Nhược Ngu thiền sư 若愚禪師 (1055-1126) sinh năm Ất Mùi, niên hiệu Chí Hoà thứ 2 đời vua Nhân Tông triều Bắc Tống, quê ở Hải Diêm. Sư tục danh họ Mã 碼, tên chữ là Tử Phát 子發, hiệu là Túc Thành 肅成, được vua ban hiệu là Pháp Giám 法鑒, thuộc đời thứ 20 tông Thiên Thai, thế hệ thứ tư dòng phái tổ Từ Vân Tuân Thức (964-1032), Sư là đệ tử đắc pháp của pháp sư Nguyên Tịnh. Lúc đầu, Sư học đắc đạo với pháp sư Phạm Trăn (?-1103) ở chùa Hưng Giáo tại Nam Bình, nhưng chưa thành tựu sở nguyện. Năm Mậu Thìn (1088), niên hiệu Nguyên Hữu thứ 3 đời vua Triết Tông, Sư đã được 34 tuổi, đến chùa Giác Hải ở Hồ Châu, mường tượng như dạo chơi chốn cũ, nên theo pháp sư Biện Tài Nguyên Tịnh (1012-1091) học tu giáo phái Thiên Thai. Tiếng tăm đạo đức ngày càng cao. Sau đó Sư lãnh giày và gậy của pháp sư Nguyên Tịnh, lui về Long Tỉnh ẩn cư sáu năm, kết bạn tâm giao với pháp sư Tham Liêu, chẳng cầu người biết. Về sau, Sư trở về trụ trì chùa Tiêu Đàm ở Hồ Châu, xây dựng điện đường để lo tiếp độ mọi người. Trong khuôn viên chùa kiến tạo toà lầu cao rộng, gọi là Vô Lượng Thọ Phật Các, thờ tượng Phật A Di Đà, kết Tịnh Xã nhằm khuyến hoá hàng tại gia và xuất gia, hằng ngày nhóm họp mấy trăm người, chuyên cần niệm Phật suốt ba mươi năm. Những người tham gia Tịnh Xã cầu nguyện mong Phật tiếp độ, là điềm tốt lành nhất, lúc lâm chung phần nhiều đều cảm điềm lành. Có kẻ đem đạo hạnh của Sư tấu trình lên triều đình, vua ban cho hiệu Pháp Giám Đại Sư. Đương thời có bạn đồng môn là sư đệ Linh Sơn Tắc Chương, kết liên hữu với Sư tu tịnh hạnh. Sau khi pháp sư Tắc Chương quy tịch, Sư mộng thấy thần nhân nói: "Bạn đồng học của Sư là Tắc Chương chứng được Phổ Hiền Hạnh Nguyện Tam Muội, đã vãng sanh về Tịnh độ. Tắc Chương đang đợi chờ, tại sao lại chần chừ mãi?". Tỉnh giấc, Sư tắm gội, thay y phục, rồi tập hợp chúng tụng "Quán Kinh", tự ngồi kiết già đoan chỉnh lặng nghe, vừa mới xong, bèn nói: "Cảnh Tịnh độ cùng Thánh chúng hiện rõ trước mặt, ta sắp đi đây!", rồi cầm bút viết kệ, viết xong an nhiên thoát hoá, thế thọ 72 tuổi, lúc bấy giờ nhằm tháng 9 năm Bính Ngọ. Trước tác: "Cốc Am dư trần" 谷菴餘塵 (đã thất truyền).
Nhược Ngu thiền sư 若愚禪師 (1055-1126) sinh năm Ất Mùi, niên hiệu Chí Hoà thứ 2 đời vua Nhân Tông triều Bắc Tống, quê ở Hải Diêm. Sư tục danh họ Mã 碼, tên chữ là Tử Phát 子發, hiệu là Túc Thành 肅成, được vua ban hiệu là Pháp Giám 法鑒, thuộc đời thứ 20 tông Thiên Thai, thế hệ thứ tư dòng phái tổ Từ Vân Tuân Thức (964-1032), Sư là đệ tử đắc pháp của pháp sư Nguyên Tịnh. Lúc đầu, Sư học đắc đạo với pháp sư Phạm Trăn (?-1103) ở chùa Hưng Giáo tại Nam Bình, nhưng chưa thành tựu sở nguyện. Năm Mậu Thìn (1088), niên hiệu Nguyên Hữu thứ 3 đời vua Triết Tông, Sư đã được 34 tuổi, đến chùa Giác Hải ở Hồ Châu, mường tượng như dạo chơi chốn cũ, nên theo pháp sư Biện Tài Nguyên Tịnh (1012-1091) học tu giáo phái Thiên Thai. Tiếng tăm đạo đức ngày càng cao. Sau đó Sư lãnh giày và gậy của pháp sư Nguyên Tịnh, lu…