Phân tích tác phẩm Lão Hạc – Văn hay lớp 8
Phân tích tác phẩm Lão Hạc – Văn hay lớp 8 Phân tích tác phẩm Lão Hạc – Bài làm số 1 của một bạn học sinh giỏi văn tỉnh Bình Dương Tác phẩm được sáng tác vào năm 1943 là tác phẩm viết về đề tài người nông dân xuất sắc nhất của Nam. Nó xây quanh cuộc sống, số phận của người nông dân ...
Phân tích tác phẩm Lão Hạc – Văn hay lớp 8
Phân tích tác phẩm Lão Hạc – Bài làm số 1 của một bạn học sinh giỏi văn tỉnh Bình Dương
Tác phẩm được sáng tác vào năm 1943 là tác phẩm viết về đề tài người nông dân xuất sắc nhất của Nam. Nó xây quanh cuộc sống, số phận của người nông dân một cách khái quát mà độc đáo. Điển hình ở đây là nhân vậy Lão Hạc. Nam cao đã đưa tiếng nói của mình vào tác phẩm để nói lên cái sự cảm thương, sốt xa cho số phận của người nông dân.
Tác phẩm đã khái hóa xây quanh nhân vật Lão Hạc, qua tâm sự của Lão Hạc về tình thương của ông dành cho con trai của mình, tình thương dành cho những động vật nhỏ bé, về khối tài sản với mong muốn để lại cho con trai mình đó là mảnh vườn và cuối cùng là ông nói về cái chết về sự tồn tại của cuộc đời mình. Ông đã chọn sự giải thoát cho cuộc đời bằng cái chết vì tự trọng vì nhân tính của bản thân.
Nam cao đã khắc họa nhân vật Lão Hạc ở trong một tình cảnh rất đáng thương. Vợ thì mất sớm, ông phải nuôi con, khi con ông đến tuổi lấy vợ thì nhà gái thách cao con trai ông phải bỏ quê đi làm đồn điền cao su. Khi con của Lão đi thì lão không biết bầu bạn với ai chỉ có con chó mà con lão để lại cho lão để làm người bạn tri kỉ với lão. Trong cía tình cảnh khó khăn đó, vì k dữ được mảnh đát cho con trai nên lão bằng bán đi con chó mà lấy tiền giử mảnh đất cho con. Khi buồn bã thấu hiểu về cuộc đời lão đã tìm đến bã chó để tự tử.
Qua những chi tiết trên cho thấy Lão Hạc là một lão nông nghèo nhưng có nhiều phẩm chất tốt đẹp, đáng quý.Nhân vật Lão Hạc là nhân vật điển hình, đại diện cho mỗi tầng lớp người nông dân rơi vào hoàn cảnh trớ trêu nhưng toát lên những vẻ đẹp tâm hồn sáng trong. Nam Cao đã khắc họa được hình ảnh người nông dân suốt đời lao động cần cù ấy không thể sống, dù là sống trong nghèo khổ. Cuộc sống khốn cùng và cái chết bi thương của lão Hạc đã nói lên thấm thía số phận thê thảm của người nông dân trong cái xã hội tăn tối đương thời. Phải cảm thông sâu sắc với người nông dân, phải thấu hiểu nỗi đau của họ.
Tình thương của lão dành cho con chó cũng như tình thương của ông dnahf cho con trai mình vậy. Lão coi nó như một người bạn,ngày ngày lão tâm sự, trò chuyện với nó như thể nó cũng là con người.Tình thế cùng đường khiến lão phải bán nó thì trong lão diễn ra sự dằn vặt, đau khổ tột độ. Lão kể cho ông giáo nghe về việc bán cậu Vàng với tâm trạng vô cùng đau đớn. Vói chi tiết này lão Hạc muốn trách bản thân minh khi phải bán đi người bạn luôn tâm sự với lão vào những lúc buồn vắng có thể nói là người bạn tri kỉ. Và ông cảm thấy như mình bị dầy vò lương tâm có lỗi với cậu vàng.
Đối với con trai mình ông là người thương con vô bờ bến, lo nghĩ đến tương lai đến cuộc sống của con mình. Chỉ vì không cưới được vợ mà con trai lão đã bỏ đi làm đồn điền cao su. Bỏ lại một mình lão đơn độc, cô đơn trong căn nhà ấy. Lão hết mực thương con mình, dành dụm từng đồng để cho con nhưng vì một cơn ốm mà lão đã tiêu xài vào tiền của con mình nên lão thấy có lỗi với con nên lão đã quyết định đi đến cái chết. Cái chết của lão còn nói len cái lòng tự trọng của ông với cậu vàng với con trai và với hàng xóm. Qua những chi tiết đó cho thấy Lão Hạc là một người lương thiện có một tấm lòng đáng được tôn trọng.
Qua tác phẩm này Nam Cao đã khắc họa thành công một con người lao động chân chính lương thiện và cho thấy được cái xã hội phong kiến tàn bạo của ngày ấy. Không chỉ vậy Nam Cao còn đưa những hình ảnh ấn tượng nhưng chi tiết hấp dẫn gần gủi thiết thực với người nông dân.
Phân tích tác phẩm Lão Hạc – Bài làm số 2
Nam Cao (1915 – 1951), tên thật là Trần Hữu Tri, quê ở làng Đại Hoàng, huyện Lí Nhân, tinh Hà Nam. Ông được đánh giá là nhà văn hiện thực xuất sắc trước cách mạng, là bậc thầy của truyện ngắn Việt Nam. Hình ảnh nông thôn bùn lầy nước đọng, tiêu điều xơ xác vì đói khổ hiện lên thường xuyên trong tác phẩm của ông như một nỗi ám ảnh không nguôi. Nam Cao viết nhiều về nạn đói. Cái đói ảnh hưởng không ít tới nhân cách nhưng trong cảnh đói khát thê thảm, phẩm chất tốt đẹp của người nông dân nghèo vẫn tồn tại và âm thầm tỏa sáng. Một trong những tác phẩm thể hiện cái nhìn nhân đạo sâu sắc của Nam Cao là truyện ngắn Lão Hạc. Nhân vật chính là một lão nông nghèo khổ, cuộc đời gặp nhiều bất hạnh. Tuy vậy, lão vẫn giữ được bản chất thật thà, đôn hậu, tình thương yêu con tha thiết, đức hi sinh cao cả và lòng tự trọng đáng kính phục.
Qua nhân vật này, Nam Cao giúp người đọc thấy rõ tình cảnh khốn cùng và số phận đáng thương của nông dân Việt Nam trong chế độ thực dân phong kiến tàn ác đương thời.
Nhân vật đứng ra kể chuyện là ông giáo, người hàng xóm thân thiết của lão Hạc. Nhờ vậy mà câu chuyện trở nên gần gũi, chân thực. Tác giả dẫn dắt người đọc vào cuộc, cùng sống, cùng chia sẻ vui buồn với nhân vật. Do đó mà người đọc có cảm giác như mình đang được chứng kiến tận mắt diễn biến của câu chuyện bi thảm này.
Tác giả kết hợp giữa kể với tả, đan xen hiện tại và quá khứ, hiện thực với trữ tình. Giọng kể biến đổi linh hoạt tuỳ theo tình huống. Cảm xúc phần lớn được thể hiện gián tiếp suốt chiều dài truyện nhưng cũng có lúc bộc lộ trực tiếp qua những câu cảm thán đầy xót xa, ái ngại, ẩn chứa triết lí sâu sắc về cuộc sống, về thân phận con người.
Gia cảnh của lão Hạc thật đáng buồn, vợ lão mất sớm, đứa con trai duy nhất lại phẫn chí bỏ vào Nam làm phu đồn điền cao su, biền biệt một năm nay chẳng tin tức gì. Lão Hạc dồn tất cả tình yêu thương cho con. Lão sẽ sung sướng biết bao nếu con trai lão được hạnh phúc, nhưng con trai lão đã bị phụ tình chi vì quá nghèo.
Thương con, lão thấu hiểu nỗi đau đớn của con. Con trai lão đã vâng lời bố, không bán mảnh vườn để lấy tiền cưới vợ mà chấp nhận sự tan vỡ của tình yêu. Càng thương con, lão càng xót xa đau đớn vì đã không giúp được con thoả nguyện. Lão Hạc mỏi mòn chờ con về, ngày ngày quanh quẩn làm thuê, làm mướn kiếm ăn. Dù đói, lão nhất quyết giữ mảnh vườn và không ăn vào số tiền dành dụm cho con. Sau trận ốm kéo dài, lão thấy người yếu đi ghê lắm. số tiền tích cóp bấy lâu nay đã cạn kiệt. Rồi trận bão vừa qua đã phá sạch sành sanh hoa màu trong vườn. Giá gạo thì cứ cao mãi lên mà lão Hạc thì chẳng còn được ai thuê mướn. Thế là lão lặng lẽ đi đến một quyết định quan trọng. Sau khi dằn lòng bán con chó Vàng thân thiết, lão sang nhờ cậy ông giáo một việc…
Trước tiên, lão kể chuyện bán con chó Vàng cho ông giáo nghe.
Lão Hạc rất quý con chó vì nó là ki vật duy nhất của đứa con trai. Lão trìu mến gọi nó là cậu Vàng và cho nó ăn cơm bằng chiếc bát lành lặn. Với lão, con Vàng là bầu bạn sớm hôm. Mỗi lần nhớ con trai, lão lại thì thầm trò chuyện với nó cho khuây khỏa. Vì gắn bó như thế nên đã mấy lần định bán con Vàng mà lão vẫn không bán nổi.
Cuối cùng, cũng vì thương con mà lão phải dứt khoát chia tay với nó. Lão nghèo túng quá! Đến Cơm cũng chẳng có mà ăn, lấy gì để nuôi cậu Vàng? Lão không muốn tiêu phạm vào những đồng tiền ít ỏi mà lão để dành cho con trai từ việc bán hoa lợi thu được từ mảnh vườn ba sào bé tí.
Lão Hạc tính đi tính lại và đành bán cậu Vàng để khỏi tốn kém, nhưng lòng lão thì đau đớn, xót xa. Lão đã kể cho ông giáo nghe cảnh bán cậu Vàng với nỗi xúc động cực độ. Lão đau khổ, đằn vặt, cứ tự trách mình vì cảm thấy mình có lỗi: già bằng này tuổi đầu rồi còn đánh lừa một con chó. Cả đời, ông lão nhân hậu này nào đã nỡ lừa ai! Thái độ và cử chi của lão Hạc mới đáng thương làm sao: Lão cố làm ra vẻ vui vẻ. Nhưng trông lão cười như mếu và đôi mắt lão ầng ậng nước… Mặt lão đột nhiên co rúm lại. Những vết nhăn xô lại với nhau, ép cho nước mắt chảy ra. Cái đầu lão ngoẹo về một bên và cái miệng móm mém của lão mếu như con nít. Lão hu hu khóc… Nỗi khổ tâm của lão cứ chồng chất mãi. Trước đây, chi vì nghèo mà lão không cưới được vợ cho con thì bây giờ cũng chi vì nghèo mà lão phải buộc lòng cư xử không đàng hoàng với một con chó.
Nhưng không chi có vậy. Qua từng trang truyện, chúng ta còn hiểu thêm về một lão Hạc đôn hậu, chất phác. Suốt đời lão sống quanh quẩn trong lũy tre làng nên những suy nghĩ, tính toán của lão rất đơn giản, thật thà. Lão tìm đến ông giáo để chia sẻ tâm sự và quan trọng hơn là tìm một chỗ dựa tinh thần:
… Và lão kể. Lão kể nhỏ nhẻ và dài dòng thật. Nhưng đại khái có thể rút vào hai việc. Việc thứ nhất: lão thì già, con đi vắng, vả lại nó cũng còn dại lắm, nếu không có người trông nom thì khó mà giữ được vườn đất để làm ăn ở cái làng này; tôi là người nhiều chữ nghĩa, nhiều lí luận, người ta kiêng nể, vậy lão muốn nhờ tôi cho lão gửi ba sào vườn của thằng con lão; lão viết văn tự nhượng lại cho tôi để không ai còn tơ tưởng dòm ngó đến; khi nào con lão về thì nó sẽ nhận vườn làm, nhưng văn tự cứ để tên tôi cũng được, để thế để tôi trông coi cho nó… Việc thứ hai: lão già yếu lắm rồi, không biết sống chết lúc nào, con không có nhà, lỡ chết không ai đứng ra lo cho được ; để phiền cho hàng xóm thì chết không nhắm mắt; lão còn được hăm nhăm đổng bạc với năm đồng bạc vừa bán chó là ba mươi đồng bạc, muốn gửi tôi, để lỡ có chết thì tôi đem ra, nói với hàng xóm giúp, gọi là của lão có tí chút, còn bao nhiêu đành nhờ hàng xóm cả…
Nghe những lời tâm sự của lão Hạc, không ai có thể kìm nổi xót thương, thông cảm và khâm phục một con người bất hạnh vì nghèo đói nhưng không hề nghĩ đến mình mà dồn tất cả tình yêu thương cho đứa con trai duy nhất.
Lão đã chuẩn bị kĩ lưỡng mọi việc. Trước khi chết, lão nhờ ông giáo giữ hộ mảnh vườn và gửi ông giáo ba mươi đổng để lo chôn cất. Lão không muốn làng xóm phải tốn kém vì lão. Rất có thể vì tốn kém mà người ta lại chẳng oán trách lão sao? Không để phiền lụy đến mọi người, đó cũng là một cách giữ gìn phẩm giá. ông lão bề ngoài có vẻ gàn dở nhưng bên trong lại có phẩm chất đáng quý nhường nào!
Xét về tuổi tác, lão Hạc còn có thể sống lâu, nhưng lão chi còn vẻn vẹn ba mươi đồng bạc, nếu tiếp tục sống thì phải ăn vào chút vốn liếng ít ỏi, cho nên lão đã chọn cái chết để bảo toàn căn nhà và mảnh vườn cho con trai. Cái chết tự nguyện này xuất phát từ lòng thương con âm thầm mà sâu nặng, từ lòng tự trọng đáng kính của lão Hạc.
Lão Hạc trò chuyện với ông giáo bằng giọng lễ phép, cung kính có phần quá mức. Đó là cách bày tỏ thái độ kính trọng đối với người hiểu biết và nhiều chữ:
Đã đành rằng thế, nhưng tôi bòn vườn của nó bao nhiêu, tiêu hết cả. Nó vợ con chưa có. Ngộ nó không lấy gì lo được, lại bán vườn thì sao?… Tôi cắn rơm, cắn cỏ tôi lạy ông giáo! ồng giáo có nghĩ cái tình tôi già nua tuổi tác mà thương thì ông giáo cứ cho tôi gửi.
Cảnh ngộ đã đến lúc bế tắc, nhưng lão vẫn giữ nếp sống trong sạch, tránh xa lối đói ăn vụng, túng làm càn:
Luôn mấy hôm tồi thấy lão Hạc chi ăn khoai. Rồi thì khoai cũng hết Bắt đầu từ đấy, lão chế được món gì, ăn món ấy. Hôm thì lão ăn củ chuối, hôm thì lão ăn sung luộc, hôm thì rau má, với thinh thoảng một vài củ rảy hay bữa trai, bữa ốc.
Khi ông giáo kể cho vợ nghe tình cảnh đáng thương của lão Hạc thì bà gạt phắt đi:
– Cho lão chết! Ai bảo lão có tiền mà chịu khổ! Lão làm khổ lão chứ ai làm lão khổ! Nhà mình sung sướng gì mà giúp lão? Chính con mình cũng đói…
Bất lực, ông giáo chi biết ngậm ngùi than thở: Chao ôil Đối với những người ở quanh ta, nếu ta không cố tìm mà hiểu họ, thì ta chỉ thấy họ gàn dờ, ngu ngốc, bần tiện, xấu xa, bi ổi… toàn những cớ để ta tàn nhẫn; không bao giờ ta thương…
Đây là triết lí thấm đượm cảm xúc xót xa chân thành của Nam Cao trước những số phận bất hạnh trong cuộc đời. Nam Cao khẳng định một thái độ sống, một cách ứng xử nhân đạo: cần phải quan tâm, suy nghĩ đúng đắn về những con người sống quanh mình, nhìn nhận và đánh giá họ bằng sự đồng cảm, bằng đôi,mắt của tình thương, vấn đề này đã trở thành chủ đề sâu sắc trong một truyện ngắn cùng tên của Nam Cao. Ông cho rằng con người chi xứng đáng với danh nghĩa con người khi biết đồng cảm, trân trọng, nâng niu những điều đáng thương, đáng quý ở người khác.
Cái chết bi thảm của lão Hạc là biểu hiện cao nhất của đức hi sinh. Chính vì thương con, muốn giữ cho con chút vốn giúp nó thoát cảnh đói nghèo mà lão Hạc đã chọn cho mình cái chết. Đó là một sự lựa chọn tự nguyện và dữ dội, đầy bi kịch.
Tình cảnh đói khổ, túng quẫn đã đẩy lão Hạc đến việc coi cái chết như một hành động giải thoát. Chi tiết này phản ánh số phận bi thảm, bế tắc của nông dân nghèo trong xã hội thực dân phong kiến đầy áp bức bất công.
Thực ra, lão Hạc âm thầm chuẩn bị cho cái chết của mình từ sau khi bán cậu Vàng. Khi nghe Binh Tư cho biết lão Hạc hôm qua sang xin bả chó, ông giáo trố to đôi mắt, ngạc nhiên: Hỡi ơi lão Hạc!… Con người đáng kính ấy bây giờ cũng theo gót Binh Tư để có ăn ư? Cuộc đời quả thật cứ mỗi ngày một thêm đáng buồn.
Đây là một chi tiết nghệ thuật quan trọng có tác dụng đánh lạc hướng để gây bất ngờ, đảo ngược những ý nghĩ tốt đẹp về lão Hạc của ông giáo và mọi người. Cuộc đời quả thật cứ mỗi ngày một thêm đáng buồn vì nó đã đẩy con người lương thiện như lão Hạc vào cảnh dám làm liều như ai hết. Nghĩa là con người vốn nhân hậu, giàu lòng tự trọng đến thế mà giờ đây cũng bị tha hoá bởi miếng ăn. Câu nói mập mờ đầy mia mai của Binh Tư đã đẩy tình huống truyện lên đến đỉnh điểm: Lão làm bộ đấy! Thật ra thì lão chỉ tâm ngẩm thế, nhưng cũng ra phết chứ chả vừa đâu. Lão vừa xin tôi một ít bả chó… Lão bảo có con chó nhà nào cứ đến vườn nhà lão… Lão định cho nó xơi một bữa. Nếu trúng, lão với tôi uống rượu.
Chứng kiến cái chết vật vã đau đớn vì ăn bả chó của lão Hạc; mọi nghi ngờ trong lòng ông giáo tan biến: Không! Cuộc đời chưa hẳn đáng buồn, hay vẫn đáng buồn nhưng lại đáng buồn theo một nghĩa khác.
Cuộc đời chưa hẳn đáng buồn bởi còn cỏ những con người trong sạch như lão Hạc, nhưng lại đáng buồn ở chỗ những con người có nhân cách cao đẹp như lão Hạc mà lại không được sống. Tại sao ông lão đáng thương, đáng kính như vậy mà phải chịu cái chết bi thảm đến thế này?!
Người đọc không khỏi băn khoăn về cách chọn cái chết của lão Hạc là tự tử bằng bả chó. Sao lão không chọn cái chết lặng lẽ, êm dịu hơn? Ông lão nhân hậu trung thực này suốt đời chưa đánh lừa một ai. Lần đầu tiên trong đời lão bắt buộc phải lừa một con chó vô tội – người bạn thân thiết của mình. Dường như cách lựa chọn này chứa đựng ý muốn tự trừng phạt. Nó càng chứng tỏ đức tính trung thực, lòng tự trọng đáng kính phục của lão Hạc. Vì thế cái chết dữ dội này càng gây ấn tượng mạnh ở người đọc.
Cái chết vật vã, đau đớn của lão Hạc được Nam Cao miêu tả với lòng xót thương vô hạn: Tôi xồng xộc chạy vào. Lão Hạc đang vật vã ở trên giường, đầu tóc rũ rượi, quần áo xộc xệch, hai mắt long sòng sọc. Lão tru tréo, bọt mép sùi ra, khắp người chốc chốc lại bị giật mạnh một cái, nảy lên. Hai người đàn ông lực lưỡng phải đè lên người lão. Lão vật vã đến hai giờ đồng hồ rồi mới chết. Cái chết thật là dữ dội. Chẳng ai hiểu lão chết vì bệnh gì mà đau đớn và bất thình lình như vậy. Chỉ có tôi với Binh Tư là hiểu.
Nhà văn Nam Cao đã giúp chúng ta hiểu được nỗi khổ tâm, bất hạnh vì nghèo đói cùng những vẻ đẹp cao quý trong tâm hồn người nông dân Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám. Từ những trang sách của Nam Cao, hình ảnh lão Hạc luôn nhắc nhở chúng ta nhớ đến những con người nghèo khổ mà trong sạch với một tình cảm xót thương và trân trọng.
Phân tích tác phẩm Lão Hạc – Bài làm số 3
Trong các nhà văn hiện thực Việt Nam.Nam Cao là một trong những cây bút sáng giá đã để lại cho đời những tác phẩm xuất sắc sống mãi với thời gian,với bạn đọc.Những nhân vật của ông như đang hiện diện trước mắt chúng ta những cuộc sống gian truân,trắc trở, éo le. Với nhân vật Lão Hạc trong truyện ngắn cùng tên của ông đã bộc lộ rõ điều đó.
Tác phẩm này được coi là một trong những truyện ngắn mang đậm giá trị hiện thực xuất sắc trong trào lưu hiện thực phê phán của thời kì 1930-1945.Trước xã hộ suy tàn đó nổi bật lên là hình ảnh một lão nông dân đáng kính với phẩm chất của một con người đôn hậu,giàu lòng tự trọng và rất mực yêu thương con.
Điều đầu tiên phải nói đến đó là tấm lòng đôn hậu, rất mực yêu thương con của Lão Hạc.Vợ chết sớm một mình sống trong cảnh ngộ gà trống nuôi con. Khi con đến tuổi trưởng thành,vì nhà nghèo nên làm lỡ mất duyên con khiến lão ân hận và cảm thấy mình có lỗi. Vì thế,con trai lão phẫn uất đi đồn điền cao su, để lại một mình lão thui thủi ở nhà một mình với cậu Vàng – như cách gọi của lão.Nó là một hình ảnh kỷ niệm duy nhất của đứa con trai độc nhất.Hơn thế nữa,cậu Vàng còn là niềm an ủi của một lão già cô đơn không nơi nương tựa.Lão cho cậu ăn trong bát sứ,chia sẻ thức ăn chăm sóc trò chuyện với cậu như một người bạn tâm giao.Bởi thế,cái ý định “có lẽ tôi bán con chó đấy” của lão Hạc bao lần chần chừ không thực hiện nhưng rồi cuối cùng cậu Vàng cũng được bán đi với giá năm đồng bạc.
Cậu Vàng bán đi! Có lẽ đó là quyết định khó khăn nhất của đời lão.Năm đồng bạc Đông Dương kể ra cũng là một món tiền to, nhất là giữa buổi đói deo, đói dắt như thế này. Nhưng lão Hạc bán cậu Vàng không phải vì tiền, bởi “gạo thì cứ kém mãi đi”, “ mà mỗi ngày lo ba hào gạo” thì lão không đủ sức. Cậu Vàng trở thành gánh nặng nhưng bán cậu rồi, lão Hạc lại đau khổ, dày vò chính mình trong tâm trạng năng trĩu.
Khoảnh khắc “ lão cố làm ra vẻ vui vẻ” cũng không giấu được với khuôn mặt “ cười như mếu và đôi mắt lão ầng ầng nước”. Nỗi đau đớn cố kìm nén của lão Hạc như cắt nghĩa cho việc làm bất đ ắc dĩ, khiến ông Giáo là người báo tin cũng không tránh khỏi cảm giác ái ngại cho lão. Ông Giáo hiểu được tâm trạng của một con người phải bán đi con vật bầu bạn trung thành của mình. Cảm giác ân hận cứ đeo đuổi, giày vò lão Hạc tạo nên sự đột biến trên khuôn mặt “ mặt lão đột nhiên co rúm l ại. Những nếp nhăn xô lại với nhau, ép cho ra nước mắt. Cái đầu lão nghẹo về một bên và cái miệng móm mém của lão mếu như con nít, lão huhu khóc”.Bản chất của một con người lương thiện, tính chất của một người nông dân nghèo khổ mà nhân hậu, nghĩa tình, trung thực và giàu lòng vị tha đã được bộc lộ đầy đủ trong đoạn văn này. Lão Hạc chỉ vì bán một con chó mà tự oán trách mình đau khổ đến thế. Liệu Binh Tư,vợ ông Giáo và bao người khác nữa, họ có hiểu không, hay họ chỉ thấy Lão gàn dở, ngu ngốc.Ta cảm thương số phận của lão, ta cảm phục trước đức hi sinh và lòng nhân hậu của lão -một con người cao đẹp.
Trong cuộc sống đói khổ, cùng cực ấy của lão Hạc phải ăn củ chuối, củ ráy… ông Giáo đã mời lão Hạc ăn khoai, uống nước chè nhưng lão xin khất “ông Giáo để cho khi khác”. Vì trận ốm kéo dài, lão Hạc đã suy sụp hẳn, lão không đủ sức để làm và cũng chẳng có gì để ăn nhưng lòng tự trọng của lão không cho phép mình xâm phạm đến số tiền của con. Từ lúc đó, lão Hạc bắt đầu cuộc lựa chọn tàn khốc nhưng rồi lão đã chọn cái chết.Trước khi chết lão đã nhờ ông Giáo giữ tiền làm ma và trông hộ mảnh vườn để đỡ làm phiền hàng xóm.Tấm lòng của lão thật trong sáng lỡ may khi lão chết ông Giáo sẽ lấy mảnh vườn đó thì sẽ sao? Lão không nghĩ đến điều đó, lão luôn nghĩ mọi người đều tốt cả. Nói đến lòng tự trọng thì có lẽ đó cũng là một điều đáng quý,lòng tự trọng của lão Hạc đẹp biết bao,lão từ chối sự giúp đỡ của mọi người kể cả ông Giáo nữa.Kết cục của lão đã được báo trước.Lão đã trải qua những chua chát, tủi cực của một kiếp người, khi phải đối mặt với hiện thực nghiệt ngã đó là phải đứt ruột tiễn đưa người con trai ra khỏi vòng tay của lão, cái đói cái nghèo lại tiếp tục cướp đi cậu Vàng. Suy cho cùng việc bán chó cũng xuất phát từ tấm lòng của một người cha yêu thương con và luôn lo lắng cho hạnh phúc, tương lai của con sau này. Những lời gửi gắm và món tiền trao cho ông Giáo giữ hộ sau lúc bán chó có ngờ đâu nó cũng là những lời trăng trối cuối cùng của lão Hạc.Tuy cái chết đã được báo trước nhưng mọi người cũng vẫn bất ngờ, thương cảm cho lão Cái chết của lão thật giữ dội, lão chết “ vật vã ở trên giường, đầu tóc rũ rượi…; khắp người chốc chốc lại bị giật mạnh một cái nảy lên” Lão Hạc tượng trưng cho người nông dân bước tới đ ường cùng, không còn lối thoát đành phải tìm đến cái chết – cái chết đó cũng không thanh thảnh như bao người. Nếu lão Hạc muốn đứng vững trên bờ lương thiện thì cái chết là giải pháp cuối cùng để lão khỏi ngã quỵ giữa vực sâu của sự tha hoá.
Kết thúc bi kịch cũng là sự chấm dứt những dằn vặt riêng tư của lão.Cái đẹp và cái xấu xa bao giờ cũng là cánh tay của một thân thể.Không vì cánh tay trái xấu xa mà đem tay phải chặt đứt cánh tay trái đi thì chính thân thể này sẽ đau đớn chứ không phải là cánh tay trái.
Cũng như nhân vật Chí Phèo ở làng Vũ Đại trong tác phẩm “ Chí Phèo” Nam Cao đã dựng lên hình ảnh của những người thuộc tầng lớp thấp cùng của xã hội phong kiến, họ có đ ời sống bần cùng nhưng lại có phẩm chất cao đẹp.Lão Hạc thương con đứt ruột nhưng lại bất lực khi thấy con ra đi “thẻ của nó người ta giữ,hình của nó người ta đã chụp rồi.Nó lại đã lấy tiền của người ta rồi nó là của người ta chứ đâu còn là con tôi nữa”.T ừng lời nói của lão Hạc là những tiếng nấc nghẹn ngào bật ra từ con tim, từ tận đáy lòng của người cha dường như không còn chút uất ức, cam chịu. Lòng tự trọng của lão đã bị vắt kiệt, xoá sạch nỗi cao ngạo đối với một con chó và đầy ắp nỗi cưu mang đối với giá trị nhân phẩm của niềm luân lí Á Đông.
Thời gian cứ thế trôi qua, nhưng hình ảnh người nông dân Việt Nam trước Cách mạng Tháng Tám vẫn luôn thắm đượm trong mỗi chúng ta những hình ảnh về một Lão Hạc với bao phẩm chất tốt đẹp.
Phân tích tác phẩm Lão Hạc – Bài làm số 4
Truyện ngắn Lão Hạc của nhà văn Nam Cao được đăng lần đầu tiên trên tuần báo Tiểu thuyết thứ bảy số 434 ra ngày 23 – 1 – 1943 là một trong những truyện ngắn xuất sắc của ông viết về người nông dân.
Tuy nhiên truyện ngắn này, Nam Cao đã khắc hoạ thật sinh động hình ảnh lão Hạc – một người nông dân bề ngoài có vẻ gàn dở, lẩm cẩm nhưng thật ra là một con người có tấm lòng nhân hậu, giàu tình nghĩa, rất mực lương thiện và đầy khí tiết.
Lão Hạc rất yêu quý con chó vàng, coi nó như người bạn thân thiết, như con như cháu lão. Lão gọi nó là cậu Vàng như một bà ‘hiếm hoi gọi đứa con cầu tự’. Thỉnh thoảng lão lại bắt rận hay tắm cho nó. Lão cho nó ăn trong một ‘cái bát như một nhà giàu’, và ăn gì ‘lão cũng chia cho nó cùng ăn’. Khi uống rượu, lão cứ ‘nhắm vài miếng lại gắp cho nó một miếng như người ta gắp thức ăn cho con trẻ’. Rồi lão mắng yêu nó, nói với nó như nói với ‘một đứa cháu bé về bố nó’.
Lão Hạc đặc biệt yêu quý cậu Vàng vì nó là tài sản, là kỉ vật của người con trai, vả lại, vỢ lão đã chết, con trai đi. biền biệt, lão sống trơ trọi, thui thủi một mình, có con chó làm bạn cho khuây khoả, cho đỡ buồn.
Nhưng, mặc dù rất yêu quý con chó, lão Hạc vẫn phải bán nó vì không nuôi nổi nó và sợ tiêu lạm vào số tiền lão dành dụm cho con. Nỗi đau đớn của lão Hạc là ở đó. Bán con chó vàng là bán cả niềm vui, niềm an ủi cuối cùng của lão. Ta hiểu vì sao lão cứ đắn đo, do dự mãi khi quyết định bán con chó. Và khi buộc lòng phải bán chó, lão vô cùng đau đớn. ‘Lão cố làm ra vui vẻ. Nhưng trông lão cười như mếu và đôi mắt ầng ậc nước’. Lão tự nhận là một kẻ bất nhân, là tên lừa đảo đối với một con chó vốn tin yêu mình. ‘Mặt lão đột nhiên co dúm lại. Những vết nhăn xô lại với nhau, ép cho nước mắt chảy ra. Cái đầu lão ngoẹo về một bên và cái miệng móm mém của lão mếu máo như con nít. Lão hu hu khóc… ‘. Câu văn diễn tả được nỗi đau đớn. Sự khổ tâm, sự ăn năn, niềm xót thương của lão Hạc lên đến tột độ, không sao kiềm chế nổi nên già mà khóc như con nít. Tuổi già, nước mắt đã vơi cạn, cả bộ mặt phải ‘co dúm’ lại mới có thể ép được chút nước mắt chảy ra.
Tình cảm của lão Hạc đối với con chó Vàng là sự thể hiện gián tiếp tình thương yêu sâu nặng của lão đối với con trai. Những lời âu yếm, mắng yêu, nói nựng của lão Hạc với con chó thực chất là sự bộc lộ tình cảm nhớ thương tha thiết của lão đối với người con đi xa biền biệt, không một tin tức gửi về. Lão thương con lắm’ khi con không có tiền để cưới vợ. Khi đứa con vì phẫn chí mà xin đi làm đồn điền cao su, lão ‘chỉ còn biết khóc chứ biết làm sao được’. Đó là rình thương yêu sâu nặng nhưng bất lực của người cha trước cuộc đời và số phận của đứa con.
Sau này, khi kể lại chuyện con trai trước lúc ra đi còn để lại cho lão ba đồng bạc, lão ‘rân rấn nước mắt’. Lão làm thuê để kiếm ăn. Tất cả tiền hoa lợi của khu vườn, lão chắt chiu, dành dụm cho con. Thà nhịn đói chứ lão nhất định không tiêu vào số tiền đó. ‘Bây giờ tiêu một xu cũng là tiêu vào tiền của cháu. Tiêu lắm chỉ chết nó’. Cuối cùng lão đã tự kết liễu đời mình bằng cách ăn bả chó. Một cái chết thật bất ngờ và ai oán. Cái chết đó đã làm sáng tỏ những phẩm chất tốt đẹp, nhân cách cao thượng và đáng kính trọng của lão. Một lão Hạc nhân hậu, giàu tình thương cũng chính là ‘một con người đã khóc vì trót lừa một con chó’. Một lão Hạc đã ‘nhịn ăn để tiền lại làm ma, bởi không muốn liên luỵ đến hàng xóm, láng giềng’ cũng là một con người thà chết đói chứ không thèm ngửa tay nhận làm ăn xin. Lão Hạc chết vì thương con nhất mực, thương đến nỗi thà chết chứ không chịu ăn tiêu vào tài sản của con (ba sào vườn mẹ nó để lại cho nó).
Phân tích tác phẩm Lão Hạc – Bài làm số 5
Trong giai đoạn 1930 – 1945, có lẽ những tác phẩm văn học hiện thực đạt đến đỉnh cao nhất đã khắc họa thành công hình tượng người nông dân. Trong tác phẩm ấy, Lão Hạc đứng ở một vi trí vô cùng quan trọng và đã gây được ấn tượng sâu sắc đối với người đọc bởi cách nhìn người nông dân của Nam Cao. Đó là cách nhìn của một con người đồng cảm với nỗi đau khố của người nông dân, gần gũi, yêu thương và nhìn ra những phẩm chất cao quý của họ.
Trước hết, ta phải đề cập tới cuộc sống con người của nông dân, cu thể là lão Hạc, nhân vật chính, qua cách nhìn của các tác giả. Nam Cao đã thấy được một cuộc sống hiện đại tại khổ đau, cùng cực của ông lão và tác phẩm đã phản ánh rõ nét. Với ngòi bút sắc sảo mà gợi cảm của một nhà văn hiện thực lớn, người đọc thực sự cảm nhận được nỗi đau cả về vật chất lẫn tinh thần của lão Hạc. Lão sống một cuộc đời nghèo khổ với số tiền ít ỏi “bòn vườn” và “làm thuê”. Nhưng Nam Cao không chỉ nói thế, nhà văn đã dám nhìn thẳng vào cái cuộc sống vật chất không phải dành cho con người của lão Hạc cho dù nó có đau xót biết bao. Bởi lẽ, Nam Cao là nhà văn hiện thực, ông không ưa cái nhìn bóng bẩy bên ngoài, không cố vươn lên những cái được coi là “tươi đẹp” của một số ngòi bút lãng mạn đương thời, ông không tìm đến một sự thoát li, mà lại dùng ngòi bút chân thật nhất, trung thành nhất của một người thư ký trong cuộc đời. Và ông cùng đã mang theo ngòi bút, cách nhìn ấy vào Lão Hạc và nó trở nên sâu sắc hơn ở đây. Nếu như Ngô Tất Tố nhìn vào người nông dân trong nỗi đau khổ vì thuế thân, một thứ thuế dã man, độc ác, một thứ thuế bất công bắt con người phải trả tiền cho chính cái mạng sống nhục hơn chó cùa mình: nếu như Nguyền Công Hoan khắc họa hình ảnh người nông dân trong đắng cay, tủi nhục vì bị lừa bịp, cướp ruộng, thì Nam Cao lại có cách nhìn thật khác. Có khi nếu người đọc vô tình không để ý thì có nhận ra được cái nhìn “thấm sâu” ấy đâu. Và ta sẽ khẳng định lão Hạc khổ là “tự lão” đấy chứ, giống như người vợ của ông giáo đã nói vậy. Và như thế, thì là cũng tự lão ăn củ mài, củ chuối để tự đọa đày tấm thân mình đấy chứ. Nhưng không, Nam Cao đã thấy được một cách rõ nét nhất sự thiếu thốn vô bờ về vật chất của lão Hạc: cái khổ vì chăm làm mà không ai thuê, cái khổ trong cảnh: Làng mất vó sợi, nghề vải đành phải bỏ. Đàn bà rỗi rãi nhiều. Còn tí việc nhẹ nào họ tranh nhau làm tất cả…, cái khổ vì tiền dành dụm được của lão sau một trận ốm đã hết sạch sành sanh. Đau xót lắm chứ, cơ cực lăm chứ ở đây đâu có xuất hiện thứ thuế thân, đâu có xuất hiện một tên quan huyện gian tham nào đâu mà người nông dân vẫn vô cùng tủi nhục. Đó chính là cái nhìn của con ngươi thông cảm nhất với người nông dân, hiểu thấu nhất nỗi đau đời “bình dị” mà xót xa nhất của họ. Bằng trái tim tha thiết, Nam Cao lại dám nhìn sâu vào nỗi khổ của người nông dân một cách trực tiếp nhất mà có khi chính tác giả cũng đang nhòa lệ. Trong những ngày cuối đời, lão Hạc sợ ăn vào tiền của con nên lão bán đi cậu Vàng – con vật mà lão yêu quý, dành dụm hết tiền để đưa cho ông giáo, rồi tự “kiếm ăn”. Đúng, lão “kiếm ăn” như một “con vật”. Nghe mà tàn nhẫn quá, nhưng đúng là như vậy, bởi vì cái con người phải ăn các loại củ, mò trai mò hến cẩm hơi thì đâu còn là cuộc sống cuộc đời của con người nữa đâu. Ôi! Cái nhìn của Nam Cao vào nỗi khổ vật chất của người nông dân mới đau đớn xót xa và trực tiếp, dũng cảm biết bao.
Nếu cái nhìn của Nam Cao về người nông dân chỉ dừng lại ở cuộc sống vật chất của họ thì ta cũng thấy nó sâu xa, đau lòng lắm rồi. Nhưng Nam Cao còn là một người gần gũi với nông dân nên tác giả còn nhìn sâu hơn vào nỗi đau tinh thần của họ. Nam Cao đã hiểu được nỗi đau về tinh thần tưởng chừng như không thể có trong cái con người mà chất “con” nhiều hơn của Chí Phèo thì ở lão Hạc, cái nỗi đau khổ lại càng thấm thía hơn. Nam Cao đã thấy được những nỗi đau về mặt tinh thần, xuất phát từ vật chất nhưng xót thương hơn nhiều của người nông dân. Đó là nỗi đau của người chồng mất vợ, của một người cha mà đứa con duy nhất phải phẫn uất bỏ đi xa vì tình yêu tan vỡ. Nỗi lo lắng cho số phận của người con ở đồn điền cao su là nỗi đau cùng cực mà lão Hạc phải chịu đựng. Nam Cao đã nhìn ra nỗi đau đó từ những lời than thở của lão Hạc với ông giáo từ những ngày ông cặm cụi, một thân một mình bên con chó, kỉ vật của anh con trai để lại, từ những lời nói tưởng chừng như vô cùng “lẩn thẩn” của lão với con chó: Cậu có nhớ bố cậu không?… Có nghĩa đó là những việc bình thường nhất trong cuộc sống hàng ngày của người nông dân, thế nhưng nó mới da diết lẳng lặng mà đau vào “tận tâm” biết bao nhiêu. Không dừng lại ở đó, Nam Cao còn nhìn thấu cái nỗi đau đớn, ân hận của lão Hạc khi lão bán đi cậu Vàng. Bán chó là một chuyện nhưng bán đi cái niềm vui nhỏ nhoi cuối cùng, bán đi “cái người bạn” ngày đêm cặm cụi bên lão thì lại là chuyện khác. Nó đau đớn đến nỗi miệng lão méo xệch, hai hàng nước mắt chảy ra và tự cho là mình làm việc thất đức, già rồi mà “nỡ lừa con chó”. Ôi, nó mới đau khổ, thấm thía làm sao! Nam Cao nhìn vào nỗi khổ của người nông dân mà viết lên một cách sâu lắng nhưng mạnh mẽ như chính mình đau vậy.
Không chí thế, Nam Cao còn nhìn thấy những phẩm chất cao đẹp của lão Hạc trong suốt cuộc sống không phải là con người. Lão mang trong mình một trái tim yêu thương nồng hậu. Một lần nữa, cái nhìn của Nam Cao lại bộc lộ nét độc đáo và sâu xa ở đây. Nam Cao không chỉ nhận thấy tình thương của con người với con người như tình cảm vợ chồng, làng xóm trong Tắt đèn của Ngô Tất Tố, như tình cảm bỗng dưng trào lên trong Chí Phèo khi hắn ngửi thấy cái mùi vị thơm ngon trong bát cháo hành của Thị Nở mà lại nhìn thấy từ tình thương với con vật. Lão ăn gì cũng gắp cho nó, âu yếm như một bà mẹ chăm sóc đứa con cầu tự, khi bán con chó đi thì đau đớn khôn cùng. Yêu con vật mà Nam Cao đã viết đến mức như vậy thì con người còn mênh mông đến nhường nào. Nam Cao còn nhận thấy và trân trọng những phẩm chất tự trọng, lương thiện, nhân ái của lão Hạc, trong cách đối xử với mọi người, trong tình yêu với con. Lão dành dụm tiền, ăn củ mài củ chuối để sống chỉ vì thương con, lo cho con. Nam Cao nhìn thấy bản chất lương thiện của lão Hạc một cách sấu sắc hơn cả trước cái chết của lão. Có thể lão Hạc là một nhân vật trong cuộc đời mà cũng có thể là hình tượng mà Nam Cao xây dựng nên. Nhưng dù gì đi nữa thì cái chết của lão Hạc là chi tiết thành công nhất của tác phẩm và cũng là chi tiết nêu bật cái nhìn người nông dân của Nam Cao. Tác giả thấy họ lương thiện đến mức thà chết chứ “không làm bậy”, tự trọng đến mức chết cũng sợ làm phiền bà con hàng xóm. Trong tác phẩm, Nam Cao không chỉ làm nổi bật lên phẩm chất của người nông dân quen cái nhìn trực tiếp mà còn khéo léo thể hiện qua cái nhìn của những con người khác. Nam Cao để cho vợ ông giáo cằn nhằn, để cho cô ta nhìn lão Hạc với con mắt không thiện cảm. Nam Cao lại để cho Binh Tư nhìn vào lão Hạc với cái cười khẩy và khẳng định rằng: Gớm, thế mà cũng bảo là trong sạch. Chẳng qua là lão cũng chỉ bình thường thôi. Lão vừa xin tôi ít bả chó để hôm nào “làm một bữa”. Nhưng đâu phải thế, cái nhìn trực tiếp của nhà văn lại không cực đoan như vậy. Nam Cao đã nhìn thẳng vào người nông dân để mà bênh vực cho phẩm chất của họ. Lão Hạc chết đau đớn dữ dội cuộc đời chưa hẳn đã đáng buồn, hay vẫn đáng buồn nhưng lại đáng buồn theo một nghĩa khác. Lão Hạc chết trong lòng lương thiện và tự trọng. Có lẽ đó là cái nhìn tươi đẹp nhất, trong sáng nhất về con người nông dân của Nam Cao.
Bên cạnh đó, nói về cách nhìn về con người nông dân của Nam Cao, chắc chắn còn phải đề cập đến cảm hứng nhân văn dạt dào của tác giả. Chính vẻ đẹp của người nông dân trong đói khổ, cay cực đã xuất phát một cái nhìn yêu thương tha thiết nhất. Nam Cao đã trân trọng, nâng niu. bênh vưc mạnh mẽ người nông dân. Ông bênh vực họ gián tiếp hay trực tiếp đều làm nổi bật lên cái nhìn yêu thương, cái nhìn của những con người đồng khổ. Nam Cao đã không chỉ nhìn ra nỗi đau khổ trực tiếp của người nông dân mà còn nhìn ra cái nguyên nhân sâu xa trong nỗi khổ đau của họ. Đó chính là cách nhìn sáng suốt, đứng về chính nghĩa, tức là đứng về phía người nông dân đã lên án những thế lực đày đọa họ, dù là gián tiếp hay trực tiếp. Đó không phải là cách nhìn của người trên hướng xuống, không phải là cách nhìn với tình cảnh dửng dưng mà nó sâu sắc, tha thiết. Nêu ở Chí Phèo,.Nam Cao vẫn bênh vực Chí Phèo, cái tên “chửi cả làng Vũ Đại” ấy là vì hắn vẫn còn lòng lương thiện và khát khao yêu thương, vì hắn bị bọn cường hào bất công, dâm dục đày đọa mới trở thành như vậy, thì ớ Lão Hạc, Nam Cao nhìn vào phẩm chất tốt đẹp nhưng bất hạnh của họ mà bênh vực sâu sắc. Phải chăng xã hội thực dân phong kiến đã lần lượt cướp đi những niềm vui của họ, đẩy họ đến bước đường cùng? Phải chăng chính cái xã hội ấy đã chôn bao nhiêu thanh niên trong rừng thiêng nước độc, để bao người cha người mẹ chết đi trong khổ đau?… Nam Cao đã nhìn thấu người nông dân như vậy đấy. Không chỉ trực tiếp nhìn vào cuộc sống hàng ngày, mà còn bao quát chung quanh họ. Nam Cao đứng về phía họ mà thương, mà lên án những kè đày đọa họ, mà vạch bộ mặt xấu xa của chúng đề nhìn thấy phẩm chất cao đẹp của người nông dân, cho dù họ có thế nào đi chăng nữa thì vần tôt đẹp hơn những kẻ “đè đầu cưỡi cổ” họ. Truyện ngắn Lão Hạc không chỉ nêu bật cách nhìn người nông dân của Nam Cao qua bức tranh nông thôn thu nhỏ về cuôc đời đau khổ của lão Hạc mà còn có một ngôn ngữ nghệ thuật rất tinh tế. Ngôn ngữ ấy biêu hiện cả một thái độ trân trọng bênh vực người nông dân. Nam Cao dùng chữ “lão” mà khòng dùng chừ “hắn”, “y” hay bất cứ cách gọi gi tương tự với lão Hạc. Nam Cao thấy được vẻ gia nua, đau khổ của lão, một con người đáng kính. Trong suốt tác phẩm, bằng những từ ngữ cô đọng, Nam Cao đã làm người đọc nhìn thấy một người nông dân bất hạnh mà cao quý. Chính ngôn ngữ và kết cấu truyện, kết cấu bi kịch trong cái chết cuối cùng của lão Hạc càng làm nổi bật cách nhìn của một nhà văn – một cách nhìn yêu mến, trân trọng nhất với người nông dân.
Tuy nhiên, cũng phải đề cập đến một chút hạn chế trong cách nhìn người nông dân của Nam Cao. Tuy rằng trong Lão Hạc không có cái nhìn hơi giễu cợt như một số tác phẩm khác nhưng nó cùng chưa thật sự hoàn chỉnh. Cách nhìn của Nam Cao với người nông dân có phần quá bi quan. Sao cuộc đời họ toàn là những cay đắng, tủi nhục, trông thấy mà “đau đớn lòng”? Sao cuộc đời họ không có một chút gì ánh sáng của tương lai hi vọng, mặc dù cái tương lai ấy không phải là còn quá xa? Hay nói cách khác, Nam Cao chưa nhìn thấy “ánh hồng” trong cuộc đời của người nông dân như nhiều nhà cách mạch, lão Hạc sống kiếp đời đau khổ, không một niềm vui dù là nhỏ nhất. Lão chết bi thương trong cái nhìn tuyệt vọng vào một khuôn mẫu nhất định nhưng nếu như lão trong Lão Hạc có tia hi vọng của một con đường và ánh đồng cát như trong Cố hương của Lỗ Tân thì cách nhìn của Nam Cao sẽ hoàn chỉnh biết mấy. Nhưng dù sao, sự so sánh nào mà chẳng khập khiễng, Nam Cao sẽ mãi mãi là Nam Cao. Ông sẽ mãi mãi ở trong lòng người đọc với tác phẩm Lão Hạc và cách nhìn người nông dân của ông.
Tác phẩm Lão Hạc của Nam Cao có thế là tác phẩm thành công nhất của tác giả cũng như của cả dòng văn học. Cách nhìn của Nam Cao với số phận của lão Hạc, chính là cách nhìn với cả tầng lớp nông dân vì lão Hạc mang tính điển hình sâu sắc. Cách nhìn đồng cảm, thương yêu, bênh vực và sâu thẳm vào tận đáy lòng người nông dân của Nam Cao sẽ mãi mãi để lại ấn tượng sâu sắc cho người đọc, cho dù tác giả đã đi xa và thân phận của người nông dân bây giờ đây đã đổi mới hơn nhiều.
Hồng Loan tổng hợp
Từ khóa tìm kiếm:
- viết đoạn văn cho câu chủ đề sau cái tình của lão hạc đối với cậu vàng thaath l hiếm có và nam cao đã ghi lại trong nhưỡng dòng chữ xúc động
- lão hạc là người giàu lòng yêu thương cậu vàng
- viết đoạn văn chuyển khai câu chủ đề lão hạc là người nông dân nghèo và lương thiện
- CMR:lão hạc là người trọng tình nghiã và hết lòng hi sinh vì con
- phân tích nhân vật lão hạc để thấy được phẩm chất tốt đẹp baitaphay
Bài viết liên quan
- Nghị luận xã hội về câu nói: Điều quan trọng hơn hết trong sự nghiệp của những nhà văn vĩ đại ấy lại là cuộc sống, trường đại học chân chính của thiên tài. Họ đã biết đời sống xã hội của thời đại, đã sâu sắc cảm thấy mọi nỗi đau đớn của con người trong thời đại, đã rung động tận đáy tâm hổn với những nỗi lo âu, bực bội, tủi hổ và những ước mong tha thiết nhất của loài người. Đó chính là cái hơi thở, sức sống của những tác phẩm vĩ đại – Văn hay lớp 12
- Nghị luận xã hội về câu nói:Có nhân hậu mới biết đồng cảm và sẻ chia – Văn hay lớp 12
- Phát biểu cảm nghĩ về bài Con Rồng cháu Tiên – Văn hay lớp 6
- Phát biểu cảm nghĩ về truyện Sơn Tinh, Thủy Tinh – Văn hay lớp 6
- Phân tích tác phẩm Tuyên Ngôn Độc Lập (Hồ Chí Minh) – Văn hay lớp 12
- Nghị luận về truyền thống tôn sư trọng đạo của dân tộc Việt Nam – Văn hay lớp 11
- Phát biểu cảm nghĩ về tác phẩm Mẹ tôi – Văn hay lớp 7
- Phân tích tác phẩm Thái sư Trần Thủ Độ (Ngô Sĩ Liên) – Văn hay lớp 10