Phân tích nghệ thuật châm biếm sắc sảo của Vũ Trọng Phụng qua đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia – Bài tập làm văn số 4 lớp 11
Phân tích nghệ thuật châm biếm sắc sảo của Vũ Trọng Phụng qua đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia – Bài tập làm văn số 4 lớp 11 4.67 (93.33%) 3 đánh giá Xem nhanh nội dung1 Phân tích nghệ thuật châm biếm sắc sảo của Vũ Trọng Phụng qua đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia – Bài làm 1 ...
Phân tích nghệ thuật châm biếm sắc sảo của Vũ Trọng Phụng qua đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia – Bài tập làm văn số 4 lớp 11 4.67 (93.33%) 3 đánh giá Xem nhanh nội dung1 Phân tích nghệ thuật châm biếm sắc sảo của Vũ Trọng Phụng qua đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia – Bài làm 1 2 Phân tích nghệ thuật châm biếm sắc sảo của Vũ Trọng Phụng qua đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia – Bài làm 2 3 Phân tích nghệ thuật châm biếm sắc sảo của Vũ Trọng Phụng qua đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia – Bài làm 3 4 Phân tích nghệ thuật châm biếm sắc sảo của Vũ Trọng Phụng qua đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia – Dàn ý Phân tích nghệ thuật châm biếm sắc sảo của Vũ Trọng Phụng qua đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia – Bài làm 1 Số đỏ là cuốn tiểu thuyết trào phúng được viết theo khuynh hướng hiện thực chủ nghĩa. Tác phẩm đã phát huy cao độ tài năng châm biếm, đả kích sắc sảo của Vũ Trọng Phụng. Khối căm ghét của ông đối với xã hội thối nát không còn là một lời chửi rủa tuyệt vọng nữa mà nổ ra thành một trận cười sảng khoái, có sức công phá mạnh mẽ tung vào giữa những cái lố bịch, kệch cỡm của xã hội đương thời. Dưới ngòi bút kì tài của Vũ Trọng Phụng, chương nào, đoạn nào cũng thú vị, hấp dẫn như một màn hài kịch trọn vẹn. Đặc biệt nhất là chương Hạnh phúc của một tang gia. Ý nghĩa châm biếm gửi cả trong cái tên của chương truyện. Một gia đình có tang, thậm chí đại tang ắt phải tiếc thương, sầu não đến bực nào, ấy vậy mà lại hạnh phúc?! Mới nghe có vẻ ngược đời nhưng suy ngẫm kĩ trong hoàn cảnh cụ thể của gia đình này thì điều ấy lại chận thực, hợp lí. Ở đám tang cụ Tổ, ai cũng vui như tết con cháu, cháu chắt, họ hàng thân thích, người quen biết.,, cũng thấy đây là một dịp may hiếm cổ để mình thỏa mãn một nguyện vọng, hay một ý đồ nào đó. Vũ Trọng Phụng vạch rõ chân tướng nhố nhăng, lố bịch của những hạng người mang danh là thượng lựu, quý phái, văn minh tân tiến nhưng thực chất là những cặn bã, quái thai của cái xã hội dở Tây dở ta buổi ấy. Trong chương này, tác giả đã xây dựng thành công một tình huống điển hình để bộc lộ những tính cách đặc sắc. Trước hết phải nói đến thái độ của những kẻ có quan hệ ruột rà với cụ Tổ. Cái chết của cụ chẳng làm cho đứa con, dứa cháu nào tiếc thương bởi đã từ lâu, họ mong cụ chết cho nhanh để chia gia tài. Ngược lại, cái chết của cụ đã đem đến cho họ một niềm vui to lớn không che giấu nổi – một hạnh phúc: Cái chết đã làm cho nhiều người sung sướng lắm. Bọn con cháu vô tâm cũng vui sướng thỏa thích… Người ta tưng bừng vui vẻ đi đưa giấy cáo phổ, gọi phường kèn, thuê xe đám tang… Tang gia ai cũng vui vẻ cả… Cậu Tú Tân, cháu nội cụ Tổ rất hào hứng, phấn khởi vì cậu có dịp trổ tài và sử dụng mấy cái máy ảnh mà mãi cậu không được dùng đến. Vợ Vãn Minh (cháu dâu) mừng rỡ vì sẽ dược mặc đồ xô gai tân thời và đội cái mũ mẩn trắng viền đen… để quáng cáo cho một kiểu đồ tang mới lạ. Còn người con trai của cụ Tổ sung sướng vì một lý do khác lớn hơn. Cụ Cố Hồng mơ màng đến cái lúc cụ mặc đồ xô gai, lụ khụ chống gậy, vừa ho khạc vừa khóc mếu để cho thiên hạ bình phẩm, ngợi khen úi kìa, con giai nhớn đã già đến thế kìa kìa. Văn Minh (cháu nội), đã từng du học tận bên Tây bao năm, về nước không có nổi một mảnh bằng, chỉ nhăm nhăm nghĩ tới chuyện chia gia tài thì thích thú ra mặt vì cái chúc thư kia đã vào thời kì thực hành chứ không còn là lý thuyết viển vông nữa. Riêng người cháu rể (Phán mọc sừng) thì khấp khởi, sướng rơn trong bụng vì đã được bố vợ nói nhỏ vào tai rằng sẽ chia thêm một sổ tiền vài trăm nghìn đồng. Chính ông không ngờ ràng giá trị đôi sừng hươu vô hình trên đầu ông ta mà lại to đến thế! Không khí của đám ma là không khí của một ngày hội. Đây cũng chính là mâu thuẫn trào phúng gây cười ra nước mắt, xuyên suốt hoạt cảnh này. Đám ma rất to, to chưa từng thấy ở đất Hà Thành xưa nay. Có đủ cả kiệu bát cống, lợn quay… đi lọng, vài ba trăm câu đối, bức trướng, vòng hoa phúng điếu, vài trăm người đi đưa nghiêm nghị thành kính đi sát ngay sau linh cữu cụ Tổ trong đủ thứ tiếng kèn huyên náo kèn Ta, kèn Tây, kèn Tàu, có cả âm thanh chói tại, rộn rã của lốc bốc xoảng và bu-xích… Đám ma trở thành dịp may hiếm có để trưng bày và quảng cáo các mốt quần áo Âu hóa mới nhất của tiệm may vợ chồng Văn Minh – sản phẩm độc đáo của nhà thiết kế mĩ thuật Typhono. Đó là cô Tuyết với bộ y phục ngây thơ khá hở hàng với nét mặt cố tạo một vẻ buồn lãng mạn, rất đúng mốt một nhà đám, khiến cho bao nhiêu vị khách đàn ông khi trông thấy làn da trắng thập thò trong làn ảo voan trên cánh tay và ngực Tuyết phải xúc động còn hơn nghe tiếng kèn đám ma. Đó là bộ đồ tang đã được cách tân của vợ Văn Minh làm cho mọi người phải xuýt xoa, trầm trồ… Ngoài những thân nhân của người quá cố phải nói đến dám bạn bè, quan khách của tang chủ, những kẻ đi đưa đám không phải để chia buồn mà cố khoe các thứ huy chương, mề đay đeo đầy ngực và các kiểu râu ria tân thời nhất. Hoặc là đám phụ nữ quí phái, đám giai thanh gái lịch đang đeo đuổi, học đòi phong trào Âu hóa, vừa, đi đưa ma vừa cười tình với nhau, bình phẩm nhau, chê bai nhau, hẹn hò nhau… Và mỉa mai thay, họ làm tất cả những điều đó bàng vẻ mặt buồn rầu của những người đi đưa ma .Điều đó chứng tỏ họ hoàn toàn dửng dưng với người chết, tất cả đều thản nhiên, vui vẻ và dối trá. Người dân hai bên đường đổ xô ra xem đám ma như xem một sự lạ. Đám ma to đến nỗi những người trong tang gia cảm thấy hết sức sung sướng và hàng phố nhốn nháo cả lên khen đám ma to. Nhà văn. lạnh lùng bình luận: Đám ma to tát có thể làm cho người chết nằm trong quan tài củng phải mỉm cười sung sướng, nếu không gật gù cái đầu. Thật là mỉa mai, chua chát! Đắng sau cái phô trương, cố làm ra vẻ long trọng, danh giá ấy là sự rởm đời đến mức lố lăng, là thói háo danh vô lí, của bọn người giàu sang, hãnh tiến và vượt lên tất cả là thói đạo đức giả, tự lí(a mình và lừa người mà xã hội thời ấy mặc nhiên công nhận. Song song với việc mô tả hình thức đám ma với đủ các nghi thức trọng thể, Vũ Trọng Phụng không quên đi sâu thể hiện, phanh phui mặt trái của nó. Ngòi bút sắc sảo của nhà văn trưng lên liên tiếp những bức biếm họa trước mắt người đọc, để rồi giúp người đọc nhận ra rằng cái đám ma to tát ấy chỉ thiếu một cái duy nhất mà cũng quan trọng nhất của đám ma – đó là tình người. Thiếu lòng thương tiếc chân thành đối với người đã khuất thì tất cả những hình thức lòe loẹt, om sòm kia đều trở thành vô nghĩa, thành trò cười cho thiên hạ. Những kẻ có mặt trong đám ma giông nhau ở chỗ đều giả dối và vô đạo đức. Xuân Tóc Đỏ xuất hiện, đẩy sự lố lăng, dị hợm của đám ma cụ Tố lên tới đỉnh cao. Hắn chọn đúng lúc để có mặt, trước sự chú ý của mây trăm con người và gây ân tượng mạnh với hai vòng hoa đồ sộ, sáu chiếc xe kéo sang trọng và một đám sư, cùng loại sư của báo gõ mõ. Điều này khiến cho cụ Phán bà càng thêm sung sướng: giá không có món ấy thì là thiếu chưa được to, may mà ông Xuân đã nghĩ hộ tôi, và cô Tuyết người yêu của hắn cũng phải cảm động mà liếc mắt đưa tình với hắn. Mấy chi tiết đặc tả cảnh hạ huyệt càng mỉa mai, trào phúng. Nó được dàn dựng như một vở kịch mà bàn tay đạo diễn quá ư lộ liễu, trắng trợn. Cậu Tú Tân bắt từng người phải chông gậy, gục đầu, cong lưng, lau mắt… để cậu chụp ảnh, trong khi bạn hữu của cậu rầm rộ nhảy lên những ngôi mả mà chụp để cho ảnh khỏi giống nhau. Chất bi hài của cảnh khiến người đọc cười ra nước mắt. Chỉ có một tiếng khóc lớn nhất bật lên là của ông Phán mọc sừng. Ông oặt người đi, khóc mãi không thôi và tiếng khóc của ông thật đặc biệt: Hứt! Hứt! Hứt!… Ông thương cho người đã khuất chăng? Không phải! Ông đang đóng kịch trước mặt mọi người. Thực ra ông ta rất mừng vì cụ Tổ chết và ông được chia phần khá nhiều, kể cả cái giá của bộ sừng mà vợ ông đã cắm lên đầu ông. Miệng khóc, tay ông dúi nhanh vào tay Xuân Tóc Đỏ tờ bạc năm đồng gấp làm tư để trả công hắn đã gọi ông là Phán mọc sừng trước người nhà vợ. Và cũng nhờ đó mà ông có thêm được món tiền lớn. Qua chương Hạnh phúc của một tang gia, Vũ Trọng Phụng bộc lộ xuất sắc tài kể chuyện của mình. Bút pháp của Vũ Trọng Phụng giỏi ở chỗ phóng đại mà như không phóng đại, làm cho mọi việc đều như thật và hơn thật. Ồng chú ý đến các mâu thuẫn giữa hiện tượng và bản chất, khai thác triệt để nhằm gây nên những tràng cười có ý nghĩa phê phán sâu sắc. Cảnh đám ma hiện ra như một màn hài kịch sinh động hay như một bức biếm họa khổng lồ và chi tiết về cái xã hội tự cho là thượng lưu, sang trọng ở Hà Nội thời đó đang phơi bày tất cả cái bản chất lố lăng và đồi bại của nó. Phân tích nghệ thuật châm biếm sắc sảo của Vũ Trọng Phụng qua đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia – Bài làm 2 Vũ Trọng Phụng là nhà văn xuất sắc của nền văn học Việt Nam, ông có rất nhiều những tác phẩm hay, trong đó tác phẩm Hạnh phúc của một tác gia đã để lại cho người đọc nhiều cảm xúc bởi nghệ thuật châm biếm sắc sảo của tác giả. Hạnh phúc của một tang gia là tác phẩm để lại cho người đọc nhiều suy nghĩ về một lối sống đang bị tha hóa, những con người lố bịch, tham lam, tác phẩm là sự thể hiện sâu sắc của tác giả về nghệ thuật châm biếm, ở đây tác giả đã xây dựng rất nhiều những tình huống nhằm tố cáo, và phê phán những thành phần trong xã hội. Trong câu chuyện tác giả đã xây dựng nên tính cách của nhân vật. Mỗi nhân vật mang một tính cách riêng, nhưng họ đều thể hiện tư tưởng chủ đề của tác phẩm. Tác phẩm này sáng tác ra nhằm tố cáo, và phê phán những con người có một lối suy nghĩ và hành động lai căng, họ làm lai tạp và làm mất đi bản sắc văn hóa của dân tộc. Trong tác phẩm tác giả sử dụng nghệ thuật châm biếm và trào phúng ngay trong chính ở nhan đề, tang gia đây là một sự việc đau buồn, nhưng tác giả lại sử dụng chúng với một cái tên đó là hạnh phúc, quả thật đây là những điều trái với tự nhiên, có sự mất mát, nhưng lại hạnh phúc, đây không chỉ là dụng ý của tác giả về chính tác phẩm mà nó thể hiện một tinh thần mới mẻ trong phong cách nghệ thuật của ông. Tiếp theo đến việc xây dựng lên hệ thống các nhân vật, từ những nhân vật gần gũi và có mối quan hệ gần gũi nhất với cụ cố Hồng, đó là con cái của cụ, cô tuyết, … tất cả các nhân vật này đều thể hiện những hành động rất ngược lại với lẽ tự nhiên. Họ coi như đây là cơ hội để họ thể hiện những điều mà bấy lâu nay họ muốn đối với thiên hạ. Và một nhân vật nữa, đó chính là Xuân tóc đỏ, đây là nhân vật gián tiếp làm ra cái chết của cụ, nhưng gia đình, người thân của cụ lại vô cùng hạnh phúc trước sự ra đi của cụ, bởi khi cụ mất đi mọi người sẽ được chia tài sản, họ có cơ hội được diện những trang phục, lai căng… Tất cả mọi người đều diễn những trò lố bịch, nhưng đằng sau họ lại vô cùng vui mừng, họ tổ chức lễ viếng một cách linh đình, náo nhiệt, cả một thế hệ đang bị sa đọa trước đạo đức của các thành viên trong gia đình, chính người con trai của cụ đáng nhẽ, phải là người lo liệu trách nhiệm tổ chức ma chay, cũng hỏi, nhưng lại say sưa trước những làn khói mơ màng, ông thật là một người đáng phê phán sâu sắc. Tất cả họ đều vui mừng khi được chia tài sản ông Văn Minh dùng tiền để bịt miệng Xuân tóc đỏ vì hành động gián tiếp gây nên cái chết của cụ, tất cả mọi người đều diễn những trò đáng thương, khóc lóc trước sự ra đi của cụ, đây được xem như là một vở kịch đáng phê phán. Cô tuyết cô cháu gái của cụ, thì mặc những bộ quần áo, ngây thơ, hở hang, đến lễ tang của cụ, tỏ ra thương tiếc trước cái chết của ông mình, nhưng thực chất cô muốn giữ lại cái trong sáng, về chữ trinh, tỏ ra ngây thơ để thể hiện chữ trinh một nửa của mình, đây đều là những trò lố bịch đáng bị phê phán một cách sâu sắc. Với tài năng của mình Vũ Trọng Phụng đã dùng biện pháp châm biếm để phê phán những con người không có đạo đức, họ dùng những lối suy tư và diễn trò trước thiên hạ, nhưng rồi họ vẫn bị phê phán và thể hiện một thái độ sâu sắc trước những con người không có nhân tính. Tiếp theo đến nhân vật ông con rể của cụ cố Hồng, đó là ông Phán mọc sừng, ông đã diễn những trò tỏ ra thương tiếc, mặc cái trang phục với những sự xót thương, nhưng đó thực sự lại là một sự lố bịch lớn, trang phục đó là cái khăn trắng to tướng, áo thụng,…ông khóc mãi không thôi, tất cả chỉ đang diễn trò trước thiên hạ để cho họ biết ông đau đớn đến mức nào. Mỗi nhân vật đều mang trong mình những bộ mặt, họ diễn trò cho thiên hạ để thể hiện một tình cảm đặc biệt xót thương trước người ra đi, nhưng chúng ta có thể bắt gặp sự tài hoa của tác giả ngay trong nhan đề, và chính nhan đề đến cách xây dựng nhân vật đã đủ để cho người đọc có thể bao quát được một xã hội trước cách mạng tháng tám, con người bị lai căng, tha hóa, ở đây con người đang sống trong những lối sống đáng phê phán, hạnh phúc của một tang gia đã thể hiện mạnh mẽ được thái độ của tác giả trước những hành động của các nhân vật. Đám tang được xem như là một cơ hội duy nhất để họ có thể tỏa sáng chính mình với những trò diễn xuất, nơi đây còn là nơi để họ trưng bày và khoa những đồ đạc đắt tiền, những bộ trang phục, mốt của thời đại, một đám tang với sự pha tạp của rất nhiều những nghi lễ, nó là sự kết hợp giữa các yếu tố lai căng, tạo nên những tiếng cười nhưng nó mang một nghệ thuật trào phúng và sự phê phán sâu sắc. Không gian của đám tang cũng diễn ra với sự đông đúc của rất nhiều tham gia, họ được thể hiện mình, qua trang phục, cử chỉ,… Vũ Trọng Phụng là một nhà văn xuất sắc ông đã phê phán những lối sống lai căng, tục tĩu, và giả dối, ở đây họ là những con người không có văn hóa, họ coi như đám tang là nơi để họ thể hiện mình, tác giả đã mang tư tưởng và thái độ của mình thể hiện trong từng chi tiết trong tác phẩm, đó là điều kiện để tác phẩm đến với người đọc, và đây là một sự tinh tế, và tài hoa của ông. Nghệ thuật châm biếm của tác phẩm được thể hiện rất sâu sắc, nó nhằm tố cáo một thành phần lai căng, lố bịch trong xã hội. Tác phẩm để lại cho người đọc nhiều tiếng cười, nhưng cũng mang sự tố cáo sâu sắc xã hội phong kiến đương thời. Phân tích nghệ thuật châm biếm sắc sảo của Vũ Trọng Phụng qua đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia – Bài làm 3 Xuất hiện trên văn đàn chỉ chừng bảy, tám năm song Vũ Trọng Phụng đã đóng góp một phần rất to lớn cho văn học Việt Nam. Tác phẩm Số đỏ của ông được coi là tác phẩm xuất sắc nhất trong dòng văn học hiện thực phê phán, được Nguyễn Khải đáng giá là tác phẩm độc nhất vô nhị, có thể làm vinh dự cho mọi nền văn học. Nếu số đỏ là một vỡ đại hài kịch trong đó Vũ Trọng Phụng muốn ném cái nhìn khinh bạc, giễu cợt cái xã hội lố lăng, rớm đời, coi đồng tiền hơn hết thảy, mọi giá trị đạo đức đều bị lưu mờ thì từng chương truyện lại là một trích đoạn kịch nói rõ hơn, bổ sung thêm thái độ của nhà văn. Đặc biệt trong chương XV, trích đoạn Hạnh phúc của một tang gia đã phần nào cho ta thấy nghệ thuật trào phúng bậc thầy của ông. Có thể thấy ngay rằng, tiếng cười trao phúng bật ngay từ nhan đề chương trích đoạn Hạnh phúc của một tang gia. Tang gia là gia đình có người mất, đó phải là một tổn thất lớn trong gia đình ấy. Còn hạnh phúc là niềm sung sướng, vui sướng tột cùng, tột độ khi mong ước bao lâu nay thành hiện thực. Ngay từ nhan đề, ta và tác giả hoàn toàn ngạc nhiên với gia đình ấy, nhà có tang mà ai ai cũng đều vui vẻ cả, thỏa mãn với điều đó. Vũ Trọng Phụng đã rất cẩn thận khi lựa chọn từng chi tiết trào phúng. Nào là con cụ tổ là cụ cố Hồng không hề buồn bã, tiếc thương cho cụ mà đang mơ màng nghĩ đến cảnh lụ khujb mặc đồ xô gai, chống gậy, ho khạc khiến mọi người đến đưa đám phải xì xào "Uí kìa, con giai nhớn đã già đến thế kia kìa", tức là gia đinh này chắc hẳn phải có phúc lắm. Rồi đến con dâu bà cố Hồng thì sung sương khi nghĩ rằng đám ma này là đám ma to nhất Hà Thành. Nhà văn đưa người đọc đi từ bất ngờ này đến bất ngờ khác, từ vui vẻ, mãn nguyện lan truyền từ con đến cháu, đến mọi người trong gia đình. Vợ chồng Văn Minh thì hạnh phúc vì có dịp lăng xê những bộ trang phục mới nhất. Ông Typn có cơ hội xin ý kiến mọi người đánh giá về trang phục của mình như thế nào. Cậu cháu đang mong muốn chờ đến ngày đưa đám để cậu có dịp sử dụng đến cái mái ảnh đã chuẩn bị sẵn từ lâu. CÔ Tuyết có dịp trình diện kiểu mẫu với trang phục "Ngây thơ" khẳng định với mọi người rằng mnhf mới mất một nửa chữ trinh. Từ khi cụ tổ mất, thằng Xuân Tóc Đỏ – ông đốc tờ Xuân trở thành một người quan trọng "thiếu nó là thiếu tất cả". Còn ông Phán thì quên đi nỗi nhục mọc sừng mà tính ngay với Xuân một cuộc doanh thương. Tất cả các thành viên trong gia đình đều tất bật chuẩn bị chu đáo nhưng đó là sự tất bật của một lũ con cháu đại bất hiếu của gia đình đại vô phúc, chuẩn bị cho một đám rước chứ không phải một đám ma. Với nghệ thuật trào phúng đặc sắc của nhà văn, người đọc có thể phần nào cảm nhận được những lố lăng đồi bại của gia đình cụ tổ nói riêng và cái xã hội ngày trước nói chung. Ngôn ngữ và giọng điệu tác giả sử dụng hết sức biến hóa, chuyển giọng liên tục, đưa người đọc đến hết bất ngờ này đến bất ngờ khác. Phải nói rằng tiếng cười trào phúng của Vũ Trọng Phụng hết sức độc đáo, nó là tiếng cười đa thanh đa giọng. Nào là đám ma đi đến đâu mọi người cũng phải đỗ ra xem, đám ma này hết sức hổ lốn, kèn ta, kèn Tây, kèn Tàu lẫn lộn, có kiệu bát cống… Đám ma to thật to, to lớn đến nổi người năm trong quan tài cũng phải sung sướng nếu không gật gù cái đầu. Nhưng cụ tổ sẽ rất đau buồn nếu như biết rằng đám ma to thật đấy nhưng không ai trong gia đình, con cái họ hàng thân thích lại nghĩ đến cụ, thương xót cho cụ. Tất cả những chi tiết, tình huống trào phúng đều được Vũ Trọng Phụng thu gọn trong ống kính phóng sự của mình. Với biệt tài châm biếm sắc sảo, đẩy đối tượng phung trào lên mức không tưởng tượng được, nhà văn đã cho ta thấy, tất cả xã hội ấy đều quay cuồng trong cơn lốc âu hóa, một bức tranh xã hội hiện thực đen tối. Đồng tiền chi phối, hủy hoại hết mọi tình cảm thiêng liêng của con người. Ông Phán mọc sừng vui sướng cảm ơn thằng Xuân Tóc Đỏ chỉ vì câu nói "Thưa ngài, ngài là một ông chồng mọc sừng" đã làm cho cụ tổ chết, ngã lăn ra, thỏa ước nguyện lâu nay của mọi người vì từ nay cái chúc thư kia đã đi vào thời kỳ thực hành không còn là lý thuyết suông nữa. Cũng chính vì vậy mà ông Phán và vợ được thêm tiền do ông cố Hồng cân nhắc khi chia tài sản. Mọi người trong đám ma ai cũng có một thái độ "thương xót" cụ tổ, người đâm đâm chiêu chiêu, người thì thần người ra, có vẻ rất đúng mốt của người đang có tang. Thật trớ trêu và lạ lùng, vì cụ tổ không chỉ mang lại niềm vui trong gia đình mà còn mang lại hạnh phúc cho người ngoài nữa. Hai viên cảnh sát Min Đơ và Min Toa đang không có việc được thuê thì vui sướng hết lòng hết sức, tận tâm cho công việc. Mọi người đến dự đám ma có dịp khoe tất cả những gì họ muốn khoe. Báo Gõ mõ, Chấn hưng Phật giáo được dịp phô trương thanh thế. Như vậy đấy, xã hội ngày trước của nước ta như vậy đấy, lố lăng rởm đời, đồi bại và có thể nói là bẩn thiểu hết sức tưởng tượng. Đám ma cứ đi, đi đến gần tới mồ huyệt và dường như chúng ta và tác giả đều mong muốn rằng tất cả những cái gì xấu xa nêu trên sẽ đi đến mồ chôn của nó. Nếu như Banzắc trong Lão Gôriô đã từng nói tới cái bi thì giờ đây đến Số đỏ của Vũ Trọng Phụng cái bi đã trở thành cái hài, bật ra tiếng cười trào phúng. Tiếng cười trào phúng ấy bề ngoài có thể là hả hê, sung sướng, mỉa mai nhưng thực chất bên trong ẩn giấu nỗi niềm đau đáu của tác giả. Qua tác phẩm Số đỏ và nghệ thuật trào phúng của ông, ta thấy tấm lòng của nhà văn trước xã hội, buồn nhưng lên án, đã kích kịch liệt. Tác giả đã xây dựng lên những chân dung biếm họa, những con rối gây cười. Thằng Xuân bất tài vô học, có thể ngoi lên thành đốc tờ Xuân, lên địa vị cao trong xã hội cũng là vì xã hội ấy rất cần những người có tính cách như nó, một xã hội kim tiền. Quả thật Vũ Trọng Phụng đã thể hiện tài năng đặc biêt của mình qua nghệ thuật trào phúng xuất sắc. Hạnh phúc của một tang gia đã chứng minh nhà văn thật đặc biệt kiệt xuất. Phân tích nghệ thuật châm biếm sắc sảo của Vũ Trọng Phụng qua đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia – Dàn ý 1. Mở bài Giới thiệu đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia (trích Số đỏ của Vũ Trọng Phụng) và nghệ thuật trào phúng được thổ hiện trong đoạn trích. 2. Thân bài a) Nghệ thuật trào phúng trong đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia thể hiện ở các phương diện: xây dựng tình huống trào phúng, vẽ các chân dung biếm hoạ, ngôn ngữ và giọng điệu trào phúng. – Tình huống trào phúng thể hiện ngay từ nhan đề của đoạn trích (mâu thuẫn giữa hạnh phúc và tang gia, qua đó toát lên ý nghĩa châm biếm, tố cáo), thể hiện trong cảnh chuẩn bị cho đámtang và cảnh đưa đám. – Chân dung biếm hoạ: đó là chân dung đám đông (những người đến viếng đám tang chỉ để khoe bản thân, để "chim nhau, cười tình với nhau, bình phẩm nhau, chê bai nhau, ghen tuông nhau, hẹn hò nhau"); đó là những chân dung quay cận cảnh (cố Hồng, ông Phán mọc sừng, Xuân Tóc Đỏ, cô Tuyết,…) đã lột tả rõ những niềm "hạnh phúc" của mỗi người trong đám tang của cụ cố tổ. – Ngôn ngữ và giọng điệu trào phúng: cách tả người, tả cảnh, kể chuyện đầy ấn tượng và toát lên tiếng cười châm biếm mạnh mẽ. Chẳng hạn: + Cách dùng từ: cách gọi tên sự vật (lợn quay đi lọng, kèn bú dích, lốc bốc xoảng, Bấc Đẩu bội tinh, Long bội tinh, Cao Mên bội tinh, Vạn Tượng bội tinh,…); cách đặt tên nhân vật (Typn, Min Đơ, Min Toa, Phán dây thép (Phán mọc sừng), Xuân Tóc Đỏ,…); cách diễn đạt vừa vô lí, vừa có lí ("phải chết một cách bình tĩnh", "hai cái tội nhỏ, một cái ơn to",…). + Cách đật câu: có những câu văn chứa đựng trong nó những mâu thuẫn, nghịch lí, lộn sòng thật – giả, tốt – xấu như: "Bầy con cháu chí hiếu chỉ nóng ruột đem chôn cho chóng cái xác chết của cụ tổ…" hoặc: "Thật là đủ giai thanh gái lịch, nên họ chim nhau, cười tình với nhau, bình phẩm nhau, chê bai nhau, ghen tuông nhau, hẹn hò nhau, bằng những vẻ mặt buồn rầu của những người đi đưa ma". + Cách dựng đoạn: có những đoạn kết hợp đan xen miêu tả viễn cảnh ("Đám cứ đi…") với cận cảnh (đặc tả, phóng to những chi tiết về người, lễ vật, nhạc khí, những câu nói ý nhị với tất cả sự nhố nhăng, bát nháo, rởm đời ở gần cuối đoạn trích). + Giọng điệu trào phúng: Trong đoạn trích, bên cạnh việc tả thực một cách khách quan, lạnh lùng, nhà văn chúý xen vào những lời nhận xét, bình luận hài hước, những lối nói ngược thâm thuý như: "Thật là một đám ma to tát có thể làm cho người chết nằm trong quan tài cũng phải mỉm cười sung sướng, nếu không gật gù cái đầu" hoặc: "Cái chết kia đã làm cho nhiều người sung sướng lắm." hay: "Tang gia ai cũng vui vẻ cả". Nhiều đoạn văn có giọng hài hước sâu sắc, thú vị: "Những việc trắc trở như thế đã làm cho ông già hơn tám mươi tuổi phải chết một cách bình tĩnh. Trong lúc gia đình nhốn nháo, thằng bồi tiêm đã đếm được đúng một nghìn tám trăm bảy mươi hai câu gắt: "Biết rồi, khổ lắm, nói mãi!" của cụ cố Hồng" hoặc: "Ông chỉ phiền nỗi không biết xử trí với Xuân Tóc Đỏra sao cho phải… Xuân tuy phạm tội quyến rũ một em gái ông, tố cáo cái tội trạng hoang dâm của một em gái khác nữa củaông, nhưng tình cờ đã gây ra cái chết của ông cụ già đáng chết. Hai cái tội nhỏ, một cái ơn to… Làm thế nào? ông phân vân, vò đầu rứt tóc, lúc nào mặt cũng đăm đăm chiêu chiêu, thành thử lại thành ra hợp thời trang, vì mặt ông thật đúng cái mặt một người lúc gia đình đương là tang gia bối rối". b) Tác dụng của nghệ thuật trào phúng trong đoạn trích: tập trung phê phán thói háo danh, hám lợi, thói hợmhĩnh, giả tạo, rởm đời, "vô nghĩa lí" và bao trùm là thói đạo đức giả. Toàn cảnh đám tang là một trò diễn lớn. 3. Kết bài Đánh giá của bản thân về nghệ thuật trào phúng của Vũ Trọng Phụng trong đoạn trích. Từ khóa tìm kiếm:cảm nhận của em về chân dung biếm họa những con người hạnh phúcphan tich chan dung biem hoa cua cac nhan vat trong hanh phuc cua 1 tan giachân dung biếm họa trong hạnh phúc một tang gialập dàn ý phân tích những chân dung biếm họa trong hạnh phúc của một tang giahttps://kenhtracnghiem com/phan-tich-nghe-thuat-cham-biem-sac-sao-cua-vu-trong-phung-qua-doan-trich-hanh-phuc-cua-mot-tang-gia-bai-tap-lam-van-4-lop-11Phân tích các chân dung biếm họa được thể hiện trong đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia Bài viết liên quanGiải thích ý nghĩa câu nói của nhà triết học Hi Lạp, Dê-nông (346 – 264 TCN) nói với một người bẻm mép: “Chúng ta có hai tai và một miệng để nghe nhiều hơn và nói ít hơn” – Bài tập làm văn số 4 lớp 11Phân tích bút pháp lãng mạn trong truyện Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân – Bài tập làm văn số 4 lớp 11Chí Phèo của Nam Cao – một nhân vật điển hình – Bài tập làm văn số 4 lớp 11Bài tập trắc nghiệm Hóa học lớp 10 Bài 34: Luyện tập: Oxi và lưu huỳnhBài tập trắc nghiệm Hóa học lớp 12 Bài 24: Thực hành: Tính chất, điều chế kim loại, sự ăn mòn kim loạiBài tập trắc nghiệm Hóa học lớp 11 Bài 7: NitơBài tập trắc nghiệm GDCD lớp 10 Bài 3: Sự vận động và phát triển của thế giới vật chất (phần 2)Bài tập trắc nghiệm GDCD lớp 12 Bài 4: Quyền bình đẳng của công dân trong một số lĩnh vực của đời sống xã hội (phần 1)
Xem nhanh nội dung
Phân tích nghệ thuật châm biếm sắc sảo của Vũ Trọng Phụng qua đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia – Bài làm 1
Số đỏ là cuốn tiểu thuyết trào phúng được viết theo khuynh hướng hiện thực chủ nghĩa. Tác phẩm đã phát huy cao độ tài năng châm biếm, đả kích sắc sảo của Vũ Trọng Phụng. Khối căm ghét của ông đối với xã hội thối nát không còn là một lời chửi rủa tuyệt vọng nữa mà nổ ra thành một trận cười sảng khoái, có sức công phá mạnh mẽ tung vào giữa những cái lố bịch, kệch cỡm của xã hội đương thời.
Dưới ngòi bút kì tài của Vũ Trọng Phụng, chương nào, đoạn nào cũng thú vị, hấp dẫn như một màn hài kịch trọn vẹn. Đặc biệt nhất là chương Hạnh phúc của một tang gia.
Ý nghĩa châm biếm gửi cả trong cái tên của chương truyện. Một gia đình có tang, thậm chí đại tang ắt phải tiếc thương, sầu não đến bực nào, ấy vậy mà lại hạnh phúc?! Mới nghe có vẻ ngược đời nhưng suy ngẫm kĩ trong hoàn cảnh cụ thể của gia đình này thì điều ấy lại chận thực, hợp lí.
Ở đám tang cụ Tổ, ai cũng vui như tết con cháu, cháu chắt, họ hàng thân thích, người quen biết.,, cũng thấy đây là một dịp may hiếm cổ để mình thỏa mãn một nguyện vọng, hay một ý đồ nào đó.
Vũ Trọng Phụng vạch rõ chân tướng nhố nhăng, lố bịch của những hạng người mang danh là thượng lựu, quý phái, văn minh tân tiến nhưng thực chất là những cặn bã, quái thai của cái xã hội dở Tây dở ta buổi ấy.
Trong chương này, tác giả đã xây dựng thành công một tình huống điển hình để bộc lộ những tính cách đặc sắc. Trước hết phải nói đến thái độ của những kẻ có quan hệ ruột rà với cụ Tổ.
Cái chết của cụ chẳng làm cho đứa con, dứa cháu nào tiếc thương bởi đã từ lâu, họ mong cụ chết cho nhanh để chia gia tài. Ngược lại, cái chết của cụ đã đem đến cho họ một niềm vui to lớn không che giấu nổi – một hạnh phúc: Cái chết đã làm cho nhiều người sung sướng lắm. Bọn con cháu vô tâm cũng vui sướng thỏa thích… Người ta tưng bừng vui vẻ đi đưa giấy cáo phổ, gọi phường kèn, thuê xe đám tang… Tang gia ai cũng vui vẻ cả…
Cậu Tú Tân, cháu nội cụ Tổ rất hào hứng, phấn khởi vì cậu có dịp trổ tài và sử dụng mấy cái máy ảnh mà mãi cậu không được dùng đến. Vợ Vãn Minh (cháu dâu) mừng rỡ vì sẽ dược mặc đồ xô gai tân thời và đội cái mũ mẩn trắng viền đen… để quáng cáo cho một kiểu đồ tang mới lạ.
Còn người con trai của cụ Tổ sung sướng vì một lý do khác lớn hơn. Cụ Cố Hồng mơ màng đến cái lúc cụ mặc đồ xô gai, lụ khụ chống gậy, vừa ho khạc vừa khóc mếu để cho thiên hạ bình phẩm, ngợi khen úi kìa, con giai nhớn đã già đến thế kìa kìa.
Văn Minh (cháu nội), đã từng du học tận bên Tây bao năm, về nước không có nổi một mảnh bằng, chỉ nhăm nhăm nghĩ tới chuyện chia gia tài thì thích thú ra mặt vì cái chúc thư kia đã vào thời kì thực hành chứ không còn là lý thuyết viển vông nữa. Riêng người cháu rể (Phán mọc sừng) thì khấp khởi, sướng rơn trong bụng vì đã được bố vợ nói nhỏ vào tai rằng sẽ chia thêm một sổ tiền vài trăm nghìn đồng. Chính ông không ngờ ràng giá trị đôi sừng hươu vô hình trên đầu ông ta mà lại to đến thế! Không khí của đám ma là không khí của một ngày hội. Đây cũng chính là mâu thuẫn trào phúng gây cười ra nước mắt, xuyên suốt hoạt cảnh này.
Đám ma rất to, to chưa từng thấy ở đất Hà Thành xưa nay. Có đủ cả kiệu bát cống, lợn quay… đi lọng, vài ba trăm câu đối, bức trướng, vòng hoa phúng điếu, vài trăm người đi đưa nghiêm nghị thành kính đi sát ngay sau linh cữu cụ Tổ trong đủ thứ tiếng kèn huyên náo kèn Ta, kèn Tây, kèn Tàu, có cả âm thanh chói tại, rộn rã của lốc bốc xoảng và bu-xích…
Đám ma trở thành dịp may hiếm có để trưng bày và quảng cáo các mốt quần áo Âu hóa mới nhất của tiệm may vợ chồng Văn Minh – sản phẩm độc đáo của nhà thiết kế mĩ thuật Typhono. Đó là cô Tuyết với bộ y phục ngây thơ khá hở hàng với nét mặt cố tạo một vẻ buồn lãng mạn, rất đúng mốt một nhà đám, khiến cho bao nhiêu vị khách đàn ông khi trông thấy làn da trắng thập thò trong làn ảo voan trên cánh tay và ngực Tuyết phải xúc động còn hơn nghe tiếng kèn đám ma. Đó là bộ đồ tang đã được cách tân của vợ Văn Minh làm cho mọi người phải xuýt xoa, trầm trồ…
Ngoài những thân nhân của người quá cố phải nói đến dám bạn bè, quan khách của tang chủ, những kẻ đi đưa đám không phải để chia buồn mà cố khoe các thứ huy chương, mề đay đeo đầy ngực và các kiểu râu ria tân thời nhất. Hoặc là đám phụ nữ quí phái, đám giai thanh gái lịch đang đeo đuổi, học đòi phong trào Âu hóa, vừa, đi đưa ma vừa cười tình với nhau, bình phẩm nhau, chê bai nhau, hẹn hò nhau… Và mỉa mai thay, họ làm tất cả những điều đó bàng vẻ mặt buồn rầu của những người đi đưa ma .Điều đó chứng tỏ họ hoàn toàn dửng dưng với người chết, tất cả đều thản nhiên, vui vẻ và dối trá.
Người dân hai bên đường đổ xô ra xem đám ma như xem một sự lạ. Đám ma to đến nỗi những người trong tang gia cảm thấy hết sức sung sướng và hàng phố nhốn nháo cả lên khen đám ma to. Nhà văn. lạnh lùng bình luận: Đám ma to tát có thể làm cho người chết nằm trong quan tài củng phải mỉm cười sung sướng, nếu không gật gù cái đầu. Thật là mỉa mai, chua chát!
Đắng sau cái phô trương, cố làm ra vẻ long trọng, danh giá ấy là sự rởm đời đến mức lố lăng, là thói háo danh vô lí, của bọn người giàu sang, hãnh tiến và vượt lên tất cả là thói đạo đức giả, tự lí(a mình và lừa người mà xã hội thời ấy mặc nhiên công nhận.
Song song với việc mô tả hình thức đám ma với đủ các nghi thức trọng thể, Vũ Trọng Phụng không quên đi sâu thể hiện, phanh phui mặt trái của nó. Ngòi bút sắc sảo của nhà văn trưng lên liên tiếp những bức biếm họa trước mắt người đọc, để rồi giúp người đọc nhận ra rằng cái đám ma to tát ấy chỉ thiếu một cái duy nhất mà cũng quan trọng nhất của đám ma – đó là tình người. Thiếu lòng thương tiếc chân thành đối với người đã khuất thì tất cả những hình thức lòe loẹt, om sòm kia đều trở thành vô nghĩa, thành trò cười cho thiên hạ. Những kẻ có mặt trong đám ma giông nhau ở chỗ đều giả dối và vô đạo đức.
Xuân Tóc Đỏ xuất hiện, đẩy sự lố lăng, dị hợm của đám ma cụ Tố lên tới đỉnh cao. Hắn chọn đúng lúc để có mặt, trước sự chú ý của mây trăm con người và gây ân tượng mạnh với hai vòng hoa đồ sộ, sáu chiếc xe kéo sang trọng và một đám sư, cùng loại sư của báo gõ mõ. Điều này khiến cho cụ Phán bà càng thêm sung sướng: giá không có món ấy thì là thiếu chưa được to, may mà ông Xuân đã nghĩ hộ tôi, và cô Tuyết người yêu của hắn cũng phải cảm động mà liếc mắt đưa tình với hắn.
Mấy chi tiết đặc tả cảnh hạ huyệt càng mỉa mai, trào phúng. Nó được dàn dựng như một vở kịch mà bàn tay đạo diễn quá ư lộ liễu, trắng trợn. Cậu Tú Tân bắt từng người phải chông gậy, gục đầu, cong lưng, lau mắt… để cậu chụp ảnh, trong khi bạn hữu của cậu rầm rộ nhảy lên những ngôi mả mà chụp để cho ảnh khỏi giống nhau. Chất bi hài của cảnh khiến người đọc cười ra nước mắt. Chỉ có một tiếng khóc lớn nhất bật lên là của ông Phán mọc sừng. Ông oặt người đi, khóc mãi không thôi và tiếng khóc của ông thật đặc biệt: Hứt! Hứt! Hứt!… Ông thương cho người đã khuất chăng? Không phải! Ông đang đóng kịch trước mặt mọi người. Thực ra ông ta rất mừng vì cụ Tổ chết và ông được chia phần khá nhiều, kể cả cái giá của bộ sừng mà vợ ông đã cắm lên đầu ông. Miệng khóc, tay ông dúi nhanh vào tay Xuân Tóc Đỏ tờ bạc năm đồng gấp làm tư để trả công hắn đã gọi ông là Phán mọc sừng trước người nhà vợ. Và cũng nhờ đó mà ông có thêm được món tiền lớn.
Qua chương Hạnh phúc của một tang gia, Vũ Trọng Phụng bộc lộ xuất sắc tài kể chuyện của mình. Bút pháp của Vũ Trọng Phụng giỏi ở chỗ phóng đại mà như không phóng đại, làm cho mọi việc đều như thật và hơn thật. Ồng chú ý đến các mâu thuẫn giữa hiện tượng và bản chất, khai thác triệt để nhằm gây nên những tràng cười có ý nghĩa phê phán sâu sắc. Cảnh đám ma hiện ra như một màn hài kịch sinh động hay như một bức biếm họa khổng lồ và chi tiết về cái xã hội tự cho là thượng lưu, sang trọng ở Hà Nội thời đó đang phơi bày tất cả cái bản chất lố lăng và đồi bại của nó.
Phân tích nghệ thuật châm biếm sắc sảo của Vũ Trọng Phụng qua đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia – Bài làm 2
Vũ Trọng Phụng là nhà văn xuất sắc của nền văn học Việt Nam, ông có rất nhiều những tác phẩm hay, trong đó tác phẩm Hạnh phúc của một tác gia đã để lại cho người đọc nhiều cảm xúc bởi nghệ thuật châm biếm sắc sảo của tác giả.
Hạnh phúc của một tang gia là tác phẩm để lại cho người đọc nhiều suy nghĩ về một lối sống đang bị tha hóa, những con người lố bịch, tham lam, tác phẩm là sự thể hiện sâu sắc của tác giả về nghệ thuật châm biếm, ở đây tác giả đã xây dựng rất nhiều những tình huống nhằm tố cáo, và phê phán những thành phần trong xã hội. Trong câu chuyện tác giả đã xây dựng nên tính cách của nhân vật. Mỗi nhân vật mang một tính cách riêng, nhưng họ đều thể hiện tư tưởng chủ đề của tác phẩm. Tác phẩm này sáng tác ra nhằm tố cáo, và phê phán những con người có một lối suy nghĩ và hành động lai căng, họ làm lai tạp và làm mất đi bản sắc văn hóa của dân tộc.
Trong tác phẩm tác giả sử dụng nghệ thuật châm biếm và trào phúng ngay trong chính ở nhan đề, tang gia đây là một sự việc đau buồn, nhưng tác giả lại sử dụng chúng với một cái tên đó là hạnh phúc, quả thật đây là những điều trái với tự nhiên, có sự mất mát, nhưng lại hạnh phúc, đây không chỉ là dụng ý của tác giả về chính tác phẩm mà nó thể hiện một tinh thần mới mẻ trong phong cách nghệ thuật của ông. Tiếp theo đến việc xây dựng lên hệ thống các nhân vật, từ những nhân vật gần gũi và có mối quan hệ gần gũi nhất với cụ cố Hồng, đó là con cái của cụ, cô tuyết, … tất cả các nhân vật này đều thể hiện những hành động rất ngược lại với lẽ tự nhiên. Họ coi như đây là cơ hội để họ thể hiện những điều mà bấy lâu nay họ muốn đối với thiên hạ. Và một nhân vật nữa, đó chính là Xuân tóc đỏ, đây là nhân vật gián tiếp làm ra cái chết của cụ, nhưng gia đình, người thân của cụ lại vô cùng hạnh phúc trước sự ra đi của cụ, bởi khi cụ mất đi mọi người sẽ được chia tài sản, họ có cơ hội được diện những trang phục, lai căng…
Tất cả mọi người đều diễn những trò lố bịch, nhưng đằng sau họ lại vô cùng vui mừng, họ tổ chức lễ viếng một cách linh đình, náo nhiệt, cả một thế hệ đang bị sa đọa trước đạo đức của các thành viên trong gia đình, chính người con trai của cụ đáng nhẽ, phải là người lo liệu trách nhiệm tổ chức ma chay, cũng hỏi, nhưng lại say sưa trước những làn khói mơ màng, ông thật là một người đáng phê phán sâu sắc. Tất cả họ đều vui mừng khi được chia tài sản ông Văn Minh dùng tiền để bịt miệng Xuân tóc đỏ vì hành động gián tiếp gây nên cái chết của cụ, tất cả mọi người đều diễn những trò đáng thương, khóc lóc trước sự ra đi của cụ, đây được xem như là một vở kịch đáng phê phán.
Cô tuyết cô cháu gái của cụ, thì mặc những bộ quần áo, ngây thơ, hở hang, đến lễ tang của cụ, tỏ ra thương tiếc trước cái chết của ông mình, nhưng thực chất cô muốn giữ lại cái trong sáng, về chữ trinh, tỏ ra ngây thơ để thể hiện chữ trinh một nửa của mình, đây đều là những trò lố bịch đáng bị phê phán một cách sâu sắc.
Với tài năng của mình Vũ Trọng Phụng đã dùng biện pháp châm biếm để phê phán những con người không có đạo đức, họ dùng những lối suy tư và diễn trò trước thiên hạ, nhưng rồi họ vẫn bị phê phán và thể hiện một thái độ sâu sắc trước những con người không có nhân tính.
Tiếp theo đến nhân vật ông con rể của cụ cố Hồng, đó là ông Phán mọc sừng, ông đã diễn những trò tỏ ra thương tiếc, mặc cái trang phục với những sự xót thương, nhưng đó thực sự lại là một sự lố bịch lớn, trang phục đó là cái khăn trắng to tướng, áo thụng,…ông khóc mãi không thôi, tất cả chỉ đang diễn trò trước thiên hạ để cho họ biết ông đau đớn đến mức nào.
Mỗi nhân vật đều mang trong mình những bộ mặt, họ diễn trò cho thiên hạ để thể hiện một tình cảm đặc biệt xót thương trước người ra đi, nhưng chúng ta có thể bắt gặp sự tài hoa của tác giả ngay trong nhan đề, và chính nhan đề đến cách xây dựng nhân vật đã đủ để cho người đọc có thể bao quát được một xã hội trước cách mạng tháng tám, con người bị lai căng, tha hóa, ở đây con người đang sống trong những lối sống đáng phê phán, hạnh phúc của một tang gia đã thể hiện mạnh mẽ được thái độ của tác giả trước những hành động của các nhân vật.
Đám tang được xem như là một cơ hội duy nhất để họ có thể tỏa sáng chính mình với những trò diễn xuất, nơi đây còn là nơi để họ trưng bày và khoa những đồ đạc đắt tiền, những bộ trang phục, mốt của thời đại, một đám tang với sự pha tạp của rất nhiều những nghi lễ, nó là sự kết hợp giữa các yếu tố lai căng, tạo nên những tiếng cười nhưng nó mang một nghệ thuật trào phúng và sự phê phán sâu sắc. Không gian của đám tang cũng diễn ra với sự đông đúc của rất nhiều tham gia, họ được thể hiện mình, qua trang phục, cử chỉ,…
Vũ Trọng Phụng là một nhà văn xuất sắc ông đã phê phán những lối sống lai căng, tục tĩu, và giả dối, ở đây họ là những con người không có văn hóa, họ coi như đám tang là nơi để họ thể hiện mình, tác giả đã mang tư tưởng và thái độ của mình thể hiện trong từng chi tiết trong tác phẩm, đó là điều kiện để tác phẩm đến với người đọc, và đây là một sự tinh tế, và tài hoa của ông.
Nghệ thuật châm biếm của tác phẩm được thể hiện rất sâu sắc, nó nhằm tố cáo một thành phần lai căng, lố bịch trong xã hội. Tác phẩm để lại cho người đọc nhiều tiếng cười, nhưng cũng mang sự tố cáo sâu sắc xã hội phong kiến đương thời.
Phân tích nghệ thuật châm biếm sắc sảo của Vũ Trọng Phụng qua đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia – Bài làm 3
Xuất hiện trên văn đàn chỉ chừng bảy, tám năm song Vũ Trọng Phụng đã đóng góp một phần rất to lớn cho văn học Việt Nam. Tác phẩm Số đỏ của ông được coi là tác phẩm xuất sắc nhất trong dòng văn học hiện thực phê phán, được Nguyễn Khải đáng giá là tác phẩm độc nhất vô nhị, có thể làm vinh dự cho mọi nền văn học.
Nếu số đỏ là một vỡ đại hài kịch trong đó Vũ Trọng Phụng muốn ném cái nhìn khinh bạc, giễu cợt cái xã hội lố lăng, rớm đời, coi đồng tiền hơn hết thảy, mọi giá trị đạo đức đều bị lưu mờ thì từng chương truyện lại là một trích đoạn kịch nói rõ hơn, bổ sung thêm thái độ của nhà văn. Đặc biệt trong chương XV, trích đoạn Hạnh phúc của một tang gia đã phần nào cho ta thấy nghệ thuật trào phúng bậc thầy của ông.
Có thể thấy ngay rằng, tiếng cười trao phúng bật ngay từ nhan đề chương trích đoạn Hạnh phúc của một tang gia. Tang gia là gia đình có người mất, đó phải là một tổn thất lớn trong gia đình ấy. Còn hạnh phúc là niềm sung sướng, vui sướng tột cùng, tột độ khi mong ước bao lâu nay thành hiện thực. Ngay từ nhan đề, ta và tác giả hoàn toàn ngạc nhiên với gia đình ấy, nhà có tang mà ai ai cũng đều vui vẻ cả, thỏa mãn với điều đó. Vũ Trọng Phụng đã rất cẩn thận khi lựa chọn từng chi tiết trào phúng. Nào là con cụ tổ là cụ cố Hồng không hề buồn bã, tiếc thương cho cụ mà đang mơ màng nghĩ đến cảnh lụ khujb mặc đồ xô gai, chống gậy, ho khạc khiến mọi người đến đưa đám phải xì xào "Uí kìa, con giai nhớn đã già đến thế kia kìa", tức là gia đinh này chắc hẳn phải có phúc lắm. Rồi đến con dâu bà cố Hồng thì sung sương khi nghĩ rằng đám ma này là đám ma to nhất Hà Thành. Nhà văn đưa người đọc đi từ bất ngờ này đến bất ngờ khác, từ vui vẻ, mãn nguyện lan truyền từ con đến cháu, đến mọi người trong gia đình. Vợ chồng Văn Minh thì hạnh phúc vì có dịp lăng xê những bộ trang phục mới nhất. Ông Typn có cơ hội xin ý kiến mọi người đánh giá về trang phục của mình như thế nào. Cậu cháu đang mong muốn chờ đến ngày đưa đám để cậu có dịp sử dụng đến cái mái ảnh đã chuẩn bị sẵn từ lâu. CÔ Tuyết có dịp trình diện kiểu mẫu với trang phục "Ngây thơ" khẳng định với mọi người rằng mnhf mới mất một nửa chữ trinh. Từ khi cụ tổ mất, thằng Xuân Tóc Đỏ – ông đốc tờ Xuân trở thành một người quan trọng "thiếu nó là thiếu tất cả". Còn ông Phán thì quên đi nỗi nhục mọc sừng mà tính ngay với Xuân một cuộc doanh thương. Tất cả các thành viên trong gia đình đều tất bật chuẩn bị chu đáo nhưng đó là sự tất bật của một lũ con cháu đại bất hiếu của gia đình đại vô phúc, chuẩn bị cho một đám rước chứ không phải một đám ma. Với nghệ thuật trào phúng đặc sắc của nhà văn, người đọc có thể phần nào cảm nhận được những lố lăng đồi bại của gia đình cụ tổ nói riêng và cái xã hội ngày trước nói chung.
Ngôn ngữ và giọng điệu tác giả sử dụng hết sức biến hóa, chuyển giọng liên tục, đưa người đọc đến hết bất ngờ này đến bất ngờ khác. Phải nói rằng tiếng cười trào phúng của Vũ Trọng Phụng hết sức độc đáo, nó là tiếng cười đa thanh đa giọng. Nào là đám ma đi đến đâu mọi người cũng phải đỗ ra xem, đám ma này hết sức hổ lốn, kèn ta, kèn Tây, kèn Tàu lẫn lộn, có kiệu bát cống… Đám ma to thật to, to lớn đến nổi người năm trong quan tài cũng phải sung sướng nếu không gật gù cái đầu. Nhưng cụ tổ sẽ rất đau buồn nếu như biết rằng đám ma to thật đấy nhưng không ai trong gia đình, con cái họ hàng thân thích lại nghĩ đến cụ, thương xót cho cụ.
Tất cả những chi tiết, tình huống trào phúng đều được Vũ Trọng Phụng thu gọn trong ống kính phóng sự của mình. Với biệt tài châm biếm sắc sảo, đẩy đối tượng phung trào lên mức không tưởng tượng được, nhà văn đã cho ta thấy, tất cả xã hội ấy đều quay cuồng trong cơn lốc âu hóa, một bức tranh xã hội hiện thực đen tối. Đồng tiền chi phối, hủy hoại hết mọi tình cảm thiêng liêng của con người. Ông Phán mọc sừng vui sướng cảm ơn thằng Xuân Tóc Đỏ chỉ vì câu nói "Thưa ngài, ngài là một ông chồng mọc sừng" đã làm cho cụ tổ chết, ngã lăn ra, thỏa ước nguyện lâu nay của mọi người vì từ nay cái chúc thư kia đã đi vào thời kỳ thực hành không còn là lý thuyết suông nữa. Cũng chính vì vậy mà ông Phán và vợ được thêm tiền do ông cố Hồng cân nhắc khi chia tài sản.
Mọi người trong đám ma ai cũng có một thái độ "thương xót" cụ tổ, người đâm đâm chiêu chiêu, người thì thần người ra, có vẻ rất đúng mốt của người đang có tang.
Thật trớ trêu và lạ lùng, vì cụ tổ không chỉ mang lại niềm vui trong gia đình mà còn mang lại hạnh phúc cho người ngoài nữa. Hai viên cảnh sát Min Đơ và Min Toa đang không có việc được thuê thì vui sướng hết lòng hết sức, tận tâm cho công việc. Mọi người đến dự đám ma có dịp khoe tất cả những gì họ muốn khoe. Báo Gõ mõ, Chấn hưng Phật giáo được dịp phô trương thanh thế. Như vậy đấy, xã hội ngày trước của nước ta như vậy đấy, lố lăng rởm đời, đồi bại và có thể nói là bẩn thiểu hết sức tưởng tượng.
Đám ma cứ đi, đi đến gần tới mồ huyệt và dường như chúng ta và tác giả đều mong muốn rằng tất cả những cái gì xấu xa nêu trên sẽ đi đến mồ chôn của nó. Nếu như Banzắc trong Lão Gôriô đã từng nói tới cái bi thì giờ đây đến Số đỏ của Vũ Trọng Phụng cái bi đã trở thành cái hài, bật ra tiếng cười trào phúng. Tiếng cười trào phúng ấy bề ngoài có thể là hả hê, sung sướng, mỉa mai nhưng thực chất bên trong ẩn giấu nỗi niềm đau đáu của tác giả. Qua tác phẩm Số đỏ và nghệ thuật trào phúng của ông, ta thấy tấm lòng của nhà văn trước xã hội, buồn nhưng lên án, đã kích kịch liệt. Tác giả đã xây dựng lên những chân dung biếm họa, những con rối gây cười. Thằng Xuân bất tài vô học, có thể ngoi lên thành đốc tờ Xuân, lên địa vị cao trong xã hội cũng là vì xã hội ấy rất cần những người có tính cách như nó, một xã hội kim tiền.
Quả thật Vũ Trọng Phụng đã thể hiện tài năng đặc biêt của mình qua nghệ thuật trào phúng xuất sắc. Hạnh phúc của một tang gia đã chứng minh nhà văn thật đặc biệt kiệt xuất.
Phân tích nghệ thuật châm biếm sắc sảo của Vũ Trọng Phụng qua đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia – Dàn ý
1. Mở bài
Giới thiệu đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia (trích Số đỏ của Vũ Trọng Phụng) và nghệ thuật trào phúng được thổ hiện trong đoạn trích.
2. Thân bài
a) Nghệ thuật trào phúng trong đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia thể hiện ở các phương diện: xây dựng tình huống trào phúng, vẽ các chân dung biếm hoạ, ngôn ngữ và giọng điệu trào phúng.
– Tình huống trào phúng thể hiện ngay từ nhan đề của đoạn trích (mâu thuẫn giữa hạnh phúc và tang gia, qua đó toát lên ý nghĩa châm biếm, tố cáo), thể hiện trong cảnh chuẩn bị cho đámtang và cảnh đưa đám.
– Chân dung biếm hoạ: đó là chân dung đám đông (những người đến viếng đám tang chỉ để khoe bản thân, để "chim nhau, cười tình với nhau, bình phẩm nhau, chê bai nhau, ghen tuông nhau, hẹn hò nhau"); đó là những chân dung quay cận cảnh (cố Hồng, ông Phán mọc sừng, Xuân Tóc Đỏ, cô Tuyết,…) đã lột tả rõ những niềm "hạnh phúc" của mỗi người trong đám tang của cụ cố tổ.
– Ngôn ngữ và giọng điệu trào phúng: cách tả người, tả cảnh, kể chuyện đầy ấn tượng và toát lên tiếng cười châm biếm mạnh mẽ. Chẳng hạn:
+ Cách dùng từ: cách gọi tên sự vật (lợn quay đi lọng, kèn bú dích, lốc bốc xoảng, Bấc Đẩu bội tinh, Long bội tinh, Cao Mên bội tinh, Vạn Tượng bội tinh,…); cách đặt tên nhân vật (Typn, Min Đơ, Min Toa, Phán dây thép (Phán mọc sừng), Xuân Tóc Đỏ,…); cách diễn đạt vừa vô lí, vừa có lí ("phải chết một cách bình tĩnh", "hai cái tội nhỏ, một cái ơn to",…).
+ Cách đật câu: có những câu văn chứa đựng trong nó những mâu thuẫn, nghịch lí, lộn sòng thật – giả, tốt – xấu như: "Bầy con cháu chí hiếu chỉ nóng ruột đem chôn cho chóng cái xác chết của cụ tổ…" hoặc: "Thật là đủ giai thanh gái lịch, nên họ chim nhau, cười tình với nhau, bình phẩm nhau, chê bai nhau, ghen tuông nhau, hẹn hò nhau, bằng những vẻ mặt buồn rầu của những người đi đưa ma".
+ Cách dựng đoạn: có những đoạn kết hợp đan xen miêu tả viễn cảnh ("Đám cứ đi…") với cận cảnh (đặc tả, phóng to những chi tiết về người, lễ vật, nhạc khí, những câu nói ý nhị với tất cả sự nhố nhăng, bát nháo, rởm đời ở gần cuối đoạn trích).
+ Giọng điệu trào phúng: Trong đoạn trích, bên cạnh việc tả thực một cách khách quan, lạnh lùng, nhà văn chúý xen vào những lời nhận xét, bình luận hài hước, những lối nói ngược thâm thuý như: "Thật là một đám ma to tát có thể làm cho người chết nằm trong quan tài cũng phải mỉm cười sung sướng, nếu không gật gù cái đầu" hoặc: "Cái chết kia đã làm cho nhiều người sung sướng lắm." hay: "Tang gia ai cũng vui vẻ cả". Nhiều đoạn văn có giọng hài hước sâu sắc, thú vị: "Những việc trắc trở như thế đã làm cho ông già hơn tám mươi tuổi phải chết một cách bình tĩnh. Trong lúc gia đình nhốn nháo, thằng bồi tiêm đã đếm được đúng một nghìn tám trăm bảy mươi hai câu gắt: "Biết rồi, khổ lắm, nói mãi!" của cụ cố Hồng" hoặc: "Ông chỉ phiền nỗi không biết xử trí với Xuân Tóc Đỏra sao cho phải… Xuân tuy phạm tội quyến rũ một em gái ông, tố cáo cái tội trạng hoang dâm của một em gái khác nữa củaông, nhưng tình cờ đã gây ra cái chết của ông cụ già đáng chết. Hai