Phân tích tác phẩm Trong lòng mẹ – Văn hay lớp 8
Phân tích tác phẩm Trong lòng mẹ – Văn hay lớp 8 Phân tích tác phẩm Trong lòng mẹ – Bài làm số 1 của một bạn học sinh giỏi văn tỉnh Quảng Trị Nguyên Hồng sinh năm 1918, mất năm 1982, quê gốc ở thành phố Nam Định. Trước Cách mạng tháng Tám 1945, ông sống chủ yếu ở Hải Phòng, trong ...
Phân tích tác phẩm Trong lòng mẹ – Văn hay lớp 8
Phân tích tác phẩm Trong lòng mẹ – Bài làm số 1 của một bạn học sinh giỏi văn tỉnh Quảng Trị
Nguyên Hồng sinh năm 1918, mất năm 1982, quê gốc ở thành phố Nam Định. Trước Cách mạng tháng Tám 1945, ông sống chủ yếu ở Hải Phòng, trong một xóm lao động nhỏ nên được tận mắt chứng kiến những cảnh đời cơ cực. Nguyên Hồng là nhà văn của lớp người “dưới đáy” xã hội. Viết về thế giới nhân vật ấy, ông thường bày tỏ niềm yêu thương sâu sắc và thái độ trân trọng những nét đáng quý trong phẩm chất của họ. Văn xuôi Nguyên Hồng giàu chất trữ tình. Đó là tiếng nói chân thành của một trái tim nhạy cảm trước nỗi đau và niềm hạnh phúc bình dị của con người.
Những ngày thơ ấu là tập hổi kí viết về tuổi thơ bất hạnh của chính nhà văn. Tác phẩm gồm 9 chương, lần lượt đăng trên báo từ năm 1938 và được in thành sách năm 1940. Trong lòng mẹ là chương 4. Bằng lời văn chân thực và giàu cảm xúc, tác giả đã kể lại nỗi cay đắng tủi cực về tình yêu thương cháy bỏng đối với mẹ của đứa con sớm mồ côi cha. Thông qua cảnh ngộ éo le và tâm sự đau khổ của chú bé Hồng, tác giả còn cho ta thấy bộ mặt vô cảm lạnh lùng của loại người nhỏ nhen, đố kị đến mức độc ác trong xã hội phong kiến tư sản chỉ trọng đồng tiền. Những thành kiến cổ hủ của đám thị dân tiểu tư sản… đã cố tình cắt đứt tình mẫu tử thiêng liêng.
Đoạn trích này có thể chia làm hai phần, Phần 1 là cuộc đối thoại giữa bà cô cay độc và chú bé Hồng. Ý nghĩ, cảm xúc của chú bé về người mẹ đáng thương. Phần 2 là cuộc gặp gỡ bất ngờ với mẹ và cảm giác vui sướng cực điểm của chú bé Hồng khi được ngồi trong lòng mẹ.
Chú bé Hồng là kết quả của một cuộc hôn nhân gượng ép, không có tình yêu. Người cha lớn tuổi và ốm yếu quanh năm lặng lẽ u uất bên bàn đèn thuốc phiện. Người mẹ trẻ trung, xinh đẹp luôn khao khát yêu thương song đành phải chôn vùi tuổi xuân bên ông chồng nghiện ngập. Gia đình bé Hồng lúc đầu sung túc, đầy đủ về vật chất nhưng lạnh lẽo, thiếu vắng tiếng nói, tiếng cười.
Rồi người cha chết vì bệnh. Người mẹ không chịu nổi sự o ép khắc nghiệt của nhà chồng nên đành bỏ lại con thơ, dứt áo ra đi. Để Hồng phải sống với bà cô nghiệt ngã, thâm hiểm. Như mọi đứa trẻ khác, bé yêu mẹ, thèm được ở bên mẹ nhưng cố giấu kín điều đó trong lòng, chỉ thỉnh thoảng mới hé lộ ra. Vì thế, lòng thương yêu mẹ của bé Hồng lại càng da diết.
Mở đầu đoạn trích, qua giọng kể mộc mạc, tự nhiên, tác giả giúp người đọc hình dung ra cảnh ngộ thương tâm của bé Hồng: Tôi đã bỏ cái khăn tang bằng vải màn ở trên đầu đi rồi. Không phải đoạn tang thầy tồi mà vì tồi mới mua được cái mũ trắng và quấn băng đen. Tiếp theo, nhà văn kể về thời gian xảy ra câu chuyện và hoàn cảnh sống của người mẹ tội nghiệp:
Gần đến ngày giỗ đầu thầy tôi, mẹ tồi ở Thanh Hóa vẫn chưa về. Trong đó nghe đâu mẹ tôi đi bán bóng đèn và những phiên chợ chỉnh còn bán cả vàng hương nữa. Tôi nói “nghe đâu” vì tôi thấy người ta bắn tin rằng mẹ và em tôi xoay ra sống bằng cách đó.
Câu chuyện đã được khơi nguồn. Nhân vật bà cô xuất hiện và tâm địa độc ác của bà ta càng về sau càng lộ rõ. Bà ta cố tình nói cho bé Hồng biết cảnh ngộ thảm thương của mẹ cậu để rồi cười cợt, nhạo báng, thoả mãn trên nỗi đau của người khác:
Một hôm, cô tôi gọi tôi đến bên cười hỏi:
– Hồng! Mày có muốn vào Thanh Hóa chơi với mẹ mày không?
Nụ cười giả tạo của bà cô chứa đựng ác ý rõ ràng. Nó như một mũi dao nhọn cố tình xoáy vào trái tim non nớt đang rớm máu của đứa cháu vừa mới mồ côi cha, lại phải chịu cảnh xa lìa mẹ. Lẽ ra, bé Hồng sẽ trả lời rằng muốn vì bé đang thiếu thốn tình mẫu tử, nhưng vốn nhạy cảm, bé lập tức nhận ra những ý nghĩa cay độc trong giọng nói và trên nét mặt khi cười rất kịch của người cô. Vì thế, bé cúi đầu không đáp.
Không thể để tình thương yêu và lòng kính mến mẹ của mình bị những rắp tâm tanh bẩn xâm phạm đến, bé Hồng đã trả lời: Không! Cháu không muốn vào. Cuối năm thế nào mẹ cháu cũng về. Cuộc đối thoại tưởng chừng sẽ chấm dứt sau lời đáp có vẻ bất cần mà thực ra đầy suy nghĩ của đứa cháu nhỏ, nhưng bà cô thâm hiểm nào đã chịu buông tha.
Bà ta hỏi dồn, giọng vẫn ngọt nhạt: Sao lại không vào? Mẹ mày phát tài lắm, có như dạo trước đâu. Cùng với giọng nói cố tình làm ra vẻ tử tế nhưng đầy mỉa mai, châm chọc là hai con mắt long lanh nhìn chằm chặp vào đứa cháu mồ côi. Rõ ràng, bà ta muốn lôi kéo cậu bé Hồng vào một trò chơi độc ác đã toan tính sẵn. Mặc dù chú bé phản ứng bằng cách im lặng cúi đầu và khóe mắt đã cay cay, nhưng bà cô vẫn tiếp tục tấn công. Từ vẻ mặt đến lời nói, hành động của bà ta đểu toát ra vẻ giả dối và độc ác: Cô tôi liền vỗ vai tôi cười mà nói rằng: Mày dại quá, cứ vào đi, tao chạy cho tiền tàu. Vào mà bắt mẹ mày may vá sắm sửa cho và thăm em bé chứ. Đến đây, bà ta không cần che đậy ác ý nữa mà còn tỏ rõ thái độ giễu cợt và nhục mạ. Quả là đau đớn khi vết thương lòng của đứa cháu lại bị chính cô ruột của mình săm soi, hành hạ: Hai tiếng “em bé” mà cô tôi ngân dài ra thật ngọt, thật rõ, quả nhiên đã xoắn chặt lấy tâm can tôi như ý cô tôi muốn. Nhân vật bà cô tàn nhẫn đến mức lạnh lùng, vô nhân đạo đối với đứa cháu đáng thương.
Cho đến khi bé Hồng phẫn uất, oà lên khóc nức nở, bà cô vẫn cố tình hành hạ bằng những câu chuyện bịa đặt về hoàn cảnh bi đát của người mẹ nơi đất khách quê người. Đối lập với tâm trạng đau đớn, xót xa như bị gai cào, muối xát của đứa cháu là sự vô cảm đáng sợ của người cô: Cô tôi vẫn cứ tươi cười kể các câu chuyện cho tôi nghe. Tình cảnh túng quẫn, hình dáng gầy guộc, rách rưới của mẹ bé Hồng được bà cô thêu dệt, miêu tả tỉ mỉ với vẻ thích thú rõ ràng.
Cử chỉ vỗ vai, nhìn vào mặt đứa cháu rồi đổi giọng làm ra vẻ nghiêm nghị của bà cô chỉ là sự thay đổi cách thức tấn công. Bà ta tung ra miếng đòn hiểm cuối cùng. Khi thấy đứa cháu tức tưởi, phẫn uất đến cực độ thì bà ta lại giả vờ hạ giọng, tỏ vẻ ngậm ngùi, thương xót người anh đã mất. Đến đây, bản chất độc ác, giả dối, thâm hiểm và trơ trẽn của nhân vật bà cô đã được phơi bày toàn bộ. Tác giả muốn thông qua hình ảnh ấy để tố cáo hạng người tàn nhẫn, coi nhẹ tình máu mủ rụột rà trong xã hội thực dân phong kiến lúc bấy giờ.
Đối lập với ác cảm ghê gớm của bà cô là tình yêu thương mãnh liệt của chú bé Hồng dành cho người mẹ đáng thương. Nhận ra lòng dạ thâm độc của bà cô, bé Hồng càng thêm yêu quý mẹ. Diễn biến tâm trạng bé Hồng được nhà văn miêu tả theo diễn biến câu chuyện giữa hai cô cháu.
Nghe bà cô hỏi, trong kí ức bé Hồng vụt hiện lên vẻ mặt rầu rầu và hiền từ của mẹ. Tất cả họ hàng bên nội có thể ruồng rẫy mẹ, kết tội mẹ, thóa mạ mẹ… nhưng với bé Hồng, mẹ vẫn là người mẹ yêu quý mà bé Hồng ra sức bênh vực và bảo vệ. Bé Hồng còn nhỏ lắm nên trước những lời kết tội mẹ mình, bé chỉ phản ứng bằng cử chỉ im lặng, cúi đầu mà lòng thắt lại, khóe mất cay cay. Bé nhận ra ngay những ý nghĩa cay độc trong giọng nói và trên nét mặt của bà cô. Bé không muốn tình thương yêu và lòng kính mến mẹ của mình bị những rắp tâm tanh bẩn xâm phạm đến.
Đến khi mục đích mỉa mai, nhục mạ của bà cô đã phơi bày trắng trợn thì bé không nén nổi uất ức và oà lên khóc: Nước mắt tôi đã ròng ròng rớt xuống hai bên mép rối chan hòa đầm đìa ở cằm và ở cổ. Bé khóc vì những lời cạnh khóe độc ác mà bà cô cứ cố ý nhắc đi nhắc lại. Bé khóc vì căm tức những thành kiến bất công của người đời đối với người mẹ tội nghiệp. Bé khóc vì thương xót người mẹ khốn khổ sợ dư luận chê cười nên phải lìa con, tha phương cầu thực và trốn tránh tìm nơi sinh nở.
Hình ảnh cậu bé cười dài trong tiếng khóc thể hiện tâm trạng đau đớn cực điểm:
Nhưng không phải vì thấy mẹ tôi chưa đoạn tang thầy tôi mà đã chùa đẻ vói người khác mà tôi có những cảm giác đau đớn ấy. Chỉ vì tồi thương mẹ tồi và căm tức sao mẹ tôi lại vì sợ hãi những thành kiến tàn ác mà xa lìa anh em tôi, để sinh nở một cách giấu giếm…
Những hình ảnh và động từ trong đoạn văn trên có sức gợi tả, gợi cảm rất lớn. Lúc này, tình thương mẹ của bé Hồng trỗi dậy mãnh liệt hơn bao giờ hết. Tình thương ấy đã biến thành sự phản kháng quyết liệt: Cô tồi chưa dứt câu, cổ họng tồi đã nghẹn ứ khóc không ra tiếng. Giá những cổ tục đã đày đoạ mẹ tôi là một vật như hòn đá hay cục thủy tinh, đầu mẩu gỗ, tôi quyết vồ ngay lấy mà cắn, mà nhai, mà nghiến cho kì nát vụn mới thôi.
Trong tâm khảm bé Hồng lúc nào cũng in sâu hình bóng mẹ. Một buổi chiều, lúc tan trường, thoáng thấy người ngồi trên xe kéo giống mẹ mình, bé Hồng liền đuổi theo, bối rối gọi. Đó là tiếng gọi bật ra từ trái tỉm thương nhớ mẹ không nguôi của chú bé tội nghiệp.
Tác giả đã miêu tả hàng loạt cử chỉ thể hiện niềm vui sướng của bé Hồng khi gặp mẹ. Vì chạy đuổi theo mẹ mà bé thở hồng hộc, trán đẫm mồ hôi. Đến khi trèo được lên xe với mẹ thì mừng đến nỗi ríu cả chân lại. Mẹ vừa kéo tay, xoa đầu hỏi chuyện thì bé đã òa lên khóc rồi cứ thế nức nở. Tiếng khóc trút bỏ bao nỗi,tủi cực, uất ức trong những ngày xa mẹ. Tiếng khóc sung sướng được gặp lại người mẹ thương yêu. Tiếng khóc của niềm khát khao tột độ tình mẫu tử.
Nước mắt của bé Hồng lúc này khác hẳn nước mắt uất ức, căm giận khi trả lởi bà cô độc ác. Đây là những giọt nước mắt dỗi hờn mà hạnh phúc, tức tưởi mà mãn nguyện.
Cảnh hai mẹ con bé Hồng gặp nhau được tả bằng ngòi bút trữ tình đẫm nước mắt. Nhà văn đã vẽ nên bức tranh bằng ngôn ngữ về một thế giới của tình thương yêu đang bừng nở, hổi sình, tràn đầy những kỉ niệm dịu dàng và ấm áp tình mẫu tử… Cậu bé Hồng như bồng bềnh trôi trong cảm giác vui sướng, rạo rực. Những lời nói cay độc của bà cô, những tủi cực chất chồng trong thời gian xa mẹ đã bị nhấn chìm giữa niềm hạnh phúc đang dâng tràn.
Cảm giác sung sướng cực điểm của đứa con khi được ôm ấp trong lòng mẹ đã được Nguyên Hồng diễn tả bằng cảm hứng say mê cùng những rung động tinh tế lạ thường.
Trong lòng mẹ, bé Hồng nhận ra rằng cảm giác ấm áp thiếu vắng bao lâu nay giờ đây lại mơn man khắp cả da thịt. Đó là những phút giây không thể nào quên của bé Hồng. Bé nhận ra hơi quần áo của mẹ, hơi thở của mẹ lúc đó thơm tho lạ thường. Bé nhận ra gương mặt mẹ vẫn tươi sáng, mắt trong, da mịn, má hồng, vẫn đẹp như thuở nào. Bé cũng nhận ra người mẹ có một êm dịu vô cùng… Tất cả những cảm giác đó, những ý nghĩ đó chỉ có được khi đứa con hết lòng yêu thương mẹ.
Được gặp mẹ là niềm hạnh phúc lớn lao, là niềm vui khôn xiết. Được sà vào lòng mẹ, bé Hồng mừng đến nỗi quên hết mọi thứ trên đời. Những lời thăm hỏi giữa hai mẹ con chỉ còn là một chuỗi âm thanh hạnh phúc, bé Hồng không thể nhớ đó là những câu gì, chuyện gì. Bao trùm tâm trí bé là nỗi vui sướng khôn xiết. Phải thương nhớ mẹ, yêu quý mẹ, thèm khát được gần mẹ đến chừng nào thì bé Hồng mới cảm thấy sung sướng tột đỉnh khi được ôm ấp trong vòng tay dịu hiền của mẹ sau bao ngày xa cách.
Tình thương yêu mẹ là nét nổi bật trong tâm hồn bé Hồng. Tình thương mẹ đã giúp bé Hồng có cách nhìn xác thực về con người và cuộc đời. Cho dù cảnh ngộ có éo le đốn mấy thì tình mẫu tử thiêng liêng vẫn không thể phai mờ. Chúng ta càng thêm thông cảm và quý mến bé Hồng, từ đó càng trân trọng tình mẫu tử.
Trong lòng mẹ là một đoạn văn có tính chất hồi kí mà âm hưởng trữ tình thấm đẫm toàn bộ nội dung câu chuyện. Đặc biệt, đoạn cuối cùng là bài ca cảm động về tình mẫu tử thiêng liêng, bất diệt. Dòng cảm xúc chân thành như tuôn chảy dưới ngòi bút tài hoa của Nguyên Hồng. Nghệ thuật kể chuyện hấp dẫn với khả năng miêu tả tâm lí nhân vật tỉnh tế của ông gây ấn tượng mạnh, làm rung động lòng người. Thấm thìa nỗi khổ của những đứa con xa mẹ, chúng ta mới nhận ra rằng hạnh phúc thay những đứa con được sống trong vòng tay yêu thương, bảo bọc của mẹ hiền.
Phân tích tác phẩm Trong lòng mẹ – Bài làm số 2
Những ngày thơ ấu (viết năm 1938, Nhà xuất bản Đời nay in lần đầu năm 1940) là một tác phẩm xuất sắc của nhà văn Nguyên Hồng. Đó là một tập hồi ký ghi lại những năm tháng tuổi thơ rất ít niềm vui nhưng nhiều cay đắng của tác giả, thể hiện một cách chân thật những “rung động cực điểm của một linh hồn trẻ dại”. (Thạch Lam)
Hồi kí Những ngày thơ ấu gồm 9 chương, Trong lòng mẹ là chương IV của tác phẩm. Nhân vật chính của chương sách này là bé Hồng. Bé Hồng được đặt trong tình huống hết sức tội nghiệp: bố mất, mẹ đi bước nữa bị gia đình nhà chồng ruồng rẫy. Bé Hồng phải sống nhờ họ hàng và bị hắt hủi tàn nhẫn. Em thương mẹ, nhớ mẹ vô cùng mà phải xa mẹ, đồng thời thường xuyên phải nghe những lời nói xấu về mẹ. Ta hiểu vì sao em vô cùng sung sướng khi mẹ trở về.
Trong chương sách này, nhà văn đã tập trung làm nổi bật tình cảm xót thương, yêu quý sâu sắc của bé Hồng đôi với người mẹ nhân từ, tần tảo mà cuộc đời đầy bât hạnh. Tình cảm ấy trước hết được thể hiện qua tâm trạng cua bé Hồng khi nói chuyện với bà cô. Diễn biến tâm trạng của bé Hồng được miêu tả thật sinh động. Lúc đầu bé Hồng định nghe lời bà cô vào Thanh Hóa thăm mẹ. Nhưng khi nhận ra “ý nghĩa cay độc” trong giọng nói và trên nét mặt “khi cười rất kịch”, đầy giả dối của bà cô, bé Hồng lẳng lặng “cúi đầu không đáp”. Cử chỉ “im lặng, cúi đầu xuống đất” của bé Hồng lại được miêu tả lặp lại một lần nữa khi bà cô tiếp tục giục giã em vào Thanh Hóa thăm mẹ, vì mẹ em dạo này “phát tài lắm”. Bà cô đưa tin mẹ bé Hồng có con khi chưa hết tang chồng, lại nghèo túng khốn khổ nơi đất khách quê người, thấy người quen lại tránh mặt để lăng nhục bé Hồng và gieo rắc vào đầu óc em sự “hoài nghi”, “khinh miệt và ruồng rẫy mẹ”. Những lời cay độc của bà cô như những con dao nứa cứa vào tâm hồn thơ dại của đứa trẻ. Bé Hồng từ chỗ nhẫn nhục, “im lặng, cúi đầu” đến lúc không sao nén nổi nỗi đau đớn tủi nhục đã bật lên tiếng khóc, nước mắt “ròng ròng rớt xuống hai bên mép rồi chan hòa đầm đìa ở cằm và ở cổ”. Và một thứ tình cảm phức tạp, vừa thương yêu, vừa căm tức nẩy sinh trong tâm hồn ngây thơ của bé Hồng, khiến em “cười dài trong tiếng khóc”.
Bé Hồng cười (cười mỉa mai) vì hiểu thâu những rắp tâm “tanh bẩn" của cô, vì khinh bỉ thái độ rất cay độc của bà: làm ra vẻ thông cảm, nhưng kỳ thực: chỉ có ý gieo rắc vào đầu óc em những hoài nghi “để em khinh miệt và ruồng rẫy mẹ”. Bé Hồng khóc vì thương mẹ bị đày đọa, bị lăng nhục, bị đối xử một cách tàn nhẫn, bất công, vô nhân đạo. Khóc vì thương mẹ chỉ vì “sợ hãi những thành kiến tàn ác” mà xa lìa hai con “để sinh nở một cách giấu giếm, trốn tránh như một kẻ giết người”. Càng thương mẹ, bé Hồng càng căm ghét những hủ lục phong kiên vô lý, tàn nhẫn đã đày đọa, trói buộc người phụ nữ. Lòng căm ghét cao độ, mãnh liệt ây đã được tác giả diễn tả bằng những hình ảnh cụ thể, cùng với nhịp văn gấp gáp, dồn dập: “Giá những cổ tục đã đày đọa mẹ tôi là một vật như hòn đá hay cục thủy tinh, đầu mẩu gỗ, tôi quyết vồ ngay lấy mà cắn, mà nhai, mà nghiến cho kỳ nát vụn mới thôi”.
Vậy là, dù có tinh ma, độc địa đến đâu, bà cô bé Hồng cũng không thể chia rẽ được tình cảm giữa em với người mẹ: “Nhưng đời nào lình thương yêu và lòng kính mến mẹ tôi lại bị những rắp tâm tanh bẩn xâm phạm đến… Mặc dầu non một năm ròng mẹ tôi không gửi cho tôi lấy một lá thư, nhắn người thăm tôi lấy một lần và gửi cho tôi lấy một đồng quà”. Tâm địa xấu xa của bà cô chỉ làm khơi sâu thêm tình cảm thương yêu mẹ của bé Hồng và thổi bùng lên trong em sự căm ghét sâu sắc những kẻ đối xử tàn nhẫn với mẹ em. Có thể nói, chương Trong lòng mẹ là lời khẳng định chân thành đầy cảm động sự bất diệt của tình mẫu tử. Tình cảm thiêng liêng muôn đời ấy không một thế lực nào có thể tàn phá nổi.
Cuối chương hồi kí, tác giả đã diễn tả thật cụ thể và sinh động tâm trạng của bé Hồng khi gặp mẹ. Một buổi chiều tan học, bố Hồng “chợi thoáng thấy một bóng ngựời trôn xe kéo giống mẹ” và em “liền đuổi theo, gọi rối rít”. Nhưng nếu người trên xe lại là người khác thì cái lầm đó thành ra một trò cười lức bụng cho lũ bạn. “Cái lầm đó không những làm cho tôi thẹn mà còn tủi cực nữa, khác gì cái ảo ảnh của một dòng nước trong suốt chảy dưới bóng râm đã hiện ra trước con mắt gần rạn nứt của người bộ hành ngã gục giữa sa mạc”. Thủ pháp so sánh ví von này đã diễn tả được một cách cụ thể sự khao khát tình mẹ con thật là mãnh liệt như người bộ hành ở giữa sa mạc khát nước đến cháy bỏng. Nỗi vui sướng của bé Hồng khi gặp mẹ còn được nhà văn thể hiện qua những cử chỉ, hành động. Vì cuống cuồng đuổi theo xe, bố Hồng “thở hồng hộc, trán đẫm mồ hôi” và “ríu cả chân lại” khi trèo lên xe. Và đến khi được bàn tay dịu hiền của mẹ xoa đầu thì bé Hồng “òa lên khóc rồi cứ thế nức nở”. Đó là! khóc đầy hạnh phúc.
Để diễn tả những rung cảm sâu xa và niềm hạnh phúc lớn lao của bé Hồng khi được ngồi trong lòng mẹ, tác giả đã miêu tả rất cụ thể những cảm giác của em khi ngồi trên đệm xe, đùi áp vào đùi mẹ, “đầu ngả vào cánh tay mẹ ". Em còn cảm nhận được cả mùi quần áo quen thuộc của mẹ và “những hơi thở ở khuôn miệng xinh xắn nhai trầu phả ra (…) thơm tho lạ thường”. Vừa trực tiếp miêu tả những cảm giác cụ thể của bé Hồng, tác giả vừa diễn tả những ý nghĩ của em bình luận về niềm hạnh phúc tuyệt vời của mình: “Phải bé lại và lăn vào lòng một người mẹ, để bàn tay người mẹ vuốt ve từ trán xuống cằm, và gãi rôm ở sống lưng cho, mới thấy người mẹ có một sự êm dịu vô cùng”. Trong những giây phút say sưa và “rạo rực” ấy, bé Hồng không còn nghĩ gì, thứ gì khác nữa kể cả những âu yếm mẹ con với nhau và những lời cay độc của bà cô trước đó. Tất cả tâm trí của em đều dồn cho sự tận hưởng tình mẹ. Đôi với em, niềm sung sướng và hạnh phúc nhất trên đời là được sống trong lòng mẹ.
Phân tích tác phẩm Trong lòng mẹ – Bài làm số 3
Tuổi thơ trong ký ức của mỗi con người bao giờ cũng chất chứa biết bao điều kỳ diệu: nhiều khi là cánh diều chao giữa tầng không với muôn ngàn sắc màu rực rỡ; lắm lúc lại là cánh cò trắng chập chờn bay vào những giấc mơ; và thỉnh thoảng là chị Hằng Nga sống trên cung trăng bên chú Cuội… Nhưng hình ảnh ta đều bắt gặp trong mọi ký ức tuổi thơ lại chính là Mẹ – quen thuộc và gần gũi nhất. Trong lòng mẹ trích Những ngày thơ ấu của Nguyên Hồng là đoạn trích đã gây nhiều xúc động mạnh mẽ cho người đọc khi thể hiện gần như trọn vẹn những tình cảm sâu sắc của tình mẫu tử thiêng liêng chất chứa trong từng câu chữ.
Đến với tác phẩm của Nguyên Hồng, người ta không phải là thưởng thức những câu chuyện được dựng xây bằng tưởng tượng mà Nguyên Hồng đã “lôi kéo” con người cùng sống chung với cuộc đời số phận của nhà văn – chứ không còn là nhân vật. Bởi lẽ Những ngày thơ ấu là một phần kỷ niệm được rứt ra trong tuổi thơ cay cực của chính nhà văn. Nó là những trang hồi ký chứa đầy nước mắt, thổn thức xót xa của một trái tim sớm phải nếm vị đắng cuộc đời, thiếu vắng tình thương và luôn khát khao tình yêu của mẹ, được một lần nằm yên bình trong lòng mẹ. Niềm khát khao ấy cháy bỏng, mãnh liệt như muốn phá tung tất cả để tìm đến tình thương, tìm đến người mẹ. Và cũng chính từ tình cảm ấy, người đọc nhận ra ý nghĩa thiêng liêng của tình mẫu tử. Đó là động lực để giúp những đứa trẻ vượt lên khó khăn, vượt lên hoàn cảnh bất hạnh để tìm đến một tương lai rạng ngời. Đó cũng là nguồn sức mạnh vô hình an ủi và chở che cho những trái tim run rẩy.
Đoạn trích Trong lòng mẹ là câu chuyện chân thực và cảm động về một người mẹ đáng thương phải chạy trốn những hủ tục khắt khe của xã hội, những định kiến nghiệt ngã của người đời trói buộc, đọa đày người phụ nữ. Cũng như đó là một tâm hồn nhạy cảm, trong trắng, thơ ngây của một trái tim luôn tôn thờ người mẹ – bé Hồng. Hoà chung những giọt nước mắt nóng hổi của cậu bé là giọt nước mắt cảm thương trước những kỷ niệm sâu sắc tuổi thơ còn buốt nhói trong lòng người đọc để người đọc nhận ra: đó là một phần hình thành nên hồn văn nhân ái Nguyên Hồng.
Sinh ra trong gia đình bất hạnh, bé Hồng là kết quả của cuộc hôn nhân không có tình yêu, lại càng gánh bất hạnh nhiều hơn nữa. Một ông bố nghiện ngập rồi chết mòn chết rục bên bàn đèn thuốc phiện để lại cho người mẹ tất cả những cùng túng của gia đình, cuối cùng phải ly hương kiếm sống. Thế là chỉ còn một mình bé Hồng phải sống với gia đình họ nội, hứng chịu tất cả sự hắt hủi ghẻ lạnh đến cay nghiệt, lắng nghe tất cả những gièm pha về người mẹ đi tha phương cầu thực. Trong những câu chuyện được thêu dệt bởi “bà cô bên chồng”, người mẹ luôn bị khinh khi, chửi mắng thậm tệ nhưng nào ai hiểu rằng nỗi khổ tâm lớn nhất là cảnh xa con? Chỉ mỗi bé Hồng hiểu mẹ và yêu mẹ hơn tất cả. Những dấu ấn thành kiến của xã hội cay nghiệt ghi đậm dấu ấn trong tâm hồn non nớt của bé Hồng, tạo nên những suy nghĩ già trước tuổi nhưng không thể nào xoá được những tình cảm kính yêu tôn thờ người mẹ. Số phận trớ trêu đã diễn ra ngay trong những mối quan hệ gia đình là nỗi bất hạnh của đứa trẻ không được sống trong vòng tay yêu thương chăm sóc của mẹ. Bé Hồng đặt ngay giữa ranh giới của thành kiến và tình thương. Nếu bà cô là hiện thân của một xã hội đầy cổ tục để phê phán, đem đến những định kiến cho chị dâu goá bụa trẻ trung thì bé Hồng lại hiện lên với tất cả tình thương, sự bao dung tha thứ. Thiếu sự nhân ái, độ lượng đã đành, bà cô lại càng ích kỷ nhẫn tâm hơn khi cố tình làm tổn thương tâm hồn thơ trẻ của chính đứa cháu ruột của mình bằng cáh “gieo rắc vào đầu óc tôi những hoài nghi để tôi khinh miệt và ruồng rẫy mẹ tôi, một người đàn bà bị cái tội goá chồng, nợ nần cùng túng quá phải bỏ con cái đi tha phương cầu thực”. Với bé Hồng, trong ký ức hãi hùng kinh khiếp của tuổi thơ, ấn tượng của giọng nói và nụ cười rất kịch là hình ảnh không thể xoá mờ.
Ta nhận ra, đàng sau lời nói nhẹ nhàng thản nhiên như không kia là cả một “tâm xà” mù quáng và thù hận. Nhưng dù hàng ngày phải đối mặt với con người độc địa ấy, chú bé Hồng vẫn không “đời nào lòng thương yêu và lòng kính mến mẹ tôi lại bị những rắp tâm tanh bẩn xâm phạm đến”. Chỉ một câu nói thôi nhưng chứa đựng một lời khẳng định chắc nịch cho một điều tưởng chừng thật giản dị, tình cảm mẹ con đã là một mối dây bền chặt mà không gì có thề chia cắt được.
Mặc dù được sống trong một hoàn cảnh vật chất có phần sung sướng hơn những đứa trẻ lang thang không có mái nhà nhưng đối với bé Hồng có lẽ hoàn cảnh ấy lại càng đáng thương hơn. Vốn dĩ đã không nhận đuợc một chút tình thương từ họ hàng, ấy vậy mà tình thương dành cho mẹ lại đang bị người khác tước đoạt mất. Bé Hồng bị bao bọc bởi lòng ganh ghét đố kị, một cuộc sống căng thẳng vây lấy tâm hồn vì luôn phải chịu đựng áp lực từ chính người thân. Nỗi đau đó lại càng đau hơn gấp ngàn lần so với sự thiếu thốn về vật chất. Nhưng dù sống trong hoàn cảnh như vậy, tình cảm bé Hồng đối với mẹ vẫn không hề mai một. Tâm hồn trẻ thơ thánh thiện ấy đáng quí biết dường nào! Vẫn là một đứa trẻ vô tư, nhưng bé Hồng đã già trước tuổi khi biết căm tức thành kiến tàn ác, quyết tâm bảo vệ mẹ đến cùng, cố chống lại sự xạm nhập của những tư tưởng xấu xa. Nhưng trong những hành động ấy là cả một tâm hồn hiếu thảo có sự đứng đắn của người đàn ông thực thụ muốn che chở cho người mình yêu thương và cả sự dễ thương của tâm hồn thơ trẻ không muốn cho ai bắt nạt mẹ mình.
Tuy vậy, dưới sự tra tấn về mặt tinh thần quá nặng nề, những lời nói độc ác vẫn tuôn ra không ngớt, sức chịu đựng của một đứa trẻ cũng chỉ có hạn mà thôi nên bà cô đã đạt được mục đích của mình khi xoáy sâu vào lòng đứa cháu trai những vết thương lòng. Giọt nước mắt tủi buồn “ròng ròng rớt xuống hai bên mép rồi chan hoà đầm đìa ở cằm và cổ” là giọt nước mắt mang đầy mặc cảm thân phận của tâm hồn tinh tế, dễ tủi thân và giàu xúc động. Lời văn mô tả vào diễn biến tâm trạng bé Hồng một cách cụ thể từ một nụ cười tin tưởng thơ ngây cho đến cười dài trong tiếng khóc. Khoảnh khắc hứng chịu lời xỉa xói của bà cô thay cho mẹ đau đớn đến quặn lòng: “Tôi lại im lặng cúi đầu xuống đất, lòng tôi thắt lại, khoé mắt tôi đã cay cay”. Giọt nước mắt nóng hổi trên gương mặt kia đã đánh động lòng trắc ẩn trong tâm tư người đọc. Rồi tiếng cười dài bật ra trong tiếng khóc nức nở đã vỡ bung những xúc cảm đè nén bấy lâu để sau đó lại “nghẹn ứ khóc không ra tiếng”. Đây là đỉnh cao trong tâm trạng, sự phẫn nộ lên đến tột bậc để hiện ra nguyên vẹn là tình cảm chân thực dành cho mẹ không hề giấu giếm.
“Mợ ơi… mợ ơi… mợ ơi!”, tiếng gọi thống thiết của bé Hồng đã khuấy động cả không gian. Tiếng kêu vội vã, kéo dài mà mơ hồ có một sự sợ hãi đã diễn giải đầy đủ những khát khao trong tâm hồn đứa trẻ thiếu thốn tình thương. Thật xúc động biết bao trước giây phút lo lắng hồi hộp khi sợ nhận nhầm người mà mình gọi là “mợ”. Điều đó lại càng khẳng định cho niềm mong mỏi được gặp mẹ của bé Hồng. Bởi không phải những xúc cảm mãnh liệt thôi thúc thì tiếng nói cất lên sẽ rất e dè,thận trọng, thậm chí không dám cất lên khi chưa chắc chắn. Nhưng dẫu cho có sự mơ hồ, tình mẫu tử thiêng liêng, nỗi nhớ nhung khắc khoải trong bao năm xa cách, tiếng gọi đã vang lên đến độ đã níu kéo được chân người, xé toạc không gian. Nhưng sự “ngờ ngợ” ấy đã không còn mơ hồ nữa, khi người thiếu phụ dừng xe lại và bé Hồng nhận ra đích thị là mẹ. Người mẹ trở về trong niềm vui, hân hoan và hạnh phúc của đứa con trai bé bỏng. Lần nữa, bé Hồng lại cất tiếng khóc khi được đón nhận sự chở che, thương yêu, bảo bọc: “Mẹ tôi vừa kéo tay tôi, xoa đầu tôi hỏi thì tôi oà lên khóc rồi cứ thế nức nở”. Nếu những lần trước là tiếng khóc kìm nén, những giõt nước mắt rưng rưng không tràn ra được thì giờ đây lại là những tiếng nức nở làm vơi đi nỗi uất ức, tủi cực trong lòng. Tiếng khóc vang vọng hơn không còn chất chứa nỗi niềm xót xa mà tràn trề niềm hạnh phúc. Giọt nước mắt hôm nay hoà chung giữa hai con người, là sự oà vỡ của cả hai tâm hồn mẹ – con làm nên tình mẫu tử.
Hình ảnh người mẹ được diễn tả bằng những nét tươi tắn sinh động trong đôi mắt nhìn của đứa con, mẹ vẫn đẹp một cách lạ lùng. Vẻ đẹp ấy không cần rực rỡ mà nó chỉ giản dị và vô cùng thân thương. Bởi trong cái nhìn của bé Hồng bằng tất cả sự xúc động và tình thương vô bờ bến thì mẹ bao giờ chẳng là người đẹp nhất! Từ đó, gợi đến niềm ước mơ mà bất kỳ đứa con nào cũng khát khao khi đứng trước mẹ “Phải bé lại và lăn vào lòng một người mẹ, áp mặt vào bầu sữa nóng của người mẹ, để người mẹ vuốt ve từ trán xuống cằm và gãi rôm ở sống lưng cho, mới thấy mẹ có một êm dịu vô cùng”
Dường như,đoạn văn đã ắp đầy những cảm xúc êm ái lan toả toàn bộ không gian và thời gian. Phút giây gặp gỡ ấy như ngưng đọng mãi niềm hạnh phúc trong trái tim nhân vật cũng như người đọc.
Không giống như Mợ Du hay Huệ Chi trước lễ cưới kết thúc là một cái chết khiến người đọc đau đớn đến sửng sốt, mặc dù vẫn là những cảm xúc về mẹ nhưng ở đây lại là một kết cục có hậu như là sự bù đắp cho tâm hồn thánh thiện của người con hiếu thảo.
Cảnh đời thực của những số phận con người, đặc biệt là người phụ nữ vẫn còn bị ràng buộc bởi hủ tục phong kiến khắt khe đã được ghi lại đầy đủ đậm nét bằng những trang hồi ký nóng hổi niềm thương cảm của chính tác giả. Nhằm phản ánh một xã hội bất công, dồng thời lên tiếng bảo vệ cho con người bất hạnh, tác phẩm đã thể hiện một tinh thần nhân đạo cao cả. Gắn với tình cảm chân thành của nhà văn là sự chuyển tải nỗi xúc động trong từng câu chữ hình ảnh đã khắc hoạ sâu sắc giá trị tình cảm thiêng liêng trong gia đình: tình mẫu tử. Trong lòng mẹ cũng là tiêu biểu cho phong cách “văn nóng” của Nguyên Hồng.
Có những tình cảm dễ dàng đổ vỡ trước chông gai nhưng tình mẫu tử thiêng liêng của bé Hồng đã không hề suy xuyển. Đó cũng là sự nhắc nhở cho mỗi con người phải biết thương yêu kính trọng mẹ với tất cả tình cảm của mình. Có những tác phẩm đã mau chóng bị lãng quên nhưng giá trị Trong lòng mẹ cũng như Những ngày thơ ấu sẽ mãi mãi trường tồn bởi nó không những chứa đựng một tình cảm nhân đạo sâu sắc mà còn là một triết lí về giá trị tình cảm gia đình, thấm đượm chất thơ giữa cuộc đời nhiều cay cực.
Phân tích tác phẩm Trong lòng mẹ – Bài làm số 4
Nguyên Hồng là một nhà thơ có nhiều những đóng góp đáng kể cho nền văn học Việt Nam, những đóng góp của ông đã gây ra tiếng vang lớn cho nền văn học của mình, đặc biệt trong tác phẩm trong lòng mẹ đã để lại nhiều cảm xúc khi tác giả đã ghi lại những kỉ niệm về người mẹ.
Trong lòng mẹ là một tác phẩm mà tác giả đã kể lại những kí ức tuổi thơ của mình, và tác giả thể hiện tình yêu của mình với người mẹ của mình, những tình yêu đó đã thể hiện trong từng trang sách của ông, mỗi dòng đã làm cho tác giả thấu hiểu được tình cảm của ông dành cho người mẹ của mình. Sống trong một thời kì khó khăn ba của Hồng chết sớm, mẹ và Hồng sống với nhau nhưng rồi bị áp lực của nhà chồng nhiều quá nên mẹ Hồng không thể chịu được nên đành bỏ nhà ra đi nơi khác kiếm sống để Hồng ở lại bên nhà chồng, những hoàn cảnh đó đã để lại cho tác giả nhiều cảm xúc, khi sự ra đi của người mẹ không làm cho cậu bé Hồng căm ghét người mẹ của mình, Hồng còn thấu hiểu được nỗi đau đớn và những nỗi đau mà mẹ đã gặp phải, những điều đó đã làm cho chúng ta thấy được tình yêu của Hồng đối với mẹ thật lớn lao.
Sống trong một hoàn cảnh vô cùng khó khăn cuộc sống gian nan vất vả đã dồn nén lên con người của Hồng, khi bà cô của Hồng là một người rất độc ác, bà luôn dùng những lời nói chua độc để chia cắt tình cảm của Hồng với người mẹ của mình, những điều đó đã tác động xấu đến Hồng, một điều kì lạ thay khi những lời chia cắt đó không làm cho Hồng ghét mẹ mà ngược lại lại thương cho mẹ của mình, những lời hỏi chua cay mà bà cô đã hỏi Hồng, Hồng mày có muốn vào Thanh Hóa chơi với mẹ mày không, mẹ mày phát tài lắm không như lúc trước đâu, nhưng những lời đó nhằm nói xoay qua vấn đề mà mẹ Hồng đã bỏ Hồng đi, nhưng cậu bé này hiểu được tất cả chỉ vì hoàn cảnh mà mẹ phải làm như vậy, mẹ không thể chịu được áp lực từ gia đình chồng của mình, cuộc sống quá khó khăn vì vậy bà đã phải đi nơi khác kiếm sống.
Những hình ảnh đó đã thể hiện rằng Hồng rất tin tưởng vào người mẹ của mình, cậu bé này tin rằng cuối năm mẹ sẽ về, những niềm tin đó đã khắc sâu vào trong tâm hồn của Hồng, hình ảnh mang những niềm khích lệ cho một tâm hồn bé nhỏ như Hồng, những hình ảnh của hai mẹ con Hồng không bao giờ quen được, Hồng hiểu được nỗi đau của mẹ mình, vừa phải chịu cảnh mất chồng mà lại còn luôn bị áp lực từ gia đình chồng của mình, những điều đó làm cho Hồng thương yêu mẹ của mình da diết những nỗi nhớ đó đã vang vọng trong tâm trí của Hồng, một người con có tình yêu thương mẹ của mình vô bờ bến những tình cảm đó đã tác động lớn đến những hình ảnh mang tính chất nhịp điệu trong tâm hồn của người, hình ảnh trong tâm hồn của Hồng mang những hình ảnh và nó mang những lời nhắc nhở Hồng phải có niềm tin vững chắc về người mẹ của mình.
Những lời nói của bà cô Hồng làm cho cậu ta đau đớn, với một tâm hồn đứa trẻ thì chắc hẳn nó sẽ bị tổn thương rất nhiều nhưng cậu bé đã khóc và phẫn uất trước những hành động đó, những hành động thể hiện một con người độc ác của bà cô đó là khi cậu bé khóc thì lại hạ giọng tỏ ra an ủi và xót thương, những bộ mặt dả tạo đó đã tạo nên cho Hồng hình dung được bản thân mình cần điều gì, khi họ hàng đều ruồng bỏ mẹ Hồng thì trong lòng Hồng mẹ vẫn là một người mẹ hiền hậu và là người mẹ tốt của mình, những lời nói mà bà cô Hồng nói không ảnh hưởng đến Hồng, những lời nói đó chỉ làm cho Hồng ngày càng yêu thương người mẹ của mình hơn, những hình ảnh khác cũng thể hiện rất rõ ràng và chi tiết được những điều đó, những hình ảnh mang những tính chất riêng khi niềm vui đến với Hồng, khi người mẹ đã quay trở về.
Những hình ảnh đó đã để lại nhiều cảm xúc trong lòng cậu bé này khi cậu chông xa xa hình như đó là mẹ cậu bé chạy hồng hộc theo và cuối cùng cậu không nhìn nhằm và đó chính là mẹ, những chi tiết cuối đã thể hiện được những tình cảm và chi tiết trong bài viết, đó là tình cảm của Hồng và mẹ được đoàn tụ khi hai người gặp nhau và tình yêu đó đã được kết nối lại và Hồng xúc động trước mẹ cậu bé ôm trầm lấy mẹ, những tình yêu đó thật lớn lao và vô cùng tạo những ấn tượng mạnh mẽ mang những hình ảnh riêng và đặc biệt trong lòng mẹ đã thể hiện được tấm lòng của người con đối với người mẹ của mình.
Trong lòng mẹ là một câu chuyện cảm động về hoàn cảnh của một cậu bé khi phải xa cách mẹ của mình, hoàn cảnh khó khăn nhưng Hồng không thay đổi tình yêu thương của mình đối với mẹ, những chi tiết cuối bài đã thể hiện được những điều đó nó mang lại cho chúng ta nhiều cảm xúc riêng và mang những cung bậc nhẹ nhàng và tình cảm đặc biệt sâu sắc qua tác phẩm trong lòng mẹ, trong lòng mẹ đã để lại nhiều suy nghĩ và cảm xúc trong lòng rất nhiều những bạn đọc hôm nay và mai sau về tình yêu thương mẹ của mình.
Phân tích tác phẩm Trong lòng mẹ – Bài làm số 5
Nguyên Hồng là một nhà văn lớn được mọi người biết đến với lối viết văn giản di, đi sâu vào lòng người bởi những chi tiết rất gần gũi với cuộc sống hang ngày của chúng ta. Những tác phẩm của ông thường nói về cuộc sống của những con người lao động, về tuổi thơ hồn nhiên nhưng cũng lắm những nỗi lo âu trong cuộc sống. và trong những tác phẩm của ông, có lẽ gây ấn tượng nhất là tác phẩm những ngày thơ ấu với đoạn trích “trong lòng mẹ” kể về cuộc chia ly và gặp mặt của chú bé Hồng với mẹ của mình.
Câu chuyện kể về chú bé Hồng, sinh ra trong một gia đình đã tan nát. Người cha thì bị nghiệp ngập, luôn hằn học, bất mãn với tất cả mọi thứ. Người mẹ vì không thể chịu đựng được đã phải ra đi tìm công ăn việc làm. Sau khi cha mất, bé Hồng được người cô nhận nuôi. Thế nhưng, bé Hồng đâu có được hưởng tình thân của chú và người thận. mọi người coi bé như một gánh nặng trong gia đình, luôn muốn gieo vào đầu của bé những suy nghĩ kinh khủng về người mẹ của mình. Họ đã luôn tổn thương tâm hồn non nớt của bé, nhưng bé cũng không thể nói chuyện cùng ai, chơi cùng ai. Giữa cuộc sống luôn bị ghẻ lạnh, bị nói những điều xấu xa về mẹ nhưng trong lòng bé Hồng, hình ảnh của người mẹ vẫn là hình ảnh rất thiêng liêng- một góc sâu trong trái tim mà không ai có thể biết được. có lẽ cũng bởi vì thế mà bé luôn có những suy nghĩ già trước tuổi của mình bởi bé hiểu, mẹ của bé không phải người như vậy. mẹ chỉ bị những lời dèm pha do xã hội thời bấy giờ đem lại, và cũng không ai có thể làm thay đổi hình ảnh của mẹ trong tâm trí bé. Bé luôn cố gắng bảo vệ tình cảm ấy khỏi "những ráp tâm tanh bẩn” không thể xâm phạm được. ấy thế mà, có lẽ nếu như bé Hồng là đại diện cho những gì cao đẹp, luôn biết yêu thương và tha thứ thì bà cô của bé lại là hình ảnh của chế độ phong kiến cổ hủ khi đó. Dù cho bé Hồng có khóc như thế nào thì người cô vẫn cố tình kể câu chuyện của mẹ bé ra mà không hề có sự thương cảm với chị dâu- một người phụ nữ góa chồng phải đi bươn chải, bon chen trong cuộc sống chỉ vì không thể nuôi nổi con của chính mình. Mỗi lúc như vậy, bé chỉ có thể nuốt tiếng khóc trong cổ họng mà không thể làm thế nào, bởi bé biết bé càng khóc thì người cô sẽ chỉ càng chửi mắng thậm tệ hơn.
“mợ ơi…mợ ơi… mợ ơi” tiếng gọi của bé mới đầu chỉ như ngờ ngợ, bé không dám gọi mẹ, chỉ dám đứng từ xa gọi là “mợ”. có lẽ lúc đó bé băn khoăn không biết phải làm như thế nào, muốn nhận mẹ nhưng lại sợ mình nhận sai người, cũng có lẽ bé sợ mẹ không nhận ra mình, không yêu thương và dành tình cảm cho mình nhiều như mình luôn nghĩ về mẹ. Nhưng may sao, lúc đó, khi bé một mực chạy theo chiếc xe của mẹ thì mẹ của bé đã dừng lại. Người mẹ tần tảo ấy cũng đong đầy nước mắt khi thấy con trai chạy theo mình… tất cả, tất cả như dừng lại chỉ còn lại hai mẹ con cùng cuộc hội ngộ, sum vầy. mẹ trở về trong trái tim của bé Hồng. nếu như những lần trước bé Hồng chỉ có những tiếng nấc nghẹn ngào thì giờ đây, bé đã có thể khóc một cách thoải mái, tiếng khóc thực sự của một người con với người mẹ của mình, mong muốn tình yêu thương và vòng tay vỗ về của mẹ.
“mẹ kéo tay tôi, xoa đầu tôi hỏi, thì tôi cứ òa lên khóc nức nở”. tiếng khóc vang vọng, nhưng lại làm cho tâm hồn của bé Hồng bớt đi sự cô quạnh, là tiếng khóc của sự hạnh phúc, bé đã có thể thoải mái bộc lộ tình cảm của mình. Tới đây, chúng ta mới có thể nhìn thấy được tình mẫu tử mới thật thiêng liêng tới nhường nào. Hình ảnh của người mẹ trong con mắt của bé Hồng mới thật đẹp làm sao. Trong lòng bé, có lẽ mẹ luôn đẹp như vậy, hiền hậu và ấm áp như vậy. Chính bởi thế, khi được nằm trong vòng tay ôm ấm của mẹ, bé mới có thể trải hết lòng mình mà không cần phải che giấu điều gì. Đây có lẽ chính là kết cục đẹp nhất cho những người con hiếu thảo, sẽ nhận được tình yêu của người bên cạnh.
Qua tác phẩm, chúng ta có thể thấy hình ảnh thu nhỏ của một xã hội đầy những nghi ngờ, ganh tỵ. Tại đây, thân phận người phụ nữ vẫn chưa được coi trọng trong xã hội, họ phải chịu những định kiến mà những kẻ bên ngoài sắp đặt. Đồng thời, tác phẩm cũng mang ý nghĩa nhân đạo cao cả khi bảo về những con người yếu ớt, cho họ có quyền được mơ ước, khát khao và cũng đạt được điều đó.
Hồng Loan tổng hợp
Từ khóa tìm kiếm:
- hay phan tich doan trichtrong long me de lam noi hung nhan dao va ki uc tuoi tho gan voi tinh me
Bài viết liên quan
- Nghị luận xã hội về câu nói:Tình yêu là niềm say mê làm cho người khác được hạnh phúc – Văn hay lớp 10
- Phân tích tác phẩm Lai tân (Hồ Chí Minh) – Văn hay lớp 11
- Phát biểu cảm nghĩ về bài Con Rồng cháu Tiên – Văn hay lớp 6
- Phân tích tác phẩm Bài ca ngất ngưởng (Nguyễn Công Trứ) – Văn hay lớp 11
- Nghị luận xã hội về câu nói: Lòng yêu nước ban đầu là yêu những vật tầm thường nhất yêu cái cây trồng ở trước nhà, yêu con phố nhỏ đổ ra bờ sông, yêu vị thơm chua mát của trái lê mùa thu hay mùi cỏ thảo nguyên có hơi rượu mạnh. Lòng yêu nhà, yêu làng xóm, yêu miền quê đã trở nên lòng yêu Tổ quốc – Văn hay lớp 12
- Phân tích trích đoạn Cảnh ngày xuân – Văn hay lớp 9
- Thuyết minh về Con trâu – Văn hay lớp 8
- Tả cây đa làng em – Văn hay lớp 7