28/05/2017, 15:01

Phân tích đoạn trích Tức nước vỡ bờ trong tác phẩm Tắt đèn của Ngô Tất Tố – Văn mẫu lớp 9

Phân tích đoạn trích Tức nước vỡ bờ trong tác phẩm Tắt đèn của Ngô Tất Tố – Bài làm 1 Ngô Tất Tố là một trong những nhà văn hiên thực phê phán nổi tiếng nhất thời kì cách mạng. các tác phẩm của ông luôn đi liền với hình ảnh những người nông dân khốn khổ, luôn bị bóc lột, bị áp bức mà không ...

Phân tích đoạn trích Tức nước vỡ bờ trong tác phẩm Tắt đèn của Ngô Tất Tố – Bài làm 1 Ngô Tất Tố là một trong những nhà văn hiên thực phê phán nổi tiếng nhất thời kì cách mạng. các tác phẩm của ông luôn đi liền với hình ảnh những người nông dân khốn khổ, luôn bị bóc lột, bị áp bức mà không thể tìm ra được lối thoát. Và nhắc tới ông, có lẽ chúng ta sẽ được nghe đầu tiền là tác phầm “tắt đèn”. Và trong tác phẩm , phân ...

Phân tích đoạn trích Tức nước vỡ bờ trong tác phẩm Tắt đèn của Ngô Tất Tố – Bài làm 1

Ngô Tất Tố là một trong những nhà văn hiên thực phê phán nổi tiếng nhất thời kì cách mạng. các tác phẩm của ông luôn đi liền với hình ảnh những người nông dân khốn khổ, luôn bị bóc lột, bị áp bức mà không thể tìm ra được lối thoát. Và nhắc tới ông, có lẽ chúng ta sẽ được nghe đầu tiền là tác phầm “tắt đèn”. Và trong tác phẩm , phân đoạn “ tức nước vỡ bờ” là một trong những đoạn văn gây nhiều xúc động và có ý nghĩa nhất trong lòng người đọc.

Tác giả lấy đề tài từ vụ thuế hàng năm ở những làng quê Bắc Bộ, với những hình ảnh như in đậm vào tâm trí của người đọc, hiện lên số phận bi thảm của những người phụ nữ nói chung và những người nông dân nói riêng cùng bản chất của giai cấp thống trị trong xa hôi đương thời. Đó là tình cảnh của người nông dân “một cổ hai tròng” khi vừa chịu ách bóc lột của những kẻ tàn dư phong kiến còn sót lại, vừa của những kẻ đi theo thực dân pháp, bán đứng tổ quốc. Trong tác phẩm, tác giả đã sử dụng ngòi bút hiện thực để vẽ nên chân dung của hàng loạt những nhân vật ở trong tác phẩm. Điển hình cho những kẻ áp bức con người là vợ chồng Nghị Quế, luôn lợi dụng tình cảnh của những con người đang gặp khó khăn nhằm trục lợi hay những bọn tay sai cường hào tuy chỉ là những kẻ làm thuê nhưng chúng lại không biết thương yêu những người đồng loại vất vả mà lại chỉ biết áp bức những người nông dân tay không tấc sắt. đó chính là những con người đại diện tầng lớp tiêu biểu phong kiến tàn dư của xã hội. Ngoài ra, tác giả còn rất khéo léo xây dựng hình tượng vô cùng kiên cường mà cũng đầy cảm động về hình ảnh của  chị Dậu- một người phụ nữ luôn hết lòng chăm lo cho chồng cho con mà không nghĩ cho mình bao giờ. Tốt đẹp là thế nhưng họ luôn phải chịu sự áp bức từ kẻ khác. Họ cũng không có cách nào để phản kháng hoàn toàn bởi chính họ còn không biết làm cách nào thoát ra khỏi vũng lầy Mở đầu là cảnh chị Dậu chăm sóc người chồng ốm yếu vừa bị bọn hào lí trong làng đánh đập dã man chỉ vì thiếu tiền nộp sưu. Chị Dậu đã cô gắng hết sức để cứu chồng nhưng cuối cùng anh Dậu vẫn không tránh được sự bắt bớ, hành hạ. Có thấy được tình thương yêu chổng con sâu sắc của chị Dậu, ta mới hình dung được sự dũng cảm quên mình của chị. Chị tất tả chạy ngược chạy xuôi, vay được nắm gạo nấu nồi cháo loãng. Cảm động thay là cảnh chị Dậu múc cháo ra mấy cái bát cũ kĩ, sứt mẻ và quạt cho cháo mau nguội rồi ân cần mời mọc: Thầy em cố dậy húp tí cháo cho đỡ xót ruột. Trong ánh mắt và giọng nói của người vợ nghèo khổ ấy toát lên một tình cảm tha thiết đến nao lòng.

Chị Dậu đã trở thành trụ cột của cái gia đình đang quẫn bách khốn khổ vì sưu, vì thuế. Chồng bị đánh đập, gông cùm. Một tay chị chèo chống, chạy vạy, phải bán tất cả những gì có thể bán được, kể cả đứa con gái đầu lòng ngoan ngoãn, hiếu thảo mà chị thương đứt ruột để lấy tiền nộp sưu, cứu chồng khỏi vòng tù tội. Chị đã phải đổ bao mồ hôi nước mắt để anh Dậu được trả tự do trong tình trạng tưởng như chỉ còn là một cái xác không hồn. Giữa lúc anh Dậu vừa bưng bát cháo kề vào miệng thì cai lệ và người nhà lí trưởng đã sầm sập sấn vào với những roi song, tay thước và dây thừng, hò hét bắt anh phải nộp tiền sưu. Quá khiếp đảm, anh Dậu đã lăn đùng ra không nói được câu gì, chỉ còn chị Dậu một mình phải đối phó với những kẻ độc ác, luôn đòi ra tay với vợ chồng chị.

Ban đầu, khi bọn chúng ập vào định lôi anh Dậu đi nhưng chưa hành hung mà chỉ chửi bới, mỉa mai, đe dọa thì chị Dậu vẫn nhũn nhặn van xin tên cai lệ độc ác. Vả lại, kinh nghiệm lâu đời đã thành bản năng của người nông dân thấp cổ bé họng là phải biết rõ thân phận mình. Thói quen nhẫn nhục khiến chị chỉ dám năn nỉ, khơi gợi lòng nhân từ của tên cai lệ: Cháu van ông, nhà cháu vừa mới tĩnh được một lúc, ông tha cho! Cách xưng hô ông, cháu của chị Dậu là cách xưng hô của kẻ dưới với người trên, biểu hiện sự hạ mình. Bọn chúng chẳng thèm nghe mà sầm sập chạy đến chỗ anh Dậu, định bắt trói anh một lần nữa thì chị Dậu đã giận xám mặt nhưng vẫn cố chịu đựng, níu tay tên cai lệ van nài: Cháu xin ông! Mọi lời nói, hành động của chị Dậu đều không ngoài mục đích để bảo vệ chồng.

 Đến khi giới hạn của sự chịu đựng bị phá vỡ thì tính cách cứng cỏi của chị Dậu mới thật sự bộc lộ. Lúc tên cai lệ đáp lại lời van xin của chị bằng những cú đấm thô bạo rồi sấn đến trói anh Dậu thì chị tức quá không thể chịu được nên đã liều mạng chống cự lại. Sự bùng nổ tính cách này là kết quả tất yếu của quá trình chịu đựng lâu dài sự tàn ác, bất công. Điều đó đúng với quy luật có áp bức, có đấu tranh. Người đọc xót thương một chị Dậu phải hạ mình van xin bao nhiêu thì càng đồng tình, nể phục một chị Dậu đáo để, quyết liệt bấy nhiêu.

Lúc đầu, chị cự lại tên cai lệ bằng lí lẽ: Chồng tôi đau ốm, ông không được phép hành hạ! Thực ra, chị chỉ nói đốn lòng nhân đạo tối thiểu của con người. Chị không còn xưng cháu và gọi tên cai lệ bằng ông nữa mà xưng là tôi – ông, ngẩng cao đầu nhìn thẳng vào mặt đối thủ.

Từ vị thế thấp hèn của kẻ dưới, chị Dậu vụt trở thành ngang hàng với những kẻ xưa nay vẫn đè đầu cưỡi cổ mình. Câu nói của chị là lời cảnh cáo cứng rắn mà vẫn có đủ tình, đủ lí. Nhưng cái ác thường không biết chùn tay. Tên cai lệ cứ sấn tới đánh chị và nhảy vào định lôi anh Dậu đi. Lòng yêu thương chổng tha thiết đã thúc đẩy chúng phải hành động chống trả quyết liệt lũ tay sai tàn ác đang cố tình phá nát gia đình chị.

Chị không chấp nhận để chồng mình bị hành hạ thêm một lần nữa. Hành động chống trả bọn tay sai diễn ra thật bất ngờ nhưng thực ra mầm mống phản kháng đã ẩn chứa tử lâu dưới vẻ ngoài cam chịu nhẫn nhục thường ngày của chị. Sự chịu đựng kéo dài và sự áp bức lên đến tột đỉnh khiến cho thái độ phản kháng bùng lên dữ dội. Tiếp sau lời cảnh cáo đanh thép là hành động phản kháng mạnh mẽ. Rồi chị túm lấy cổ hắn, ấn dúi ra cửa. Sức lẻo khẻo của anh chàng nghiện chạy không kịp với sức xô đẩy của người đàn bà lực điền, hắn ngã chỏng quèo trên mặt đất… Còn tên người nhà lí trưởng hung hăng kết cục cũng bị chị Dậu túm tóc; lẳng cho một cái, ngã nhào ra thềm Do đâu mà chị Dậu có sức mạnh lạ lùng một lúc quật ngã hai tên tay sai hung hãn như vậy ? Đó là sức mạnh của lòng căm hờn mà cái gốc của lòng căm hờn ấy lại chính là tình yêu thượng và ý thức bảo vệ chồng con của người đàn bà nghèo khổ.

Tuy vậy, sự phản kháng của chị Dậu mới chỉ là hành động tức nước vỡ bờ của một cá nhân chứ chưa phải là hành động vùng lên phá vỡ áp bức bất công để tự giải phóng của một giai cấp, một dân tộc. Thế nhưng nó cũng chứng minh cho quy luật có áp bức, có đấu tranh. Áp bức càng nhiều thì đấu tranh càng quyết liệt.

Ý nghĩa của câu tục ngữ tức nước vỡ bờ qua ngòi bút hiện thực của Ngô Tất Tố đã được thể hiện thật sống động và đầy thuyết phục. Tuy tác giả khỉ đó chưa giác ngộ cách mạng và tác phẩm kết thúc bằng cảnh ngộ bế tắc của chị Dậu nhưng nhà văn Nguyễn Tuân đã nhận xét rằng Ngô Tất Tố, với Tắt đèn đã “xui người nông dân đấu tranh cách mạng…”.

Phân tích đoạn trích Tức nước vỡ bờ trong tác phẩm Tắt đèn của Ngô Tất Tố – Bài làm 2

Ngô Tất Tố là một nhà văn hiện thực trước cách mạng tháng tám nhiều tác phẩm của ông nhằm có giá trị tố cáo sâu sắc chúng ta đã thấy được những hình ảnh đó qua những nhân vật nổi bật trong tác phẩm tức nước vỡ bờ.

Những đề tài tiêu biểu mà Ngô Tất Tố thể hiện qua những tác phẩm của mình đó là sự nghèo khổ của những người nông dân, họ bị bần cùng hóa và lâm vào một con đường khó khăn, họ bị xã hội trà đạp, bị cái đói bao vay. Nhưng nhân dân đói khổ đó một phần là do chiến tranh gây ra một phần là do những thế lực cầm quyền tàn ác đã bòn rút hết những của cải của nhân dân, chúng ta đã thấy trong tức nước vỡ bỡ hình ảnh người nông dân nghèo khổ luôn bị áp bức bóc lột, bị nộp sưu cao thuế nặng đã làm cho mỗi người đều cảm thấy phẫn uất trước những hiện tượng đó. Trong tác phẩm này ta thấy xuất hiện nhân vật vợ chồng chị Dậu là nổi bật cho những người nông dân bị áp bức.

Cái nghèo đói đã bao vay trong cuộc sống của nhân dân rồi, lại thêm những áp lực khác đó là hình ảnh những người nông dân bị bắt nộp sưu cao thuế nặng, không có đủ cơm để ăn nhưng người nông dân lao động đến đâu lại phải nộp hết tiền sưu thuế đến đấy đói khổ ngày càng trở nên nặng nề hơn, áp lực từ cái đói cái khổ làm cho người nông dân bị bần cùng hóa, hình ảnh đó đã mang những giá trị tố cáo sâu sắc khi người nông dân luôn phải chịu những đớn đau cả về thể xác lẫn tinh thần hình ảnh đó vang vọng trong trái tim của mỗi người, chúng ta đã thấy trong tác phẩm này người nông dân bị áp bức đến tận xương tủy nếu không nộp đầy đủ sưu thuế thì cũng bị đánh chết. Chúng ta đã bắt gặp những hình ảnh rất đau thương khi chồng chị Dậu bị bắt vì không nộp đủ sưu thuế.

Hình ảnh đó đã tác động mạnh mẽ đến những con người này, hình ảnh của người nông dân bị đánh đập dã man khi không có tiền nộp đủ sưu thuế, chúng đã bị đánh và bị hành hạ cả về thể xác lẫn tinh thần, trong hoàn cảnh xã hội như vậy cái đói khổ vẫn đang bao vây nhưng những người nông dân này lại luôn cố gắng phải kiếm từng miếng cơm manh áo cho cuộc sống của mình, cùng với những gánh nặng khác cũng đã ảnh hưởng đến những suy nghĩ và tình cảm của con người, những hình ảnh đó đã mang những đặc trưng tiêu biểu cho người nông dân Việt Nam. Cái đói nghèo thật tàn ác khi nó bòn rút hết tinh thần và tiền của của nhân dân, cái đói đó làm cho người nông dân kiệt sức, họ lâm vào đường lợ lần vì sưu thuế cao, anh Dậu bị ốm nặng nhưng bọn chúng đến và bắt nộp sưu thuế đầy đủ, chi tiết chị Dậu xin bọn chúng đã để lại những day dứt trong lòng người đọc.

Khi chị Dậu xin bọn chúng còn bị bọn chúng đánh đập cho, chị bị bọn chúng tát vào mặt những hình ảnh đó đã mang giá trị tố cao sâu sắc những tên quan lại chỉ biết lo ăn chơi không lo nghĩ cho cuộc sống của người nông dân, khi anh Dậu chưa chết bọn chúng bắt nộp đầy đủ sưu thuế, những hình ảnh đó đã chứng tỏ rằng bọn chúng là những tên rất độc ác, chị Dậu xin khất và sẽ trả đủ nhưng bọn chúng không nghe, những hình ảnh đó đã mang những giá trị lớn cho chúng ta, khi chúng ta hiểu được nỗi khổ của những người nông dân đó và thấu hiểu đồng cảm với số phận của họ.

Những tên quan lại là những tên độc ác, còn những tên lính đi thu sưu thuế chỉ là những tên đầy tớ làm theo sự chỉ đạo của những tên quan kia, đó là một công cụ để nó thực hiện tội ác của mình, những hình ảnh khi anh Dậu bị đánh, chị Dậu cố van xin, và cả hành động chị Dậu quyết định bán con để có tiền lo trả sưu thuế cho bọn chúng đã thể hiện tình cảm của chị đối với người chồng của mình, sự đau đớn đó được chị quyết định ra nhưng đó chỉ là những điều mà chị đang cố gắng để cho anh Dậu không bị đánh, khi những hành động của bọn chúng quá đáng thì chị dậu mới không thể chịu được những cách cư xử của bọn chúng chị đã thể hiện được sức mạnh của mình khi bị bọn chúng bóc lột, những hình ảnh đó đã mang những điều thật lớn lao khi chị vừng lên đấu tranh với cái ác cái xấu hình ảnh đó đã thể hiện chị là một người biết đứng lên đấu tranh để bảo lệ công lý của những người nông dân nghèo khổ.          

Trong tác phẩm đã thể hiện được nỗi khổ của những người nông dân trước cách mạng họ chịu bao cực khổ, và cái nghèo đói đã đang bủa vay lấy cuộc đời của họ, nhưng chị Dậu là một sức mạnh biểu hiện đã biết đứng lên đấu tranh chống lại cái ác cái xấu để bảo vệ cuộc sống của họ, họ là những con người đại diện cho những sức mạnh to lớn của dân tộc Việt Nam, có áp bức có đấu tranh, chống lại những sự tàn bạo của bọn chúng.

Phân tích đoạn trích Tức nước vỡ bờ trong tác phẩm Tắt đèn của Ngô Tất Tố – Bài làm 3

Đoạn trích “Tức nước vỡ bờ “ đã đồng hành cùng sách giáo khoa văn học, chương trình phổ thông hàng nửa thế kỷ nay. Từ sách giáo khoa “Trích giảng văn học”, “Văn học” đến bây giờ là “ Ngữ văn” đoạn văn vẫn nguyên vẹn về cấu trúc cũng như vị trí trong chương trình. Tính giáo khoa của nó hình như chưa làm cho ai phải phân vân bởi thực chất đây là một đoạn văn bản rất có giá trị về nội dung, nghệ thuật, khoa học ngôn ngữ…Trong chương trình sách giáo khoa THCS đổi mới, đoạn văn có thể khai thác được nhiều khía cạnh khác nhau cả ba phân môn Văn học, Tập làm văn, Tiếng Việt.v.v. nhất là đoạn từ “ người nhà Lý trưởng hình như không dám” đến “ ngã nhào ra thềm” , đoạn kể “chị Dậu đánh nhau với tên Cai lệ”.

Nhà Phê bình văn học Vũ Ngọc Phan cho đây “ là một  đoạn tuyệt khéo”.

Vận dụng những kiến thức chương trình Ngữ văn THCS đổi mới ta thử lý giải.

1.Đoạn văn là một đoạn tự sự, một đoạn kể chuyện đặc sắc.

Đoạn văn mô tả hợp lý, đúng quy luật “ con giun xéo lắm phải quằn”, từ “tức nước” đến “vỡ bờ” là quá trình tất yếu: Các nhân vật được đặt vào tình huống đặc biệt. Hai nhân vật, hai tuyến…Cuộc chiến bất người đã bộc lộ  những hiện thực: Tương quan giữa hai con người, “ người đàn bà lực điền” – “người nhà nước”, hai lực lượng nông dân- công cụ đàn áp của giai cấp phong kiến. Một chân lý cuộc sống ” ở đâu có áp bức, đấy có đấu tranh” được trình bày bằng một màn kịch ngắn hết sức giản dị. Đây là đoạn tự sự có tính tư tưởng cao, phản ánh một phần chủ đề tác phẩm.

Một đoạn văn ngắn có chuyện, chủ đề rõ ràng, có nhân vật chính, nhân vật phụ, có cốt có mâu thuẩn, có thắt nút, mở nút, có cao trào…Chuuyện diễn biến bất ngờ, hấp dẫn…trong một tình huống bất ngờ bản chất của hiện thực được phát lộ cũng thật bất ngờ: Người đàn bà nông dân đã đánh ngã “ người nhà nước” và “ người nhà Lý trưởng”.

Các phương thức biểu đạt như tự sự, miêu tả, biểu cảm được sử dụng linh hoạt. Các nhân vật được khắc hoạ rất đậm nét cả sắc thái tình cảm, thái độ, tư thế …Nhân vật chính, nhân vật phụ đều được miêu tả rất cụ thể trong từng tình huống. Chị Dậu thì “xám mặt”, “đỡ lấy tay”, khi cầu xin; “liều mạng cự lại” ,”nghiến chặt hai hàm răng” rồi “ túm lấy cổ  hắn ấn dúi ra cửa” khi “không chịu được”. Nhân vật phụ của vở kịch cũng được đặc tả rất thành công công cụ đàn áp vô lương được miêu tả bằng cơn cuồng nộ của một hung thần với một loạt động thái : “đùng đùng”, “giật phắt”,”sầm sập”, “sấn đến”…Thế nhưng chỉ một cái “duí” của “người đàn bà lực điền” thì hắn “chạy không kịp” , “ngã chỏng quèo”, “miệng nham nhảm thét trói vợ chồng ke thiếu sưu”…Ngoài ra đoạn văn còn một phương tiện biểu cảm khác: dấu câu, đoạn văn sử dụng 5 dấu cảm.

Phép tương phản được sử dụng tài tình. Trong một nhân vật cũng chứa đựng sự tương phản: thái độ chị Dậu ở đầu và cuối màn kịch. Hành động và sức vóc của cai lệ. Hai nhân vật trong màn kịch đối lập tuyệt đối về vị thế xã hội, vị thế trong màn kịch, trong hành động, trong phát ngôn, trong tính cách, trong bản chất…khắc hoạ sâu thêm mâu thuẩn vở kịch  ngắn: ‘Tức nứơc vỡ bờ”.

Ngôn ngữ tự sự giản dị; lời thoại ngắn gọn, khúc chiết; lời kể trong sáng gần với khẩu ngữ và rất biểu cảm, nhất là từ  miêu tả, từ láy tượng hình, động từ, tính từ, phó từ…sử dụng rất tốt trong kể và tả. Câu văn ngắn, nhân vật hành động tạo nên nhịp điệu gấp gáp, liên tục tạo không khí kịch…Đặc sắc nhất là cách sử dụng linh hoạt các đại từ nhân xưng tạo nên giọng văn hài hứơc, hóm hỉnh: một chị Dậu tự xưng là “cháu”, là “tôi”, là “bà”, hạ đối thủ từ “ông” xuống “mày”. Người kể chuyện thay đổi cách gọi nhân vật của mình liên tục. Chị Dậu, khi thì “chị”, khi” người đàn bà lực điền” hay “chị chàng con mọn”. Cai lệ khi hung hăng đánh trói thì được gọi là “hắn”, Đến khi bị chị Dậu xô ngã  dúi ra cửa thì được gọi là “anh chàng nghiện” . “Người nhà Lý trưởng” được thay thế bằng “anh chàng hầu cận ông lý” khi bị” chị chàng con mọn lẳng cho một cái”…tất cả những cái đó góp phần tạo nên sắc thái của đoạn tự sự.

Người kể chuyện ( ngôi thứ ba) rất khách quan. đứng ngoài cuộc quan sát, thuật lại chính xác những gì vốn có như nó xẩy ra  trong tưởng tượng…Không thêm thắt, không đánh giá, không bình luận, chỉ kể và tả thôi nhưng vẫn thấy rất rõ thái độ ngươì viết: một nụ cười hóm hỉnh, một cái nhìn nồng hậu với chị Dậu, một nụ cười mĩa mai cho cai lệ và người nhà lý trưởng. Ông hả hê với khám phá của mình. Sự hả hê đó được truyền cho người đọc.

2.Đoạn văn mô tả được một nhân vật văn học thật dẹp.

Hình ảnh nhân vật chị Dậu có tầm vóc tư thế của một giai cấp, một thời đại.

Người Phụ nữ nông dân có vẽ đẹp của người phụ nữ Việt Nam truyền thống: Yêu chồng, thương con, nhẫn nhục, chịu đựng và sẵn sàng vùng lên đấu tranh để bảo vệ chồng con . Khi thấy chồng có nguy cơ bị đánh, trói chị hạ mình : “xám mặt” “vội vàng”, “ lạy” van xin. Khi thấy chồng bị hành hạ đến mức không chịu được chị “liều mạng cự lại” , “nghiến chặt hai hàm răng”…Chị Dậu biết tình thế của mình và chọn cách xử lý các tình huống hợp lý. Chị xin, chị đôi co, rồi bất ngờ vùng lên bằng sức mạnh quật khởi. Có thể xem đây là hành động tự khám phá, một cuộc đấu tranh tự giải phóng (dù tự  phát). Chính vì thế mà “Tắt đèn xui người ta nổi loạn” ( Nguyễn Tuân)

Đằng sau hình ảnh người đàn bà con mọn là vẽ đẹp thể chất cường tráng. Nó phản ánh qua nội lực của những hành động phản kháng dứt khoát, mạnh mẽ, ngoan cường. Hành động thách thức cường quyền :“ Mày trói chồng bà đi, bà cho mày xem”, hành động đấu tranh quyết lịêt, tự phát hoang dã: “ chị túm lấy cổ hắn ấn dúi ra cửa”…

Vẽ đẹp mang tính biểu tượng: một tư thế mạnh mẽ, một thái độ dứt khoát, một lời thách thức quyết liệt của nhân vật chị Dậu chính là sức mạnh hiện thực của người đàn bà nông dân. Là sự dự báo về tiềm năng sức mạnh đấu tranh tự giải phóng của một tầng lớp, một giai cấp bị áp bức trong tương lai.

Đoạn văn là một đoạn hội thoại mẫu mực .

Trong mười hai câu ngữ pháp thì có đến năm câu nói, năm lượt lời. Hành động sản sinh liên tục các sản phẩm lời nói với những mục đích khác nhau. Chị Dậu với ba lượt lời vừa trình bày “nhà cháu vừa mới tỉnh được một lúc” vừa cầu khiến “ cháu van ông…ông tha cho !”, “chồng tôi đau ốm ông không được phép hành hạ” vừa đe doạ,thách thức , bộc lộ cảm xúc: “ mày trói chồng bà đi , bà cho mày xem” . Lời qua tiếng lại tạo nên không khí căng thẳng, đẩy nhanh tốc độ diễn biến sự việc. Ngôn ngữ bộc lộ rõ nét thái độ, tình cảm của nhân vật trong từng tình huống. Hành động nói được kết hợp với  hành động khác của nhân vật thúc đẩy xung đột lên đến đỉnh điểm.

Đoạn văn cũng là đoạn đối thoại đặc sắc. Hai nhân vật có hai kiểu phát ngôn phù hợp với mục đích giao tiếp và vai giao tiếp. Một chị Dậu hiểu rất rõ vị thế của mình trong từng tình huống: hạ mình để cầu xin “ cháu van ông, nhà cháu vừa mới tỉnh được một lúc, ông tha cho” , chị lý sự “ chồng tôi đau ốm , ông không được phép hành hạ” , chị thách thức, hăm doạ “ mày trói chồng bà đi , bà cho mày xem” …chỉ bằng những lời  thoại ta thấy rất rõ là “ ngưòì đàn bà lực điền” nhún nhường khi tình thế bắt buộc nhưng cũng rất tự tin trong cuộc chiến bảo vệ chồng con. Chị thay đổi cách xưng hô tức cũng chủ động thay đổi “vai” cuả mình theo cảm xúc, theo thái độ ứng xử mà tình thế thúc đẩy: từ “ cháu” lên “bà “. Một tên cai lệ hung hăng,  vũ phu, ỷ thế làm càn với những hành động “ giật phắt”, “ nhảy” , “ sầm sập chỉ một lời nói cộc lốc : “tha này! tha này!” bổng chốc trở nên yếu thế , dưới cơ trong cách gọi của chị Dậu “Mày trói chồng bà đi bà cho mày xem!” .Qua ngôn ngữ hội thoại ta thấy được tư thế của hai nhân vật , đại diện cho hai lực lượng . Ngôn ngữ hội thoại bộc lộ rõ thái độ , tình cảm, vị thế , tính cách nhân vật.

Đoạn văn còn là ngữ liệu cho các kiến thức khác trong từ ngũ, ngữ pháp bởi tính mẫu mực về dùng từ, đặt câu… nói cách khác đây là đoạn văn tích hợp được nhiều kiến thức của môn Ngữ văn và sử dụng có hiệu quả trong giảng dạy ngữ văn chương trình THCS.

Từ khóa từ Google

0