Phân tích tác phẩm Chí Phèo của Nam Cao – Văn mẫu hay lớp 11
Xem nhanh nội dung Phân tích tác phẩm Chí Phèo của Nam Cao – Bài làm 1 của một học sinh giỏi Văn tỉnh Bắc Kạn Nhắc đến nhà văn Nam Cao không ai không biết đến tác phẩm Chí Phèo của ông, đây là tác phẩm đã nói lên được tình trạng khổ cực của người nông dân trước cách mạng ...
Xem nhanh nội dung
Phân tích tác phẩm Chí Phèo của Nam Cao – Bài làm 1 của một học sinh giỏi Văn tỉnh Bắc Kạn
Nhắc đến nhà văn Nam Cao không ai không biết đến tác phẩm Chí Phèo của ông, đây là tác phẩm đã nói lên được tình trạng khổ cực của người nông dân trước cách mạng tháng 8.
Nam Cao là một nhà văn xuất sắc của dân tộc Việt Nam ông là một người lỗi lạc, trước cách mạng tháng 8 ông đã có rất nhiều những tác phẩm hay như trăng sáng hay chí phèo… tất cả đều mang đậm màu sắc phản ánh hiện thực xã hội lúc bấy giờ. Hiểu được nỗi khổ của người nông dân chính vì vậy ông luôn có những cảm xúc bất mãn trước xã hội cũ, một xã hội tàn ác những tên tham quan ô lại, đẩy nhân dân đến những cực khổ lầm than, những hình ảnh người nông dân cực khổ, bị bần cùng hóa cũng đã phản ánh sâu sắc được tình trạng người nông dân lúc bấy giờ, những hình ảnh mang đậm giá trị của cuộc sống bởi ông là nhà văn của thời đại. Nhà chiến sĩ cách mạng của dân tộc Việt Nam, ông đã phản chiếu thời đại qua việc phản ánh tình trạng xã hội lúc bấy giờ.
Những hình ảnh mang tính chất phê phán đã đậm nét trong tác phẩm của Nam Cao ông luôn cố gắng vươt qua được tất cả mọi điều giới hạn của cuộc sống để viết lên một tác phẩm chân thực, nó chiếu sáng tâm hồn của thời đại, lột tả rất nhiều những cảm xúc trong tâm hồn của mỗi con người, giá trị to lớn của nó đó là biết phê phán những tên quan lại thối nát, luôn luôn dình dập đe dọa sự sống của nhân dân, nổi bật lên trong bài này đó là hình ảnh Chí Phèo, một người nông dân bị bần cùng hóa, luôn luôn phải chịu đựng những nỗi đau đớn mà xã hội để lại, một người lương thiện chất phát nhưng rồi Chí cũng bị xã hội này vùn dập.
Những hình ảnh của nó phản chiếu mạnh mẽ tâm hồn, và nhân cách của những người nông dân, họ bị bần cùng hóa để rồi trở thành những tên ác và đây là sản phẩm mà xã hội đem lại. Chí ban đầu là người hiền lành, một người nông dân chất phác, đi làm thuê cho gia đình nhà bá Kiến nhưng lại bị gia đình nhà địa chủ này biến thành một tên ác và bị xã hội khinh rẻ, nhưng hành động xấu xa của gia đình bá Kiến đã làm cho một người nông dân vốn rất lương thiện này trở nên bị bần cùng hóa, những đau đớn, cực khổ, và cả những hành động mà Chí đang làm cũng bị xã hội khinh mạc.
Chí sống trong cảnh của kiếp trâu ngựa, làm thuê cho gia đình nhà họ, bị áp bức, bóc lột sức lao động, bị biến thành những con quỷ dữ, những năm tháng đau khổ, và nghèo đói đã bom vây đến Chí, giá trị của tác phẩm này để lại cho nhân loại đó là sự phê phán mạnh mẽ gia đình nhà bá Kiến nói chung và cả xã hội lúc bấy giờ nói riêng, tất cả đều cố gắng lột tả bộ mặt của chúng những con người ác độc tàn ác.
Trước 1945 người nông dân Việt Nam đã phải những kiếp trâu ngựa và Chí là một điển hình đó, luôn phải chịu những sự bất công do xã hội này đặt ra, hắn phải chịu những đau đớn cực khổ, và sự bốc lột tàn ác, những hình ảnh thể hiện mạnh mẽ được điều đó, luôn luôn tồn tại và nó phản ánh mạnh mẽ trong mỗi người, giá trị của tác phẩm này để lại cho nhân loại cũng vô cùng to lớn, những hình ảnh về Chí đã mang đậm nét phê phán và tố cáo sự tàn ác của thế lực cầm quyền những tên quan tham đại ác, những hình ảnh của người nông dân hiền lành chất phác của Chí ngày càng bị mất đi do những điều mà những bọn xấu xa gây nên, nó đã làm cho người nông dân này biến thành con quỷ dữ.
Từ một người hiện lành mà nhà bá Kiến kiến Chí phải lâm vào tù tội, hắn bị bóc lột đến tận xương tủy, những hành động của quỷ đội nốt người của bọn thế lực phong kiến làm cho Chí rơi vào tình trạng thảm thương, không chỉ bị áp bức mà còn bị bóc lột đến tận xương tủy, những hình ảnh đó đã mang những ý nghĩa to cáo mạnh mẽ và vô cùng sâu sắc đối với mỗi con người. Hình ảnh trên không chỉ để cho người đọc hiểu được giá trị to lớn mà cuộc sống này gây ra mà phần lớn nó phản ánh được tội ác của kẻ thù. Những tội ác không thể nào có thể tha thứ được, chúng không bằng những loài cầm thú mà hành động mất nhân tính, người nông dân Việt Nam cực khổ, đau thương, Nam Cao đã dùng nhân vật Chí để nói lên số phận của rất nhiều người nông dân khác. Những hình ảnh phản ánh mạnh mẽ được tinh thần và cuộc sống của mỗi chúng ta khi ngắm nhìn và cảm nhận về cuộc sống lúc bấy giờ.
Những giá trị to lớn và mang ý nghĩa sâu sắc luôn để lại cho dân tộc những bài học xương máu và những ý nghĩa to lớn của nhân loại cần phải cảm thông và có thái độ sâu sắc đối với kẻ thù, những tên quan lại thối nát, qua đây nhân dân ta cũng thể hiện một thái độ cảm thông sâu sắc đối với nhân dân Việt Nam, những con người đang phải chịu nhiều cực khổ đau thương.
Hình tượng Chí Phèo đã mang đậm giá trị để tố cáo đối với kẻ thù đó là thế lực phong kiến, chí đã có sự biến đổi sâu sắc từ một người chất phát hiền lành, trở thành một người chuyên rạch mặt ăn vạ làng, đi đâu hắn cũng chửi… tất cả những điều đó là hậu quả của việc thế lực phong kiến gây lên, nó làm cho nhân dân ta bị bần cùng hóa, nhưng rồi Chí Phèo lại nảy sinh trong tình yêu thương với Thị Nở. Cả cuộc đời của chí chưa bao giờ được sự chăm sóc và yêu thương của bất kì người đàn bà chính vì vậy hơi ấm của lòng người cũng làm cho Chí thức tỉnh. Những tình cảm chân thành và mang giá trị to lớn đó đã đủ làm thức tỉnh tâm hồn của Chí từ một người đang được so sánh như con quỷ đội nốt người đó, trở thành những con người lương thiện và có vai trò sức sống đối với chính cuộc đời của hắn.
Những hình ảnh người nông dân Việt Nam đang ngày càng bần cùng hóa làm cho chúng ta có nhiều cảm xúc đau thương và đang xúc động trước những năm tháng đói khổ mà người nông dân của chúng ta phải chịu đựng, những hình ảnh đó đẻ lại nhiều cảm xúc cho người đọc, sự cảm thông sâu sắc đối với người nông dân Việt Nam, những hình ảnh mang tầm giá trị to lớn cũng để ảnh hưởng mạnh mẽ đến cuộc sống và con người của mỗi người. Chí Phèo à một biểu tượng đau thương và chịu nhiều khổ cực của người nông dân Việt Nam. Những hình ảnh Chí đang bị bần cùng hóa đó là từ người nông dân chất phát chăm chỉ làm ăn lại bị những tên quan lại bóc lột và đẩy Chí vào tù, những người lương thịt lại bị đối xử một cách vô đạo đức và vô văn hóa đến như vậy, hình tượng của nó cũng để lại rất nhiều những cảm xúc và đau thương của con người Việt Nam.
Hình ảnh Chí Phèo luôn rạch mặt ăn vạ làng đó là biểu hiện của sự bần cùng hóa, giống như tập A Quy Chính Truyện nhân vật A Quy mắc căn bệnh thắng lợi tinh thần, còn ở đây cả hai người đều có đặc điểm chung đó là đều là người nông dân bị bần cùng hóa, nhưng có lẽ chúng ta thấy hình ảnh Chí Phèo lộ rõ điều đó hơn, những đau thương nhục nhằn hắn đang phải chịu đựng đều do cuộc sống này gây lên, thủ phạm chính là thế lực của bọn phong kiến cầm quyền, những hình ảnh đó đã để lại cho người đọc rất nhiều cảm xúc và hòa vào đó là những nỗi nhớ, sự đau thương của con người.
Phân tích tác phẩm Chí Phèo của Nam cao – Bài làm 2
Tao muốn làm người lương thiện"
Không được! Ai cho tao lương thiện?…"
1. Mỗi lần nhớ đến nhân vật Chí Phèo của Nam Cao, tôi lại nghe văng vẳng bên tai mấy câu nói trên đây và hình dung rõ như in một gương mặt đàn ông vừa đáng thương vừa đáng sợ, vằn vện những vết sẹo dữ dằn. Từ đôi mắt nửa tỉnh táo, nửa đờ đẫn của anh ta ánh lên một cái nhìn thật thiết tha, khắc khoải. Cái nhìn pha lẫn cả hăm doạ với cầu khẩn, pha lẫn hận thù, khổ đau, sám hối và khát vọng,… Cái nhìn dường như không phải hướng đến một điểm, một người, mà hướng đến mọi điểm, mọi người.
Những lúc ấy, tôi hiểu rằng, đối với tôi, điều thú vị và tâm đắc mà tác phẩm Chí Phèo mang lại, thật giản dị và cũng thật sâu xa : đó là việc nhà văn đã nói thay cho những người khốn khổ như Chí Phèo một tiếng nói thật cảm động, thấm thía – tiếng nói khát khao được sống như một con người.
Phải, tiếng nổi khát khao được sống như một con người. Chỉ thế thôi, nhưng với Chí Phèo là cả một kì vọng.
Bởi hai tiếng "Con người" đối với người đàn ông thua thiệt, bất hạnh này là một cái gì thật tốt đẹp, mà cao xa. Đó là một viễn ảnh. Viễn ảnh ấy vừa như là một hồi ức, vừa là niềm ước mong; vừa như một cái gì hiển nhiên, đã có, sắp có, lại vừa như một cái gì chưa có và còn xa, còn lâu Chí Phèo mới chạm tới được.
Sức sống tươi tắn của hình tượng chí Phèo chính là ở những chỗ như thế này. Sức sống ấy toát ra từ cả hình tượng lẫn ngôn từ, từ cả câu chuyện lẫn cách kết cấu.
Trong tác phẩm, để làm nổi bật tính chất viễn ảnh về con người và khơi sâu niềm khát khao tha thiết ấy ở Chí Phèo, ngoài phần kể tả về những ngày Chí Phèo tỉnh táo tận hưởng hạnh phúc, tình yêu bình dị mộc mạc mà ngọt ngào với thị Nở, thỉnh thoảng Nam Cao lại lồng vào bức tranh hiện tại bi đát của Chí Phèo một vài mẩu hồi ức vui, trong sáng:
– …"Năm hai mươi tuổi, hắn làm canh điền cho ông lí Kiến, bây giờ là cụ bá Kiến ăn tiên chỉ làng…"
– …"Hắn lại nao nao buồn, là vì mẩu chuyện ấy nhắc cho hắn một cái gì rất xa xôi. Hình như có một thời hắn đã ao ước có một gia đình nho nhỏ. Chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải. Chúng lại bỏ một con lợn nuôi để làm vốn liếng. Khá giả thì mua dăm ba sào ruộng làm."
– …"Hồi ấy hắn hai mươi. Hai mươi tuổi, người ta không là đá, nhưng cũng không toàn là xác thịt. Người ta không thích cái gì người ta khinh."
– v.v.
Những hình ảnh bình dị như thế từng là có thật, rất thật trong đời Chí Phèo. Nhưng tất cả đã thuộc về hồi ức, tức là thuộc một thế giới khác, một cõi xa xăm. Rõ ràng là Chí Phèo rất tha thiết sống như một con người, ít nhất là con người đã có "năm hai mươi tuổi…", hoặc "hồi ấy…".
Giữa những trang kể về khoảng thời gian năm sáu ngày ngắn ngủi Chí Phèo tỉnh táo tận hưởng hạnh phúc, tình yêu bình dị mộc mạc mà ngọt ngào với thị Nở, và những câu, đoạn gợi lại hồi ức vui, trong sáng hiếm hoi như vậy, Nam Cao đã kể khá dài và khá kĩ về những cơn say, những tiếng chửi, những hành động đập phá đang đẩy Chí Phèo trượt dài xuống hố thẳm tha hoá. Càng lúc Nam Cao càng làm cho người đọc hiểu thấm thía cái giá để được sống như một con người. Gập ghềnh và cheo leo thay là con đường trở về với bản tính lương thiện của Chí Phèo!
Niềm khao khát làm người lương thiện ấy càng cháy bỏng trong đoạn nhà văn kể lại việc Chí Phèo đến nhà bá Kiến và dõng dạc tuyên bố yêu sách tối hậu của mình: Tao muốn làm người lương thiện". Nhưng : " – Không được! Ai cho tao lương thiện? Làm thế nào cho mất được những vết mảnh chai trên mặt này? Tao không thể là người lương thiện nữa. Biết không! Chỉ có một cách… biết không!… Chỉ còn một cách là… cái này! Biết không!…
Hắn rút dao ra, xông vào. Bá Kiến ngồi nhỏm dậy, Chí Phèo đã văng dao tới rồi. Bá Kiến chi kịp kêu một tiếng. Chí Phèo vừa chém túi bụi vừa kêu làng thật to. Hắn kêu làng, không bao giờ người ta vội đến. Bởi thế khi người ta đến thì hắn cũng đã đang giãy đành đạch ở giữa bao nhiêu là máu tươi. Mắt hắn trợn ngược. Mồm hắn ngáp ngáp, muốn nói, nhưng không ra tiếng. Ở cổ hắn, thỉnh thoảng máu vẫn còn ứ ra."
Đó cũng là trang cuối cùng đẫm lệ và đẫm máu trong cuộc đời hơn bốn mươi năm của Chí Phèo: Mấy mẩu đối khẩu căng thẳng đầy kịch tính vang lên, được điểm nhịp bằng những nhát dao bi phẫn, căm hờn. Và điều phải xảy đến đã xảy đến. Một kết cuộc thảm khốc: hai cái xác cùng đổ gục trên một vũng máu tươi,…
Khi trang cuối cuộc đời Chí Phèo sắp khép lại, người đọc đã hiểu rằng thế là hết, ước muốn "làm người" của anh vẫn chỉ là một ước muốn. Chuyện "làm người" thậm chí đã thành ảo ảnh chứ không còn là viễn ảnh nữa!
Thật đáng thương, Chí Phèo mắt vẫn "trợn ngược", "mồm ngáp ngáp, muốn nói, nhưng không ra tiếng". Cơ duyên tìm cuộc sống lương thiện của anh đã đứt gãy giữa chừng.
2. Nhưng thế nào mới được xem là người? Và vì lẽ gì mà một ước muốn làm người thật bình dị, đối với Chí Phèo lại thành ra quá xa vời, thậm chí, thành không tưởng như vậy?
Thật ra, thế nào là quỷ, thế nào là người ? Thế nào là dữ, là bất lương, thế nào là hiền, là lương thiện,…? Câu trả lời không dễ. Truyện ngắn của Nam Cao cũng không hề đưa ra một định nghĩa, một lời giải thích trực tiếp về những điều này. Nhưng đọc tác phẩm, mỗi người chúng ta đều có thể tự tìm được câu trả lời tương đối thoả đáng cho mình.
Câu trả lời có thể rút ra từ chính quan niệm và cách miêu tả của Nam Cao trong tác phẩm, nhất là từ các đoạn tả, kể về phần người của Chí Phèo trước khi đi ở tù và sau khi đã tỉnh rượu (trong sự đối chiếu với phần quỷ của Chí Phèo sau khi đi ở tù về và trước khi tỉnh rượu). Câu trả lời phần nào cũng có thể tìm kiếm từ những đoạn văn triết lí trữ tình của Nam Cao về bản tính và giấc mơ lương thiện của Chí Phèo, chẳng hạn:
"Hai mươi tuổi, người ta không là đá, nhưng cũng không toàn là xác thịt"; "Trời ơi! Hắn thèm lương thiện, hắn muốn làm hoà với mọi người biết bao! Thị Nở sẽ mở đường cho hắn. Thị có thể sống yên ổn với hắn thì sao người khác lại không thể được. Họ sẽ thấy rằng hắn cũng có thể không làm hại được ai. Họ sẽ lại nhận hắn vào cái xã hội bằng phẳng, thân thiện của những người lương thiện".
Theo cách đó, tác phẩm như ngầm đưa ra một lời giải thích quan niệm, một cách định nghĩa về con người và cuộc sống con người. Là người thì phải có khả năng sống bằng bàn tay và sức lao động của mình (như Chí Phèo sống bằng nghề làm canh điền cho lí Kiến). Là người thì phải biết sống tự trọng (như Chí Phèo biết tự trọng trước bà Ba). Là người thì phải có bạn, có người thân, có khả năng và được quyền sống thân thiện với mọi người (như Chí Phèo có thị Nở và sống chan hoà cùng thị Nở),…
Phải rồi, đã là người thì ít ra phải như thế. Khóc, cười, yêu ghét, buồn nhớ, giận hòm, bất bình, căm uất,… cũng phải như một con người.
Hiểu như thế, người ta thấy càng đáng thương cảm cho Chí Phèo. Người đàn ông bị cả làng Vũ Đại xa lánh, từ chối này nào có ước muốn điều gì cao xa? Chỉ là những gì tối thiểu và chính đáng nhất. Thế mà "không được!". Lỗi ấy tại ai và do đâu?
Vì Chí Phèo? Vì bá Kiến? Vì định kiến xã hội làng Vũ Đại?
Nam Cao đã không hề dễ dãi, đơn giản một chiều khi giúp người đọc tìm cách trả lời những câu hỏi nhức nhối này.
Bi kịch bị từ chối quyền làm người của Chí Phèo, tất nhiên suy cho cùng là xuất phát từ hiện thực xã hội đen tối của làng Vũ Đại, từ mưu ma chước quỷ của những kẻ cai trị sâu mọt, gian ngoan, thâm hiểm như lí Kiến. Nhưng cũng vì cả Chí Phèo nữa. Đưa Chí Phèo vào con đường tự huỷ hoại là bá Kiến, nhưng thực hiện các hành động, hành vi tự huý hoại ấy không ai khác, là Chí Phèo. Việc Chí Phèo không được trở lại làm người có thể giải thích bằng nhiều lí do. Có nhiều lí do khách quan lẫn lí do chủ quan. Nhưng có lẽ quan trọng nhất vẫn là hai lí do này: Thứ nhất, định kiến xã hội quá nghiệt ngã là thứ rào cản không thể vượt qua; thứ hai, Chí Phèo đã trượt dốc quá xa, đến lúc tỉnh ra thì đã quá muộn và trong Chí Phèo xuất hiện một thứ rào cản khác: rào cản tâm lí.
Lí do thứ nhất thuộc về phía khách quan xã hội, đã được bà cô thị Nở nói toạc ra: "Đàn ông đã chết hết cả rồi hay sao, mà lại đâm đầu đi lấy một thằng không cha. Ai lại đi lấy thằng chỉ có một nghề là rạch mạt ra ăn vạ." Ở cái làng Vũ Đại này, từ lâu, Chí Phèo đã thành "con vật lạ". Từ lâu, Chí Phèo đã sống ngoài rìa xã hội (một mình ở bên kia bờ đê). Chí Phèo chửi, người ta bỏ ngoài tai (thường chỉ có ba con chó dữ đáp lại thằng say rượu). Trong mắt người làng, cũng như bà cô thị Nở, Chí Phèo chỉ có thể sống kiếp thú vật ("chỉ có một nghề rạch mặt ra ăn vạ"), không thể sống chung với người, hoặc sống mà cũng như đã chết. Cái định kiến này sâu sắc, nghiệt ngã đến mức, giả dụ thị Nờ có trái lời bà cô, vẫn cứ chấp nhận chung sống với Chí Phèo, thì xã hội làng Vũ Đại vẫn không thể tha thứ và đón nhận anh ta.
Lí do thứ hai, thuộc về phía chủ quan Chí Phèo, liên quan đến sự tự ý thức của Chí Phèo. Đúng là Chí Phèo đã trượt dốc quá xa. Chí đã phạm quá nhiều tội lỗi (cho dù là phạm trong lúc say). Đến mức hầu như không thể tính sổ được với dân làng rằng anh "đã phá bao nhiêu cơ nghiệp, đập nát bao nhiêu cảnh yên vui, đạp đổ bao nhiêu hạnh phúc, làm chảy máu và nước mắt của bao nhiêu người lương thiện". Món nợ ấy biết trả đến bao giờ cho xong để thanh thản trở lại làm người ? Khi Nam Cao lần thứ hai miêu tả ngoại hình Chí Phèo : "Cái mặt hắn vàng vàng mà lại muốn xạm màu gio ; nó vằn dọc vằn ngang, không thứ tự, biết bao nhiêu là sẹo. Vết những mảnh chai của bao nhiêu lần ăn vạ kêu làng, bao nhiêu lần, hắn nhớ làm sao nổi ?", ta không nên hiểu đó là miêu tả chỉ để nhận dạng hay để thấy Chí Phèo đã mất hẳn nhân hình, mà quan trọng hơn, nhà văn như muốn nói với độc giả rằng, đấy, tội lỗi Chí Phèo còn ghi chằng chịt trên gương mặt kia, không bao giờ có thể xoá sạch dược. Nó sẽ trở thành một thứ mặc cảm tội lỗi, ám ảnh không nguôi phần đời tỉnh táo của Chí Phèo. Chính Chí Phèo trong cơn tuyệt vọng đã ý thức rõ hơn ai hết về điều này : "Không được ! Ai cho tao lương thiện ? Làm thế nào cho mất được những vết mảnh chai trên mặt này ? Tao không thể là người lương thiện nữa. Biết không !". Đến lúc tỉnh ra thì đã quá muộn : có bao nhiêu vết sẹo trên mặt thì cũng có bấy nhiêu vết thương không lành được trong tâm hồn. Bấy giờ ở Chí Phèo đã xuất hiện một thứ rào cản khác lại còn khó vượt qua hơn rào cản định kiến xã hội. Đó là rào cản tâm lí. Đến lúc đó, một cách tỉnh táo nhất, chính Chí Phèo cự tuyệt quyền làm người của mình bằng một án mạng và bằng những nhát dao oan nghiệt. Có lẽ một trong những nguyên do sâu xa nhất khiến Nam Cao dể cho Chí Phèo gặp thị Nở, tỉnh táo ăn cháo hành, đón nhận tình yêu, tình người,… chính là để chuẩn bị cho anh ta ý thức được đầy đủ – thoạt tiên thì chỉ lờ mờ, nhưng càng lúc càng rõ – tình cảnh bi đát, tuyệt vọng của mình.
Phải chăng vì vậy mà nhà văn đã miêu tả nhân vật của mình như một nạn nhân tuyệt vọng vừa đáng thương, vừa đáng trách ? Tuy nhiên, dù đáng thương nhiều hay đáng trách nhiều thì rốt cuộc Chí Phèo không thể tha thứ cho kẻ thù của mình cũng như tội lỗi của mình.
Nam Cao đã rất khách quan. Nhưng ông không vô tình. Trái lại, ông đã nhiêu lần kín đáo biện minh cho Chí Phèo.
Nhà văn quả là rất cận nhân tình khi viết rất nhiều cầu văn tương tự: "Chưa bao giờ hắn tỉnh…", "Có lẽ hắn cũng không biết rằng…", "Hắn biết đâu…" "Hắn biết đâu vì hắn làm tất cả trong lúc say." Mà "Hắn say thì hắn làm bất cứ cái gì người ta sai hắn làm". Và, hơn thế, ông còn tìm cách khẳng định thêm rằng: chính lúc Chí Phèo nhận ra là mình đã bị cả xã hội làng Vũ Đại gạt phăng mất cái quyền được làm người, thì niềm khát khao được sống như một con người càng cháy bỏng hơn bao giờ hết ; rằng : về bản chất, chưa bao giờ Chí Phèo là một gã lưu manh hay một tên quỷ dữ; rằng: con người luôn phải chịu trách nhiệm về chính nó, nhưng con người cũng chỉ là sản phẩm của hoàn cảnh mà thôi ; v.v.
Khi Chí Phèo ngắc ngoải chết trong vũng máu tươi, sau tiếng kêu tuyệt vọng, và những dòng đời bi thảm cuối cùng của anh ta khép lại, thì người ta không chỉ thấy giận (giận kẻ gieo tai hoạ cho Chí Phèo), thấy thương (thương một kẻ có số phận bi đát), mà còn thấy tiếc. Tiếc thay cho Chí Phèo. "Giá cứ thế này mãi thì thích nhỉ" ; "Hay là mình sang đây ở với tớ một nhà cho vui.", "Chúng sẽ làm thành một cặp rất xứng đôi". Những cái "giá…", cái "sẽ…", cái "hay là…" như vậy – trong sự ngân vang của ngôn từ trần thuật – rốt cuộc cũng vẫn chỉ là ao ước, là giả thiết, là viễn ảnh, ảo ảnh mà thôi. Nó cũng thoảng qua, cũng mong manh như hương vị cháo hành của thị Nở mang cho Chí Phèo lần đầu tiên và cũng là lần cuối cùng vậy. Cháo hành "rất ngon" ăn hết từ hôm trước mà trớ trêu thay mãi đến hôm sau, khi bị thị Nở phũ phàng dúi ngã "lăn khoèo xuống sân", chí Phèo vẫn "thoáng một cái, hắn lại như hít thấy hơi cháo hành".
Cứ như thế, biết bao nhiêu là tiếc nuối cho cái cơ duyên "làm người lương thiện" của Chí Phèo đã được nhà văn thông qua nghệ thuật, gieo vào lòng người đọc, khiến người ta phải cùng ông thao thức mãi không thôi.
"Chí Phèo" là tiếng nói của niềm khao khát. Nhưng đó là tiếng nói bên trong, tiếng nói của một niềm khát khao bình dị được cất lên từ sâu thẳm tâm hồn.
Dựa theo sự miêu tả của Nam Cao trong truyện ngắn Chí Phèo, người ta hoàn toàn có quyền gọi nhân vật chính của truyện ngắn này – Chí Phèo – là một "thằng đầu bò", một "con vật lạ", "gã lưu manh" hay "tên quỷ dữ",… Cũng như vậy, người ta hoàn toàn có thể hiểu và tin rằng, từ trong bản chất, Chí Phèo là một người lao động lương thiện, một anh canh điền "hiền như đất". Nhưng dù là nhìn nhân vật từ cả hai phía, hoặc giả, nhìn chủ yếu từ phía này hay phía kia thì cái gã lưu manh hay cái người lương thiện trong Chí Phèo, ám ảnh người đọc không phải bằng hành động bên ngoài mà bằng một thứ hành động bên trong, tiếng nói bên trong : ám ảnh bằng những cơn địa chấn lớn lao của số phận cùng những vang động của nó trong chính tâm hồn anh ta.
Hầu hết những cảnh ngộ, những sự kiện tạo ra những va đập và biến đổi sâu sắc số phận, tính cách, tâm lí Chí Phèo đều được nhìn bằng con mắt bên trong, con mắt của nhân vật Chí Phèo và kể bằng tiếng nói tâm hồn, theo mạch suy tư của tâm hồn. Ai đó đã rất có lí khi gọi cách trần thuật và kết cấu truyện Chí Phèo là trần thuật và kết cấu theo dòng ý thức của nhân vật chính.
Sự lựa chọn này của tác giả là rất hợp lí và có ý nghĩa. Các diễn biến tâm lí và tiếng nói ở đây đều thuộc về một chủ thể: Chí Phèo.
Nương theo dòng ý thức và điểm nhìn của nhân vật, nhà văn, người đọc cùng nhân vật nhìn vào hiện tại, quá khứ, tương lai của anh ta. Từ đó, tác phẩm mở ra một hành trình để nhân vật chính tự nhận thức, tự phát hiện con người bên trong của mình. Hành động tự nhận thức và tự phát hiện này, đặc biệt từ sau khi Chí Phèo tỉnh rượu, được diễn đạt rất ấn tượng và hiệu quả bằng một kiểu lời vân nửa trực tiếp độc đáo và bằng một khung cú pháp đặc thù : Hắn + động từ tâm lí (Hắn thấy…, hắn nghe…, hắn sợ,…). Người đọc, vì thế, cơ hồ không cưỡng lại được, cứ trôi miên man theo dòng chảy cảm xúc, suy tư của Chí Phèo:
"Hắn thấy miệng đắng, lòng mơ hồ buồn…", "Hắn sợ rượu…". "Hắn lại nao nao buồn…", "hắn thấy hắn già mà vẫn còn cô độc.". "Hết ngạc nhiên thì hắn thấy mắt hình như ươn ướt.". "Hắn húp một húp và nhận ra rằng : những người suốt đời không ăn cháo hành không biết rằng cháo hành ăn rất ngon".
Ngược về quá khứ, "nhớ đến bà Ba", "hắn chỉ thấy nhục, chứ yêu đương gì.". Nhìn vào hiện tại, hắn "trông thị thế mà có duyên", hắn thấy "như yêu thị", và khám phá ra rằng "đàn bà không có men như rượu nhưng cũng làm người say". Rồi, "hắn thấy lòng thành trẻ con", "hắn muốn làm nũng với thị như với mẹ".
Và điều tự phát hiện này mới cực kì quan trọng: "Hắn có thể tìm bạn được, sao lại gây kẻ thù ?". Hoặc: "Trời ơi ! Hắn thèm lương thiện, hắn muốn làm hoà với mọi người biết bao! Thị Nở sẽ mở đường cho hắn. Thị có thể sống yên ổn với hắn thì sao người khác lại không thể được. Họ sẽ thấy rằng hắn cũng có thể không làm hại được ai. Họ sẽ lại nhận hắn vào cái xã hội bằng phẳng, thân thiện của những người lương thiện."
Cứ thế, mỗi một lần "Hắn thấy…", "Hắn .vợ…", "Hắn nhớ…", "Hắn muốn…" là mỗi lần cõi thầm kín của Chí Phèo dược tự nhận thức, tự phô diễn, cũng là mỗi lần niềm khao khát từ bên trong vang vọng lên tiếng nói làm tái tê, xao xuyến lòng người.
3. Trọng tâm của tác phẩm Chí Phèo không phải kể về quá trình lưu manh hoá mà vé quá trình thức tỉnh, vỡ lẽ của nhân vật. Những đoạn hay nhất cũng thuộc phần này (những diễn biến tâm lí của Chí Phèo từ sau khi gặp thị Nở đến khi tự kết liễu đời mình).
Ở đây rõ ràng có nỗi đau, tiếng kêu tuyệt vọng, nhưng bao trùm, và sâu thẳm vẫn là tiếng nói khát khao. Khát khao được sống cho ra một con người : biết cười khóc, buồn vui như một con người, được yêu thương, hạnh phúc bình dị như một con người, được đón nhận bằng những vòng tay bè bạn như một con người. (Chí Phèo muốn xoá bỏ thù oán, để được sống trong tình thân hữu, tình yêu — tình yêu được xem như một biểu hiện đặc biệt của tình bạn, tình người).
Hơn bốn mươi năm vật lộn với đời, Chí Phèo chỉ được thực sự sống như con người trong vỏn vẹn năm sáu ngày ngắn ngủi, ấm áp tình người. Việc gặp và chung sống với thị Nở là một sự bù đắp cho Chí Phèo tất cả những loại tình cảm của giống loài mà trước đó anh chưa từng biết đến : Thị Nở đâu chỉ là người tình, thị còn là người yêu, hơn thế, còn như là bạn, là mẹ (không phải ngẫu nhiên mà Chí Phèo đón nhận tình cảm và sự săn sóc của thị Nở, phần nào tựa như đón tình mẹ ; thích được làm nũng như với mẹ, đón nhận bát cháo hành như đón hương vị thơm thảo của tình người).
Tiếc rằng, khi giấc mơ ấy sắp thành hiện thực thì cũng là lúc đổ vỡ tất cả, tiêu tan thành mây khói tất cả. Thế là, Nam Cao miêu tả Chí Phèo vỡ lẽ, tuyệt vọng mà làm cho người đọc choáng váng. Và, nhân vật càng tuyệt vọng, người đọc càng choáng váng thì tiếng nói khát khao được sống như một con người càng khắc khoải thiết tha.
Đọc sáng tác của Nam Cao, nhiều khi ta không khỏi sửng sốt, băn khoăn. Việc Nam Cao thường viết rất hay về những bi kịch, những nỗi niềm của nsười trí thức nghèo như Điền, như Hộ, như Thứ,… thực ra, cũng dễ hiểu.
Là một giáo khổ trường tư, một văn sĩ nghèo, bản thân ông từng nếm đủ buồn vui, đau thương và cơ cực của những cảnh, những người trong truyện, thì viết về người trí thức gần như là viết lại những gì ông đã sống.
Nhưng còn việc ông viết về đời sống của đủ hạng nông dân nghèo thì, hẳn là khó khăn hơn và xem ra không được thuận tay, thuận lí cho lắm. Thế mà ông vẫn viết rất hay, và nhiều tác phẩm ông viết về nông dân nghèo cứ như là chuyên của chính đời ông. Khả năng nhập cuộc, nhập vai của ông thật dáng phục và dáng trọng.
Điều đó càng chứng tỏ rằns Nam Cao có một cái nhìn thật tinh nhạy, mẫn cảm, sàu sắc, và một tấm lòng cảm thương hết sức tha thiết, chân thành đối với những khổ đau, khát vọng của con người.
Phân tích tác phẩm Chí Phèo của Nam Cao – Bài làm 3
Trong những năm 40 của thế kỉ, cuộc sống của nhân dân ta rất khó khăn, bị bóc lột khổ cực, hay chính họ là những nô lệ cho tầng lớp quan lại, bí bách không lối thoát. Trước hiện thực ấy, đã có rất nhiều nhà văn đứng lên bênh vực cho lẽ phải, phê phán hiện thực bằng ngòi bút của mình. Trong các tác giả đó, phải kể đến Nam Cao, ông nổi bật với những trang viết khai phá sâu sắc bi kịch của những kiếp người khổ đau trong bóng tối của xã hội. Chí Phèo là một trong những tác phẩm được coi là kiệt tác của ông về tài năng cũng như trong phong cách nghệ thuật.
Truyện ngắn Chí phèo đã được Nam Cao tái hiện lại hình ảnh nông thôn của xã hội Việt Nam lúc bấy giờ (trước Cách mạng tháng Tám). Đó là một xã hội được đặc trưng bởi một bên là bộ mặt của Bá Kiến, Lí Cường, Đội Tảo…là một đội ngũ cường hào, đại chủ thống trị, bóc lột sức lao động của nhân dân, nhưng cũng chính trong nội bộ này cũng có sự mâu thuẫn. Bọn chúng như một đàn cá tranh mồi. Mồi thì ngon mà bè nào cũng muốn ăn, do đó, chúng luôn rình cơ hội để thống trị lẫn nhau, muốn cho nhau lụi bại để cưỡi đầu cưỡi cổ lên nhau. Mâu thuẫn khá phổ biến, gay gắt, có liên quan đến những số phận Binh Chức, Năm Thọ và đặc biệt là Chí Phèo.
Tầng lớp thứ hai là những người như Chí Phèo, Năm Thọ, Binh Chức họ lại hợp thành một nhóm riêng. Họ là những người dân thường, những người lao động nghèo, nhưng đã bị manh hóa, bị mua chuộc và trở thành tay sai cho bọn địa chủ thống trị, những tên cường hào, lí dịch và gây nên không biết bao nhiêu tội vạ cho những người lương thiện. Dưới ngòi bút của Nam Cao, bức tranh xã hội hiện lên đầy kịch tính, chất chứa những xung đột bùng nổ.
Tác giả đã xây dựng hình tượng Chí Phèo là người điển hình cho những người bị tha hóa. Tha hóa tức là biến đổi thành cái khác. Khi con người bị tha hóa thường xấu xa đi so với bản chất lương thiện của họ. Chí Phèo, bị tha hóa ở hai phương diện. Chí Phèo vốn là một người có bản chất hiền lành, là người nông dân lương thiện mà phải sống như một con quỷ dữ ở làng Vũ Đại. Không chỉ thế, những người dân làng Vũ Đại trở nên xa lánh Chí, không chấp nhận cho Chí quay về làm “người”. Thậm chí mọi người còn sợ hãi, đáng thương hơn là khi Chí chết cả làng không ai thương tiếc mà lại vui mừng. Thông qua nhân vật Chí Phèo, Nam Cao đã trực tiếp nêu lên vấn đề con người bị tha hóa, bị vong thân, mất nhân tính, nhân cách vì bị áp bức, bóc lột, đói khổ, cùng cực. tác giả đã mổ xẻ vấn đề trong cuộc sống, ý thức về quyền sống, quyền làm người, ý thức nhân cách, nhân phẩm ngay ở những con người bị cộng đồng khinh bỉ, gạt sang bên lề của xã hội. Nhưng người đọc cũng có thể thấy được, truyện Chí Phèo còn giúp người đọc có cơ sở để chia sẻ những dằn vặt, đau khổ của con người khi không được làm người, chỉ mong ước có được cuộc sống bình thường, tiếng kêu không ai đáp “Ai cho tôi lương thiện” của Chí như thức tỉnh về số phận của mình, nhưng tiếng kêu của anh đã không ai chấp nhận.
Chính sự ý thức được bản thân mình bị tha hóa, muốn quay về làm người lương thiện nhưng không ai chấp nhận hắn, đã dẫn đến bi kịch tiếp nối trong cuộc đời hắn. Chí Phèo tuy đã bị tha hóa từ lâu, nhưng trước khi gặp Nở, hắn sống triền miên trong men rượu và chưa thấy mình khổ, tức là chưa thực sự có bi kịch nội tâm. Cho đến lúc bị ốm, Chí gặp Nở, một người phụ nữ xấu đến “ma chê quỷ hờn” đã giúp hắn thức tỉnh ra được tình trạng tha hóa của mình và bắt đầu diễn ra trong đời sống nội tâm của Chí.
Chí Phèo đã ý thức được kẻ gây ra cuộc đời đau khổ, biến hắn thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại chính là Bá Kiến, nhân vật tiêu biểu cho giai cấp thống trị. Bá Kiến đã được Nam Cao vạch trần bộ mặt xấu xa, tàn ác của hắn. Đây là một tên cáo già cường hào trong “nghề” thống trị dân đen. Trông thì có vẻ cao sang, ăn nói hiểu đời, hiểu người, giúp đỡ những người khó khăn trong lúc hoạn nạn. Nhưng chính hắn lại đẩy những người tốt như Chí đến con đường tội ác, bản chất của hắn thật ghê tởm. Vì thế, Chí đã đến để đòi lại công bằng với Bá Kiến trong những cơn say, nhưng lại là lúc tỉnh nhất trong đời của Chí. Nhưng vì quá nhỏ bé trước thế lực thống trị độc ác nên khiến Chí đau khổ lại nối tiếp đau khổ.
Đau khổ tột cùng hơn khi Chí muốn có một gia đình với Thị Nở. Mấy ngày ở với Thị Nở hắn mới biết đến cái cảm giác ấm áp của gia đình, biết vui, biết buồn, biết mơ ước, biết ăn năn…Như vậy, Chí không phải là người máu lạnh. Nhưng vốn là người “dở hơi” không có lập trường nên Thị Nở cũng đã cự tuyệt Chí. Và con đường cuối cùng của hắn là đến tìm giết Bá Kiến sau đó tự sát. Một cái kết đau thương cho những con người không lối thoát trong cuộc sống.
Kết thúc câu chuyện, không chỉ dừng ở đấy, tuy Bá Kiến chết nhưng vẫn còn con cái, các thế lực cường hào lại tiếp tục bóc lột dân đen, còn Thị nhìn xuống cái bụng của mình và cái lò gạch bỏ hoang. Người dân hiểu rằng “Tre già măng mọc”. Và như vậy, cái chết của Chí và Bá Kiến tố cáo lên thực cảnh xã hội nhưng chưa giải quyết được thực cảnh ấy.
Nam Cao là người có sự thông cảm, sẻ chia sâu sắc với nông dân mới hiểu được và khắc họa lên bức tranh xã hội như vậy. Tác giả đã xây dựng thành công nhân vật Chí Phèo không chỉ là người đại diện cho tầng lớp bị tha hóa, mà đó còn là tiếng kêu cứu thiết tha của những con người bất hạnh. Hãy bảo vệ và đấu tranh để bảo vệ quyền lợi, quyền sống, quyền làm người của họ. Qua đây, ta có thể thấy được giá trị nhân đạo sâu sắc được thể hiện trong truyện ngắn Chí Phèo.
Phân tích truyện ngắn Chí Phèo của Nam Cao – Bài làm 4
Chỉ là truyện ngắn, lại là truyện ngắn sáng tác sớm của Nam Cao về đề tài nông dân, nhưng Chí Phèo thật sự tổng hợp sự kết tinh của ngòi bút Nam Cao về đề tài này. Nếu như Nam Cao có thể được coi là "nhà văn của nông dân" – cùng với Ngô Tất Tố – thì trước hết vì công có Chí Phèo.
Khác với nhiều truyện ngắn cùng đề tài của tác giả, Chí Phèo có phạm vi hiện thực phản ánh trải ra cả bề rộng không gian (một làng quê) và cả bề dài thời gian. Có thể nói, làng Vũ Đại trong truyện chính là hình ảnh thu nhỏ của xã hội nông thôn Việt Nam đương thời.
Những năm 1940 – 1945, nông thôn vẫn là đề tài lớn trong văn xuôi khu vực hợp pháp. Các nhà văn đã đi vào đề tài này theo nhiều hướng khác nhau. Trước hết là đi vào phong tục tập quán dân quê. Trần Tiêu, Tô Hoài, Bùi Hiển, Kim Lân…đếu có thể coi là những cây bút tiêu thuyết phong tục sắc sảo của các vùng quê của họ. Một hướng khác đi vào khảo sát lục đục giữa vợ cả và vợ lẽ, mẹ chồng và nàng dâu, dì ghẻ và con chồng, anh và em, chú bác cô cậu và những đứa cháu bên nội bên ngoại…cũng có thể coi đây là một dạng của đời sống thôn quê. Tiêu biểu là Thanh Tịnh "muốn làm người mục đồng ngồi giữa bóng tre thổi sáo để ca hát những đám mây và những làn gió lướt bay trên cánh đồng…" (Lời Thạch Lam trong bài tựa tập Quê mẹ). Không còn có thể nói hồ đồ rằng, những khuynh hướng đó là "lãng mạn tiêu cực" hoặc "tự nhiên chủ nghĩa"…Khuynh hướng nào kể trên cũng có những sáng tác đặc sắc có giá trị về nghệ thuật và về tư tưởng của những nhà văn thật sự tài năng mà lịch sử văn học không thể bỏ qua. Song dù vậy, vẫn phải thừa nhận rằng, các hướng tiếp cận thực tại đó đã hạn chế nhiều tầm khái quát xã hội của các nhà văn. Các cây bút tả chân xã hội thời kỳ này rất quan tâm viết nhiều về nông thôn, song trào lưu văn học hiện thực từ năm 1940 đến 1945, dù có những mặt đặc sắc, tiến bộ so với trước, vẫn có những mặt yếu đi trông thấy, "phạm vi của đề tài bị thu hẹp lại rõ rệt, không có những bức tranh xã hội rộng lớn với xung đột giai cấp quyết liệt như ở Giông tố, Bước đường cùng…của thời Mặt trận dân chủ."
Chí Phèo của Nam Cao không thuộc các hướng viết đó. Trên bối cảnh chung của văn học hiện thực thời kỳ 1940 – 1945 như vậy, Chí Phèo là một hiện tượng đột xuất. Giống như Tắt đèn, Bước đường cùng, Giống tố…thời Mặt trận dân chủ, Chí Phèo cũng là "bức tranh xã hội rộng lớn với những xung đột giai cấp quyết liệt". Tác phẩm gây ấn tượng đậm nét về tính đầy đặn, đa dạng, nhiều màu sắc của bức tranh về đời sống xã hội nông thôn. Đó là ấn tượng về hệ thống tôn ti, trật tự, ngôi thứ rõ ràng của làng Vũ Đại. Trên cùng là "cụ tiên chỉ" bá Kiến, rồi đến lớp "đàn anh" và bọn cường hào; bên dưới là hạng "đàn em" dân đinh cổ cày vai bừa, trong số này, có hạng cùng hơn cả dân cùng…Đó là ấn tượng về tình trạng khép kín của làng xã phong kiến thời xưa. Song nếu tác phẩm thực sự là bức tranh xã hội thì trước hết nó đã phơi bày sáng tỏ các mối quan hệ phức tạp của hiện thực, đã "miêu tả trung thực những quan hệ thực". Ngòi bút phân tích xã hội khi vạch ra mối "quan hệ thực" trong nội bộ bọn cường hào. chẳng phải vì đất làng Vũ Đại có cái thế "quần ngư tranh thực" như lời ông thầy địa lý nào đó nói "hồi năm nọ" nên bọn cường hào làng này chia thành năm bè bảy cánh đối nghịch nhau, mà chính là do bọn "chúng chỉ là một đàn cá tranh mồi, mồi ngon đấy, nhưng mà năm bè bảy mối, bè nào cũng muốn ăn. Ngoài mặt thì tử tế với nhau nhưng trong bụng lúc nào cũng muốn cho nhau lụn bại để cưỡi lên đầu lên cổ." Tình trạng bè cánh tranh ăn trong bọn cường hào rất là phổ biến và có tính quy luật ở nông thôn, có ảnh hưởng sâu sắc tới nhiều mặt đời sống xã hội, trước hết là tới số phận người nông dân nghèo – những ruồi muỗi chết oan uổng khi trâu bò húc nhau. Tình trạng này cũng đã được Nguyễn Công Hoan phản ánh tỉ mỉ trong cuốn tiểu thuyết dày dặn Cái thủ lợn (1939).
Cũng chính là trực tiếp kế thừa và phát huy mạch cảm hứng đó của văn học hiện thực thời kỳ Mặt trận dân chủ, Chí Phèo của Nam Cao đã xây dựng một hình tượng điển hình được khắc họa hoàn chỉnh về các lực lượng thống trị. Những bà phó Thụ, lão Cựu Túy, bà Chánh Liễu, lão Hải Nam…chỉ là những nhân vật thấp thoáng ở hậu cảnh mà thôi.
Chân dung lão cường hào cáo già bá Kiến dần dần hiện rõ trong tác phẩm với những nét tính cách được thể hiện hết sức sinh động, đầy ấn tượng. Đó là giọng quát rất sang (bắt đầu bao giờ cụ cũng quát để thử dây thần kinh con người), lối nói ngọt nhạt, và nhất là cái cười Tào Tháo (cụ vẫn tự phụ hơn đời cái cười Tào Tháo ấy). Tất cả đều cho thấy bản chất gian hùng của lão cường hào khôn róc đời này. Nam Cao cũng hé cho thấy tư cách nhem nhuốc của cụ tiên chỉ: đó là thói ghen tuông thảm hại của lão cường hào háo sắc mà sợ vợ – lão cay đắng nhận ra mình già yếu quá mà bà tư thì cứ trẻ, cứ phây phây, nhìn thì thích nhưng mà tưng tức lạ…khác gì nhai miếng thịt bò lựt sựt khi rụng gần hết răng; đó là chuyện lão gỡ gạc tồi tệ đối với người vợ lính vắng chồng…và bổ sung vào đó, để cho sự thối nát của nhà cụ bá được hoàn chỉnh, còn có bà tư quỷ cái thường gọi canh điền lên bóp chân mà lại cứ bóp lên trên, trên nữa…Nhà văn chỉ kể qua, nhẹ nhàng tuy không kém phần thâm thúy, chứ không sa đà trong việc soi mói đời tư thối tha của lão cường hào.
Ông tập trung ngòi bút vào việc soi sáng bản chất xã hội của nhân vật, chủ yếu thể hiện trong mối quan hệ với người nông dân bị áp bức. Đoạn độc thoại nội tâm rất mực sinh động của cụ tiên chỉ làng Vũ Đại về cái nghề tổng lý cho thấy Nam Cao chẳng những soi thấu tim đen của nhân vật mà còn tỏ ra hiểu sâu sắc các mối quan hệ xã hội ở nông thôn. Bá Kiến đang lặng lẽ nghiền ngẫm về nghề thống trị, rút ra từ bốn đời tổng lý những phương châm, thủ đoạn thống trị khôn ngoan: mềm nắn, rắn buông, bám thằng có tóc ai bám thằng trọc đầu, thứ nhất sợ kẻ anh hùng, thứ hai sợ kẻ cố cùng liều thân, chỉ bóp đến nửa chừng, hãy ngấm ngầm đẩy người ta xuống sông nhưng rồi lại dắt nó lên để nó đền ơn. Còn đây là những sách lược dùng người của lão: Không có những thằng đầu bò, thì lấy ai cai trị những thằng đầu bò, thu dụng những thằng bạt mạng không sợ chết và không sợ đi tù, những thằng ấy chính là những thằng được việc. Khi cần đến chỉ cho nó dăm ba đồng uống rượu thì có thể sai nó đến hại bất cứ anh nào không nghe mình. Có chúng nó sinh chuyện thì mình mới có dịp mà ăn. Tất cả đều nhằm sao cho vừa bóp nặn được nhiều nhất, vừa giữa chắc cái ghế thống trị. Tâm địa thâm độc tới mức ghê sợ của lão còn thể hiện trong việc hắn nhẹ nhàng "khích" Chí Phèo đòi nợ đội Tảo, đẩy những kẻ sẵn sàng đâm chém ấy vào chỗ chém nhau, để kẻ nào chết cũng có lợi cho cụ cả! thật là một con hề biết cười.
Thế giới nhân vật nông dân Nam Cao tuy không đông đúc gì lắm nhưng thật phức tạp, sống động, nên không phải không làm cho người nghiên cứu lúng túng khi phân loại. Song dù vậy, nhìn trên đại thể, có thể thấy Nam Cao đặc biệt quan tâm tới hai hạng người (cũng là hai phương diện trong nỗi khổ không cùng của người nông dân): một là những người thấp cổ bé họng nhất, bị ức hiếp bất công nhất, càng "ở hiền" thì lại càng "không gặp lành"; hai là những người bị hắt hủi, bị xúc phạm về nhân phẩm, bị lăng nhục một cách bất công, độc ác. Chí Phèo đích thực là nhân vật của Nam Cao: vừa là một thằng cùng hơn cả dân cùng, vốn hiền như đất – tội nghiệp cho hắn. có lần thấy hắn vừa bóp đùi cho bà ba vừa run run, nhưng càng thêm hiền lành thì càng bị đạp giúi xuống…đồng thời vừa là một trường hợp con người bị miệt thị phũ phàng, bị gạt ra ngoài hệ thống giá trị của cộng đồng. Từ khi đi tù về, Chí Phèo không thể sống như trước và hắn không còn được gọi là con người nữa.
Vạch khổ cho người nông dân bị áp bức bóc lột, Nam Cao không đi vào nạn sưu thuế, nạn chiếm đoạt ruộng đất, nạn tô tức, quan lại tham nhũng, thiên tai địch họa…mà ở Chí Phèo – và ở nhiều chuyện khác nữa – nhà văn đi vào một phương diện khác: người nông dân bị xã hội tàn phá về tâm hồn, hủy diệt nhân tính, do đó, bị phủ nhận giá trị, tư cách làm người. Nỗi thống khổ ghê gớm của Chí Phèo không phải ở chỗ tất cả cuộc đời người nông dân cố cùng này chỉ là một số không, không nhà cửa, không cha mẹ, không họ hàng thân thích không tấc đất cắm dùi, cả đời không hề biết đến một bàn tay cham sóc đàn bà nếu không gặp thị Nở…, mà chính là ở chỗ anh đã bị xã hội rạch nát cả bộ mặt người, cướp đi linh hồn đau đớn, tuyệt vọng. Không, tiếng chửi của Chí Phèo không hẳn là bâng quơ, hắn từ chửi trời đến chửi đất rồi chửi ngay cả làng Vũ Đại…và hắn bỗng tức tối khi không ai lên tiếng cả…Trong cơn say, hắn vẫn cảm thấy tuy mơ hồ mà thấm thía "nông nỗi" khốn khổ của thân phận. Đó là "nông nỗi" không có người nào chịu chửi lại hắn! Có nghĩa là tất cả mọi người đã dứt khoát không coi hắn là người. Chửi lại hắn nghĩa là còn bằng lòng giao tiếp, đối thoại với hắn. Chỉ Phèo chửi cả làng…với hy vọng được người nào đó c