làm trăm mảnh và “hái” bông hoa để dành tặng cho cô gái, thể hiện sự dâng hiến của anh dành cho em.
“Nhưng em ơi, đời anh là một trái tim
Nào ai biết chiều sâu và bến bờ của nó
Em là nữ hoàng của vương quốc đó
Ấy thế mà em có biết gì về biên giới của nó đâu”
Chàng trai tiếp tục thể hiện sự dâng hiến, dâng hiến cả trái tim của mình. Trái tim là vô tận, cũng như đại dương mênh mông không ai biết được chiều sâu và bến bờ của nó. Nhưng cũng có khi chỉ là một vương quốc nhỏ bé mà cho dù em là nữ hoàng, chủ của vương quốc trái tim anh mà cũng không thể biết biên giới của nó kéo dài đến đâu.
Khoảng cách của tình yêu là rất lớn vì vậy cần phải thu hẹp rút ngắn khoảng cách đó lại bằng sự hòa hợp đồng cảm lẫn nhau:
“Nếu trái tim anh chỉ là một phút giây lạc thú
Nó sẽ nở ra thành một nụ cười nhẹ nhõm
Và em thấu suốt rất nhanh
Nếu trái tim anh chỉ là khổ đau
Nó sẽ tan thành lệ trong
Và lặng im phản chiếu nỗi niềm u uẩn”
Hãy đồng cảm, chia sẻ với nhau. Nếu chàng trai vui thì cô gái cũng nở nụ cười trên môi, chàng trai buồn, cô gái cũng rơi những giọt nước mắt.
Tình yêu thật phức tạp, nó ẩn chứa nhiều mâu thuẫn như chàng trai nói:
“Nỗi vui sướng, khổ đau của nó là vô biên
Những đòi hỏi của sự giàu sang là trường cửu
Trái tim anh cũng ở gần em như chính đời em vậy
Nhưng chẳng bao giờ em biết trọn nó đâu”
Trong tình yêu có rất nhiều cảm xúc, lúc thì vui sướng lúc thì khổ đau và những cảm xúc này là vô tận không biết đâu là giới hạn. Trong tình yêu cũng rất nghịch lí và mâu thuẫn, mặc dù anh luôn ở bên em, gắn bó khăng khít với em, cùng nhau chia sẻ mọi niềm vui nỗi buồn nhưng anh vẫn khẳng định không bao giờ em có thể hiểu hết được trái tim anh.
Bài thơ sử dụng rất nhiều hình ảnh so sánh, ví von và cách nói nghịch lí cho thấy trong tình yêu còn nhiều điều khó hiểu, không thể lí giải được. Cần phải thấu hiểu, hòa nhập vào nhau, như vậy mới có được tình yêu vĩnh cửu.
Phân tích bài thơ Bài thơ số 28 (Ta-go) – Bài số 2
Ra-bin-đra-nát Ta-go (1861 – 1941) là nhà thơ, nhà viết kịch, nhà văn hoá thiên tài của An Độ. Ta-go đã để lại cho kho tàng văn học Ấn Độ và thế giới một di sản lớn lao : 52 tập thơ, 42 vở kịch, 12 cuốn tiểu thuyết…, đặc biệt là tập Thơ Dâng được Giải thưởng Nô-ben năm 1913.
Cống hiến vĩ đại nhất của Ta-go là ở chỗ ông đã phát huy được truyền thống đấu tranh yêu nước và nhân đạo chủ nghĩa của dân tộc Ấn Độ, kết hợp với tinh hoa văn hoá phương Tây.
Ta-go ca ngợi tình yêu thương cao cả giữa con người một cách chân thành, rộng mở với lòng từ bi và đức tin của truyền thống tôn giáo Ấn Độ. Ông tiếp thu những nét tích cực trong chủ nghĩa nhân đạo phương Tây, như đòi giải phóng cá tính, đề cao tinh thần tự giác đấu tranh cho tự do, đòi công bằng bác ái, tin ở sức mạnh con người.
Theo Ta-go, con người là đáng tôn thờ nhất, do đó, ông đề xướng "tôn giáo Con Người". Tầng lớp nhân dân lao động cùng khổ cũng được Ta-go luôn quan tâm.
Mặc dù chủ nghĩa nhân đạo của Ta-go có màu sắc duy tâm, huyền bí, nhưng nội dung cơ bản của nó vẫn là yêu đất nước, yêu con người, yêu sự sống.
Yêu thiên nhiên là một đặc điểm nổi bật trong cá tính Ta-go. Ông chủ trương con người cần hoà đồng với thiên nhiên, coi thiên nhiôn như người bạn tâm tình và là đối tượng của thơ ca. Trong các tác phẩm của Ta-go, thiên nhiên xuất hiện không chỉ như mồi trường sống, hoạt động của con người mà là một thế giới mĩ lệ, một thế giới của cái đẹp, của nghệ thuật, của thơ ca.
Tính đa cảm, tính trầm tư là một đặc điểm khác trong cá tính đã ảnh hưởng rất rõ trong các tác phẩm của Ta-go. Ông rung động trước tất cả mọi điều, dù là nhỏ nhặt của cuộc sống, đặc biệt là vẻ đẹp thiên nhiên, con người và nỗi đau khổ của con người. Nét trầm tư, suy nghĩ đã tạo nên chất triết lí với các cung bậc ý nghĩa, chiều sâu tình cảm trong thơ ông. Tác phẩm của Ta-go tràn ngập tinh thần dân tộc, yêu nước, chống thực dân, thức tỉnh niềm khát khao giải phóng, độc lập, tự do của nhân dân Ấn Độ. Bên cạnh đó, văn thơ Ta-go còn chứa chan một tình yêu thiên nhiên, niềm tin mãnh liệt vào cuộc sống và con người.
Bút pháp nghệ thuật Ta-go vừa mang tính hiện thực vừa giàu chất biểu tượng. Dưới cái vỏ thần bí, cao siêu vẫn cháy bỏng một lòng tin yêu cuộc sống và những vấn đề của cuộc đời trần tục hằng ngày. Thơ trữ tình Ta-go là những bản tình ca say đắm, là bức tranh thiên nhiên mĩ lệ muôn màu với những hình ảnh lung linh, huyền diệu.
2. Bài thơ sô 28 được in trong tập Người làm vườn, là một trong những bài thơ tình hay nhất thế giới. Bài thơ khẳng định : tình yêu là sự đồng điệu, hoà hợp, dâng hiến tâm hồn, tin yêu và hiểu biết, chia sẻ lẫn nhau. Nhưng trái tim con người, thế giới tâm hồn con người lại mãi là một cõi bí mật lớn lao. Chính vì vậy, việc tìm tới sự đồng điệu, chan hoà vào thế giới tâm hồn của người yêu luôn là những khát khao không bao giờ vươn tới nổi. Điều đó tạo nên vẻ hấp dẫn muôn đời của tình yêu.
Chất triết lí được trình bày qua những lập luận chặt chẽ với hộ thống hình ảnh rực rỡ, sinh động. Với cách đặt vấn đề, phản đề, nghi vấn, giải thích để đi tới chân lí, bài thơ rất đặc trưng cho tư duy người Ấn : tìm tới chất triết lí trong muôn vàn hiện tượng dời sống.
Những nghịch lí muôn đời của trái tim:
Nghĩa bài thơ được diễn giải theo tầng bậc từ thấp đến cao, từ cụ thể đến trừu tượng, từ nghĩa thực đến nghĩa triết lí, và cảm xúc trong bài cũng dược nâng dần
Bài thơ được kết cấu theo tầng bậc. Ý một : Anh xin dâng hiến trọn vẹn cuộc đời anh cho em. Ý hai : Nhưng không bao giờ em có thể chiếm lĩnh trọn vẹn trái tim anh. Hai ý này ngày càng được bổ sung ở mức độ cao hơn trong những lập luận của toàn bài.
Sự đối lập giữa khát vọng giãi bày, dâng hiến, chan hoà vào tâm hồn người yêu và cái bí ẩn không gì khám phá nổi của trái tim là những đối lập tồn tại mãi mãi trong tình yêu. Sự hoà hợp trọn vẹn trong tình yêu là điều không thể, nhưng tình yêu luôn là niềm khao khát cái trọn vẹn ấy.
Nếu mỗi người tình đều biết hướng vé cái trọn vẹn để nắm bắt, dựng xây, điều đó sẽ đem đến hạnh phúc trong tình yêu.
Phải chăng đây là triết lí tiềm ẩn của thơ tình Ta-go ?
Sức mê hoặc, quyến rũ của nghệ thuật Bài thơ số 28:
Bài thơ là một hệ thống tầng tầng lớp lớp những hình ảnh tượng trưng và so sánh : đôi mắt em muốn nhìn… như trăng kia muốn vào sâu biển cả (sự khao khát hoà hợp, thấu hiểu tâm hồn) ; đời anh là viên ngọc, đoá hoa (những gì đẹp đẽ nhất, quý giá nhất của đời anh) ; em là nữ hoàng của vương quốc đó (em là người làm chủ trái tim anh),… Hệ thống những hình ảnh tượng trưng, so sánh này làm cho những hình ảnh của tình yêu, của tâm hồn, của trái tim người đang yêu được mĩ lệ hoá, lung linh những sắc màu huyền diệu. Bài thơ mang tính chất mê hoặc vì lẽ đó.
Đây là một bài thơ trữ tình giàu chất triết lí. Chất triết lí của bài thơ thể hiện trên nhiều bình diện : Đó là những lập luận, đưa ra giả thiết rồi phản bác lại với những mẫu câu lặp lại : Nếu… chỉ là… nhưng. Sự vật của đời sống không chỉ được nhìn nhận theo một chiều mà luôn đặt trong sự nghi vấn để tìm sự thật cuối cùng.
Nhà thơ hướng về cái vô hạn của vũ trụ (biển cả, vương quốc) để xác định giới hạn, bản chất của thế giới tâm linh – phần bí ẩn, sâu xa nhất của tâm hồn con người – và nêu lên những đối lập, mâu thuẫn muôn đời như là những quy luật vĩnh cửu của tình yêu.
Ta-go muốn nói điều gì về tình yêu ? Có lẽ ông muốn nói lên một chân lí : Tình yêu là một cuộc dâng hiến trọn vẹn và là một quá trình khám phá, tìm tòi. Nhưng trái tim tình yêu mãi mãi vẫn là những điều bí ẩn. Chiếm lĩnh cái bí ẩn, vô bờ, không giới hạn của tâm hồn người yêu sẽ luôn là những khát khao vĩnh cửu của con người.
Phân tích bài thơ Bài thơ số 28 (Ta-go) – Bài số 3
Đây là một bài thơ trữ tình, chủ thể trữ tình là nhà thơ mà câu chuyện được bộc lộ ra trong bài thơ là câu chuyện tình yêu rất riêng tư của chính chủ thể nhà thơ. Bài thơ ca ngợi sức mạnh của tình yêu vô biên thể hiện qua khát vòn khám phá mãnh liệt không cùng để tạo ra một sự gắn kết hòa hợp, tạo ra một niềm tin bất tận vào chính sự khám phá ấy.
1. Đặc điểm về nội dung
a) Một số khái niệm cần lưu ý
Hình ảnh "đôi mắt" với các sắc điệu của nó (buồn, băn khoăn,…) là một hình ảnh rất đặc trưng của nhiều nhà thơ song hình ảnh này ở thơ Ta – go rất đậm đặc và mang đặc trưng của cách nhìn tâm linh theo quan niệm của người Ấn Độ mà chính Ta – go đã nhấn mạnh: "Đôi mắt chúng ta liên kết nhau trong hòa điệu làm cho chúng ta hành động được thống nhất".
b) Nhân vật
Trong bài thơ, xét hình thức, có hai nhân vật: một là chủ thể trữ tình, trực tiếp bày tỏ, bộc lộ cảm xúc tình cảm của mình; hai là khách thể tiếp nhận các cung bậc cảm xúc cho nên các nhân vật này đều dường như có sự phân thân: chủ thể trữ tình bộc lộ tình cảm với khách thể tiếp nhận song cũng chính là đang nói với chính mình, băn khoăn của khách thể tiếp nhận cũng được phân đôi tạo nên sự giằng xé tâm trạng. Từ đó, dẫn đến các suy tưởng trừu tượng hướng tới cái vô biên của tình người, tình đời mà mỗi khi đạt tới một cung bậc mới của tình người, tình đời ấy thì phạm vi của tình yêu lại được mở ra và một chân trời mới hiện lên.
2. Đặc điểm về nghệ thuật
Bài thơ được cấu trúc theo kiểu tư duy hướng nội, hướng vào chiều sâu tâm tưởng, gợi mở cái nhìn về thế giới tâm linh. Từ dó, ý nghĩa của bài thơ cũng được tạo ra theo kết cấu tầng bậc, từ thấp đến cao, từ cụ thể đến trừu tượng, từ nhận thức cảm tính, trực cảm đến nhận thức lí tính, khái quát cao.
a) Kết cấu bài thơ
Bài thơ toát lên âm hưởng của giọng điệu thơ tình qua cách thức giãi bày bộc lộ quan niệm về tình yêu mà ở đây có liên tưởng đến tình yêu lứa đôi.
Song bằng hình thức cấu trúc câu thơ theo lối giả định – phủ định – khẳng định, tác giả đã chỉ ra nghịch lí của tình yêu. Từ đó tác giả trình bày một quan niệm về tình yêu khác, rộng hơn nhiều với các quan niệm về tình yêu của các nhà thơ khác. Bài thơ diễn tả một nội dung triết lí về tình yêu, từ đó mở rộng ra ý nghĩa của cuộc đời, cho tình yêu nói chung, và rộng hơn là cho mọi tình cảm của con người. Âm hưởng trữ tình tha thiết tạo ra sự trầm lắng suy tư đầy chất triết lí vừa gợi mở cho độc giả niềm vui hướng tới tình yêu thiêng liêng, vừa tạo ra cảm giác kì diệu, bí ẩn của tình yêu.
b) Ngôn ngữ nghệ thuật
Trong nguyên bản bài thơ bằng tiếng Anh do chính Ta – go dịch thì bài thơ này cũng như nhiều bài thơ khác trong tập Người làm vườn đều có hình thức là thơ văn xuôi, một hình thức trung gian giữa thơ và văn xuôi. Đối với thơ văn xuôi, cần chú ý tới tứ thơ, nhịp điệu thơ và nhạc điệu, đặc biệt là tính chất triết lí trên nền cảm xúc trữ tình.
Để phân tích được, trước hết cần phải tìm ra các từ "chìa khóa" ở câu: "đời anh là một trái tim", ta gặp một sự khẳng định có tính chất mở đường cho cách lập luận và tạo ra cảm xúc của bài thơ. Các cụm từ "Nếu trái tim anh" được lặp lại nhiều, trong nguyên tác bằng tiếng Anh do chính Ta – go tự dịch ra cụm từ này có nghĩa là "đời anh". Từ đây ta có các từ khóa quan trọng: đời anh là trái tim – đời anh là tình yêu, đời anh = trái tim = tình yêu. Các từ khóa này cho phép hiểu tình yêu ở một khía cạnh cao hơn. Tình yeu ở đây là con người trong sự phát triển viên vãn của nó, cũng giống như trái tim được hiểu là biểu hiện cao nhất của cuộc sống.
Lưu ý: Các câu thơ được cấu trúc theo hình thức nghịch lí, đặc biệt qua các dòng thơ:
Em là nữ hoàng của vương quốc đó
Ấy thế mà em có biết gì biên giới của nó đâu.
Hay các dòng thơ:
Trái tim anh cũng ở gần em như chính đời em vậy
Nhưng chẳng bao giờ em biết trọn nó đâu.
Giọng điệu nghịch lí này vốn xuất phát từ đầu bài thơ qua hình ảnh "Đôi mắt em muốn nhìn vào tâm tưởng của anh". Nghịch lí này gắn liền với bản chất của cuộc sống, của tình yêu.
Khi phân tích, cần lưu ý tới hình thức cấu trúc câu thơ: tác giả thường đưa ra một giả định không thực sự sau đó tiến hành các bước phủ định giả thiết ấy để hướng tới một sự khẳng định mới, tạo ra bất ngờ và hứng thú:
Nếu trái tim anh (= đời anh) = là = một phút giây lạc thú (thì)….
Nếu trái tim anh (= đời anh) = chỉ là = khổ đau (thì)….
Độc giả đang chờ đợi thì một sự bất ngờ đến ngay bởi hệ thống các từ khóa: đời anh là trái tim – đời anh là tình yêu, đời anh = trái tim = tình yêu, tức là độc giả được đưa đến, được đặt vào một sự khẳng định khác lớn hơn, cao cả hơn, không chỉ dừng ở múc độ so sánh bình thường. Cái bí ẩn của tình yêu xuất hiện cho dù em có là "nữ hoàng của vương quốc" thì tình yêu đó đi chăng nữa thì nữ hoàng ấy cũng chẳng dễ gì hiểu được vương quốc của mình. Cuộc đời không chỉ được đo đếm bằng niềm vui hay nỗi buồn cụ thể mà cuộc đời chính là tình yêu với biểu hiện muôn màu của nó, là sự hòa trộn của niềm vui và nỗi đau, bởi tình yêu ôm vào trong đó sự đa dạng của cuộc đời.
Nhưng em ơi, trai tim anh lại là tình yêu
Nỗi vui sướng, khổ đau của nó là vô biên.
Nhưng đòi hỏi và sự giàu sang của nó là trường cửu.
Các dòng thơ trên cho ta thấy rõ hơn chiều sâu của tình yêu, một tình cảm thiêng liêng và cao quý nhất của con người. Tình yêu có cuộc sống riêng của nó, và nó tạo ra một quy luật riêng cho ứng xử thẩm mĩ của con người: "Người với người sống để yêu nhau".
Hai dòng thơ cuối cũng cho thấy một nghịch lí:
Trái tim anh cũng ở gần em như chính đời em vậy
Nhưng chẳng bao giờ em biết trọn nó đâu.
Ở đây, tình yêu = cuộc đời, tình yêu vừa cụ thể vừa trừu tượng vừa hữu hạn tưởng chừng như thể có một đường biên rõ ràng lại vừa vô hạn chẳng biết đâu là bến, đâu là bờ. Bởi thế, cho dù nó bao gồm cả niềm vui và nỗi đau nhưng chính là niềm vui và nỗi đau ấy cũng vô cùng vô tận. Ở đây cần thiết phải lí giải nghịch lí này. Muốn thế phải trở về với từ khóa: đời anh = tình yêu, đời anh là hiện thân của tình yêu, anh là tình yêu. Đến với anh không chỉ đến bằng sự nhận thức thuần túy lí tính, bằng phép định lượng định tính, bởi mỗi con người là một tiểu vũ trụ tồn tại trong cái thế giới vũ trụ bao la. Mặt khác, đời anh là tình yêu nên muốn hiểu được đời anh là tất yếu phải dùng tình yêu, chỉ có tình yêu đến với tình yêu, chỉ bằng tình yêu để khám phá và mở đường cho tình yêu mới được tình yêu đền đáp, mới hạnh phúc vì lúc đó mới hiểu được bản chất của tình yêu.
Phân tích bài thơ Bài thơ số 28 (Ta-go) – Bài số 4
Sau tập Thơ Dâng được giải thưởng Nobel, năm 1914, Tago xuất bản tập thơ “Người làm vườn – tập thơ tình, gồm 85 bài thơ, chỉ đánh số, không có nhan đề. Bài thơ sơ 28 này rút trong tập “Người làm vườn”, được truyền tụng và ngợi ca là “một trong những bài thơ tình hay nhất trên thế giới”.
"1. Đôi mắt băn khoăn của em buồn
Đôi mắt em muốn nhìn vào tâm tưởng của anh.
Như trăng kia muốn vào sâu biển cả.
Anh đã để cuộc đời anh trần trụi dưới mắt em,
Anh không giấu em một điều gì.
Chính vì thế mà em không biết gì tất cả về anh.
2. Nếu đời anh chỉ là viên ngọc,
anh sẽ đập nó ra làm trăm mảnh
và xâu thành một chuỗi
quàng vào cổ em.
Nếu đời anh chỉ là một đóa hoa
tròn trịa, dịu dàng và bé bỏng,
anh sẽ hái nó ra đặt lên mái tóc em.
3. Nhưng em ơi, đời anh là một trái tim
Nào ai biết chiều sâu và bến bờ của nó,
Em là nữ hoàng của vương quốc đó
Ấy thế mà em có biết gì biên giới của nó đâu.
4. Nếu trái tim anh là một phút giây lạc thú
Nó sẽ nở ra thành một nụ cười nhẹ nhõm
Và em thấu suốt rất nhanh.
Nếu trái tim anh chỉ là khổ đau
Nó sẽ tan ra thành lệ trong
Và lặng im phản chiếu nỗi niềm u ẩn.
5. Nhưng em ơi, trái tim anh lại là tình yêu,
Nỗi vui sướng khổ đau của nó là vô biên.
Những đòi hỏi và sự giàu sang của nó là trường cửu
Trái tim anh cũng ở gần em như chính đời em vậy
Nhưng chẳng bao giờ em biết trọn nó đâu."
Đào Xuân Quý dịch
Toàn bài thơ vẫn là lời tỏ tình của người con trai, của “anh”. Còn người con gái chỉ “lắng nghe lời nói như ru” và qua “đôi mắt”, qua cái nhìn “băn khoăn… buồn” – được nói đến mà thôi.
1. Sáu câu thơ đầu cho thấy một mối tình đầu rất đẹp và thơ mộng. Cô gái duyên dáng, ngỡ ngàng và “băn khoăn”. Vẻ đẹp dịu hiền được thể hiện qua đôi mắt và cái nhìn chan chứa yêu thương: “muốn nhìn vào tâm tưởng của anh”. Rụt rè và thăm dò.
Tình yêu đến, “Thần Ái tình đã gõ cửa trái tim” nhưng em vào đã hay, đã biết gì nhiều về anh. Em là ánh trăng, anh là mặt biển (trong xanh) – Hai hình ảnh so sánh này diễn tả rất hay một tình yêu trong sáng chân thành, dào dạt và sự khao khát yêu thương. Cô gái có đôi mắt huyền mới có cái nhìn lung linh của ánh trăng kia. Và chàng trai có tình yêu nồng nàn, chân thành, trong sáng thì ánh trăng kia mới có thể soi vào tận đáy biển cả. Hình ảnh ánh trăng và biển cả đã thể hiện tài tình men say ái tình: niềm khao khát hạnh phúc và sự hòa hợp tâm hồn lứa đôi trong “cái thuở ban đầu lưu luyến ấy”. Lời tỏ tình nồng nàn yêu thương, đàng hoàng và tin cậy. Tình yêu đâu chỉ là “tìm kiếm” mà còn là “phát hiện” những vẻ đẹp tiềm ẩn trong tâm hồn, trong tính cách người tình của em. Như một lời nhắc khẽ mà rung động:
“…Đôi mắt em muốn nhìn vào tâm tưởng của anh.
Như trăng kia muốn vào sâu biển cả.
Anh đã để cuộc đời anh trần trụi dưới mắt em,
Anh không giấu em một điều gì.
Chính vì thế mà em không biết gì tất cả về anh.”
2. Bảy dòng thơ tiếp theo là lời tỏ tình rất đẹp. Sử dụng hình ảnh ẩn dụ về “ngọc”, về “hoa” và giả định: “nếu… anh sẽ…” để biểu lộ một tình yêu nồng cháy, mãnh liệt và dâng hiến. Có gì quý hơn ngọc, giá trị bằng ngọc? Nếu đời anh là viên ngọc thì anh sẽ đập vỡ làm trăm mảnh, xâu thàn chuỗi quàng vào cổ em yêu. Có gì đẹp và thơm bằng hoa? Nếu đời anh chỉ là bông hoa nhỏ bé, tròn xinh, thơm tho, anh sẽ ngắt nó ra cài lên mái tóc em. Các động từ: “đập ra”, “xâu thành”, “quàng vào”, “ngắt ra”, “cài lên” – diễn tả một “tấm lòng”, một cử chỉ trân trọng và dâng hiến trong tình yêu. Tago viết bài thơ này cách chúng ta ngày nay ngót một thế kỷ mà hình ảnh thơ vẫn mới mẻ, thú vị vô cùng:
“Nếu đời anh chỉ là viên ngọc,
anh sẽ đập nó ra làm trăm mảnh
và xâu thành một chuỗi
quàng vào cổ em.
Nếu đời anh chỉ là một đóa hoa
tròn trịa, dịu dàng và bé bỏng,
anh sẽ hái nó ra đặt lên mái tóc em.”
Lời thơ dịch khá sát và hay. Có điều trong nguyên tác chữ “cài” (cài lên mái tóc em), dịch giả đã chuyển thành “đặt lên mái tóc em”, là cho lời thơ thô, làm giảm đi phong cách tao nhã, phong tình của chàng trai!
3. Đoạn thơ thứ ba, chàng trai khẳng định tình yêu của mình qua hình ảnh so sánh: “Trái tim”. Ba tiếng “Nhưng em ơi!” vang lên thiết tha, đắm say. Lời tỏ tình được nâng lên một tầm cao mới, một chiều sâu thăm thẳm. Tình yêu ấy sâu sắc và mênh mông. Em là thần tượng, là nữ hoàng đang ngự trị vương quốc tình yêu – đời anh. Là một lời nhắc khẽ em yêu! Nhẹ nhàng và tế nhị. Gần mà xa, xa mà gần biết trân trọng và phát hiện mọi phẩm chất cao quý tiềm ẩn trong tâm tình người yêu. Lời tỏ tình sang trọng quá, chứng tỏ chàng trai có một trái tim rất nhân văn! Cả đời anh, tâm hồn anh, tình yêu của anh đã thuộc về em:
“Nhưng em ơi, đời anh là một trái tim
Nào ai biết chiều sâu và bến bờ của nó,
Em là nữ hoàng của vương quốc đó
Ấy thế mà em có biết gì biên giới của nó đâu!”
Đầu bài thơ, thi sĩ đã dùng hình ảnh “biển cả”, đến khổ thơ này, ông lại tạo ra những khái niệm bổ sung: “bến bờ”, “vương quốc”, “biên giới” – tạo ra một hệ thống ngôn ngữ diễn tả một không gian nghệ thuật để nói lên niềm tự hào của người con trai có một tình yêu trong sáng mênh mông.
4. Tình yêu không thể tầm thường và đơn giản. Đâu chỉ là “một phút giây lạc thú” để làm “nở ra thành một nụ cười nhẹ nhõm”, tầm thường, thoảng qua! Tình yêu cũng không phải là sự hèn hạ, van xin, cầu mong một sự “ban ơn”, một sự yếu mềm. Giọt lệ trong, nỗi thương đau, nỗi sầu u ẩn mà người con trai mang lại trong mỗi cuộc tình chỉ là sự hèn hạ mà thôi. Mà đâu chỉ là lĩnh vực tình yêu, mọi sự quỳ lạy, van xin trong ứng xử đều hèn hạ, đáng khinh. Đoạn thơ này mang tính chất “phản đề”, nhiều người viết sách lâu nay đã hiểu không đúng. Chàng trai muốn tâm tình với người yêu là trái tim anh không phải như thế này đâu:
“Nếu trái tim anh chỉ là phút giây sướng vui, nó sẽ nở nụ cười dịu hiền và em sẽ thấu hiểu nó nhanh – Nếu trái tim anh chỉ là nỗi thương đau, nó sẽ tan ra thành lệ trong phản ánh nỗi sầu thầm kín”.
5. Hai đoạn thơ thứ 4 và thứ 5 tương phản đối lập. Từ phủ định đi đến khẳng định. Không nên như thế này mà phải như thế này. Người con trai đã mang đến cho người con gái một tình yêu tuyệt đẹp. Anh tự hào thổ lộ:
“Nhưng em ơi, trái tim anh lại là tình yêu,
Nỗi vui sướng khổ đau của nó là vô biên.
Những đòi hỏi và sự giàu sang của nó là trường cửu
Trái tim anh cũng ở gần em như chính đời em vậy
Nhưng chẳng bao giờ em biết trọn nó đâu!”
Trong nguyên tắc: “những gì tình yêu cầu mong” được người dịch thơ viết thành: “những đòi hỏi” dễ làm nhiều độc giả hiểu không đẹp ý thơ. Chàng trai tự hào về trái tim của mình “lại là tình yêu”, tình yêu đích thực, đâu phải thứ “trái tim chỉ là giây phút lạc thú”. Tình yêu của em đã và đang mang đến cho anh bao cảm xúc kỳ diệu, lúc thì vui sướng, lúc thì khổ đau… Tình yêu đâu chỉ toàn vị ngọt? Vui sướng và khổ đau mà tình yêu mang đến là mênh mông, là vô biên. Những cầu mong và sự giàu có mà tình yêu, mà trái tim của chàng trai là bất tận, là trường cửu. Chàng trai cầu mong ở người tình một tình yêu đằm thắm, chân thành và thủy chung. Cầu mong con thuyền tình của anh và em sẽ cập bến bờ hạnh phúc giữa mùa trăng? Nhẹ nhàng thổ lộ và trách móc: gần đấy sao mà xa xôi. Hình như em vẫn chưa hiểu tình yêu của anh đã dành cho em. Phải biết phát hiện sự cầu mong và giàu sang trong tình yêu, Năm dòng cuối là một “tuyên ngôn” đẹp của tình yêu. Thơ tình của Tago mang thêm màu sắc triết lý.
Có biết chiếm lĩnh trái tim người yêu mới thật sự có và được sống trong một tình yêu đẹp, trọn vẹn.
Bài thơ tình số “28” của Tago rất đẹp và sáng tạo trong hình tượng: “đôi mắt buồn, băn khoăn” – “ánh trăng soi vào biển cả” – "viên ngọc và chuỗi ngọc”, “đóa hoa thơm và vòng hoa” – trái tim yêu thương mênh mông… Ý tưởng phong phú và sâu sắc: cái ngần ngại, băn khoăn của thiếu nữ trong mối tình đầu; sự chân thành, say đắm, nồng nàn, khát khao trong tình yêu của chàng trai. Không thể tầm thường, đơn giản trong tình yêu. Bài thơ tình còn là một sự đúc kết, chiêm nghiệm: Yêu là tìm kiếm, là phát hiện và chiếm lĩnh. Tình yêu là sung sướng và khổ đau, là thiếu thốn và giàu sang, gần mà xa, xa mà gần. Phải biết phát hiện để chiếm lĩnh tình yêu, có thế mới thật sự đi tới mái ấm hạnh phúc trong tình yêu đôi lứa.
Cũng như “Biển” của Xuân Diệu, “Sóng” của Xuân Quỳnh, “Tôi yêu em” của Puskin,… bài thơ này của Tago không thể thiếu trong hành trang – tâm hồn “tuổi áo trắng” mộng mơ.
Vũ Hường tổng hợp
Từ khóa tìm kiếm
- cảm nhận về bài thơ bài thơ số 28