Những vấn đề chung về vật liệu và công cụ dụng cụ
Trong cơ chế thị trường tự do cạnh tranh, hoạt động của doanh nghiệp phải gắn liền với thị trường. Doanh nghiệp phải căn cứ vào thị trường để giải quyết then chốt vấn đề cái gì? cho ai? chi phí bao nhiêu? và việc phối hợp các yếu tố một cách ...
Trong cơ chế thị trường tự do cạnh tranh, hoạt động của doanh nghiệp phải gắn liền với thị trường. Doanh nghiệp phải căn cứ vào thị trường để giải quyết then chốt vấn đề cái gì? cho ai? chi phí bao nhiêu? và việc phối hợp các yếu tố một cách tối ưu. Vì quá trình sản xuất của doanh nghiệp chính là sự kết hợp đồng bộ giữa tư liệu với lao động sản xuất để tạo ra sản phẩm. Mặt khác, doanh nghiệp cần phải nắm được các yếu tố đầu vào và tình trạng chi phí sản xuất để tối đa hoá lợi nhuận.
Trong quá trình sản xuất sản phẩm, việc phát sinh chi phí là một tất yếu. Hoạt động sản xuất chỉ có thể tiến hành khi có đủ ba yếu tố: tư liệu lao động, đối tượng lao động và sức lao động. Sự tham gia của ba yếu tố này vào quá trình sản xuất, làm hình thành những chi phí tương ứng: chi phí khấu hao tư liệu lao động, chi phí nguyên vật liệu và chi phí tiền lương lao động. Đó chính là ba yếu tố cấu thành giá trị sản phẩm.
Quá trình tạo ra giá trị sản phẩm là sự kết hợp, tương tác của ba yếu tố: con người có sức lao động sử dụng tư liệu lao động tác động vào đối tượng lao động. Trong các doanh nghiệp sản xuất, vật liệu là đối tượng lao động, còn công cụ, dụng cụ là một phần của tư liệu lao động, chi phí về nguyên vật liệu chiếm tỷ trọng lớn trong giá thành sản phẩm, và là bộ phận dự trữ quan trọng nhất của xí nghiệp.
Khác với TSCĐ vật liệu chỉ tham gia vào một chu kỳ sản xuất nhất định, giá trị của nó chuyển hết một lần vào giá trị thành phẩm làm ra. Trong quá trình sản xuất dưới sự tác động của lao động thông qua tư liệu lao động, vật liệu bị tiêu hao hoàn toàn hoặc bị biến đổi hình thái vật chất ban để cấu thành hình thái vật chất của sản phẩm.
Công cụ, dụng cụ thuộc vào tư liệu lao động, nhưng nó không đủ tiêu chuẩn (về thời gian và giá trị qui định) là TSCĐ. Tuy vậy, nó vẫn có những đặc điểm tương tự như TSCĐ đó là: có thể tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất kinh doanh mà vẫn giữ nguyên hình thái giá trị vật chất ban đầu đến khi hỏng, nó chỉ bị hao mòn dần và giá trị của nó được chuyển dần vào chi phí sản xuất kinh doanh.
Do vật liệu có vai trò quan trọng trong sản xuất, cho nên xí nghiệp cần thiết phải tổ chức tốt việc quản lý và hạch toán các quá trình thu mua, vận chuyển, bảo quản, dự trữ và sử dụng vật liệu. Việc tổ chức tốt công tác hạch toán vật liệu là điều kiện quan trọng không thể thiếu được trong việc quản lý vật liệu, thúc đẩy việc cung cấp kịp thời, đồng bộ, kiểm tra, giám sát việc chấp hành các định mức dự trữ, tiêu hao vật liệu, ngăn ngừa các hiện tượng hư hao mất mát, lãng phí qua các khâu của quá trình sản xuất. Qua đó góp phần giảm bớt chi phí, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động, hạ giá thành sản phẩm.
Do công cụ, dụng cụ có giá trị nhỏ hao mòn nhanh, chóng hư hỏng, nên đòi hỏi phải thay thế thường xuyên. Cùng với vật liệu, công cụ, dụng cụ trở thành tài sản lưu động (TSLĐ) của doanh nghiệp. Chính những đặc điểm này của công cụ, dụng cụ đã làm cho việc quản lý và hạch toán công cụ, dụng cụ không hoàn toàn giống như hạch toán và quản lý TSCĐ cũng như vật liệu.
Vật liệu
Điều kiện để tổ chức quản lý và hạch toán vật liệu có hiệu quả
- Doanh nghiệp phải có đủ hệ thống kho tàng bảo quản, tại kho phải được trang bị đầy đủ các phương tiện bảo quản và dụng cụ cân, đo, đong, đếm.
- Phải có định mức dự trữ vật liệu phù hợp ở mức cần thiết tối đa, tối thiểu. Vật liệu phải được sắp xếp gọn gàng, thuận tiện.
- Về mặt nhân sự, cần có nhân viên bảo vệ và thủ kho phải có nghiệp vụ thích hợp với công việc.
- Cần thực hiện đầy đủ các qui định, lập sổ danh điểm vật liệu, thủ tục lập và luân chuyển chứng từ, mở các sổ sách tổng hợp và chi tiết vật liệu theo chế độ qui định.
- Thực hiện tốt việc kiểm tra, kiểm kê đối với vật liệu, xây dựng chế độ trách nhiệm vật chất công tác quản lý và sử dụng vật liệu.
Nhiệm vụ của hạch toán vật liệu
- Phải phản ánh chính xác, kịp thời số lượng, chất lượng và trị giá thực tế của vật liệu thu mua nhập kho.Từ đó kiểm tra và giám sát tình hình thực hiện kế hoạch cung ứng vật tư, kỹ thuật phục vụ cho sản xuất và các khoản thu mua khác.
- Tập hợp và phản ánh đầy đủ, chính xác số lượng, giá trị vật liệu xuất kho, vật liệu thực tế tiêu hao cho sản xuất, phân bổ cho các đối tượng sử dụng, góp phần kiểm tra tình hình thực hiện định mức tiêu hao, sử dụng vật liệu.
- Xác định và phản ánh chính xác số lượng và giá trị vật liệu tồn kho, kiểm tra việc chấp hành đúng các định mức dự trữ vật liệu, phát hiện kịp thời nguyên nhân thừa, thiếu, ứ đọng và mất phẩm chất của vật liệu.
Công cụ, dụng cụ
Nhiệm vụ của việc hạch toán công cụ, dụng cụ là: Phải theo dõi chính xác, kịp thời, đầy đủ tình hình nhập-xuất-tồn về mặt chất lượng, số lượng của từng loại công cụ, dụng cụ. Do đặc điểm của công cụ, dụng cụ cho nên khi xuất dùng, phòng kế toán và đơn vị sử dụng phải mở sổ sách theo dõi cho đến khi hỏng. Đơn vị sử dụng phải phản ánh số lượng, hiện trạng của từng loại theo từng thời điểm, từng người sử dụng.
Để thực hiện được mục đích trên, tại các kho của phân xưởng phải mở các sổ, thẻ theo dõi tình hình cho mượn, cho thuê,...Khi công cụ, dụng cụ hỏng phải báo ngay và cùng với công cụ, dụng cụ hỏng mang đến để nhận cái mới.
Do khối lượng công cụ, dụng cụ trong một doanh nghiệp không lớn, thường được phân bổ rải rác ở các phân xưởng, văn phòng hành chính. Hơn nữa, để dễ cung cấp, cho nên việc dự trữ và bảo quản không chi tiết như vật liệu. Trên thực tế công cụ, dụng cụ thường được bố trí cùng với kho vật liệu để tận dụng đươc các phương tiện bảo quản của vật liệu.
Phân loại vật liệu và công cụ, dụng cụ
Vật liệu và công cụ, dụng cụ sử dụng trong xí nghiệp có rất nhiều loại (đặc biệt là vật liệu), cho nên để tổ chức tốt công tác quản lý và hạch toán vật liệu và công cụ, dụng cụ cần thiết phải phân loại.
Phân loại vật liệu và công cụ, dụng cụ là việc xắp xếp các vật liệu và công cụ, dụng cụ cùng loại với nhau nhau theo một đặc trưng nhất định thành từng nhóm.
Trên thực tế, vật liệu thường được phân loại thành từng nhóm theo các tiêu thức khác nhau như: theo công dụng, theo nguồn hình thành, quyền sở hữu....
Phân loại theo công dụng và tình hình sử dụng
Phân loại vật liệu theo phương pháp này là việc dựa vào công dụng thực tế hoặc vai trò của vật liệu trong sản xuất kinh doanh để sắp xếp vật liệu vào các nhóm khác nhau.
- Nhóm1: Nguyên vật liệu chính: Là những loại nguyên, vật liệu chiếm tỷ trọng lớn trong tổng chi phí sản xuất kinh doanh. Vật liệu giữ vai trò chính trong việc tạo ra sản phẩm, dịch vụ.
- Nhóm 2: Vật liệu phụ: Là những vật liệu có tác dụng phụ trợ trong quá trình sản xuất kinh doanh, vật liệu phụ kết hợp với vật liệu chính để tăng thêm tính năng, tác dụng của sản phẩm, dịch vụ hoặc phục vụ cho người lao động, hoăc để duy trì hoạt động bình thường của phương tiện lao động.
- Nhóm 3: Nhiên liệu: Là những thứ dùng để cung cấp nhiệt năng như: xăng, dầu, than... Nhiên liệu thực chất là một loại vật liệu phụ, nhưng được tách riêng do vai trò quan trọng của nó, và để nhằm mục đích quản lý và hạch toán tốt hơn.
- Nhóm 4: Phụ tùng thay thế: Bao gồm các chi tiết, cụm chi tiết, hay các bộ phận dùng để thay thế cho TSCĐ khi cần thiết như: bánh xe, săm lốp...
- Nhóm 5: Vật liệu thiết bị xây dựng cơ bản: Bao gồm toàn bộ vật liệu, thiết bị dùng cho mục đích xây dựng cơ bản.
- Nhóm 6: Vật liệu
- 1 Những phát hiện về vạn vật /Phần 10 - Chương 47
- 2 Vào/Ra với Stream trong Java
- 3 Quá trình quá độ trong mạch điện đơn giản
- 4 Dạng thuốc
- 5 Quy luật biến đổi độ tin cậy theo thời gian sử dụng ôtô
- 6 Ăn thịt đồng loại
- 7 Ứng dụng lâm sàng của từ tâm đồ
- 8 Nhiệt kế điện trở
- 9 Kết luận về lược sử thời gian
- 10 Những cơ sở để ra quyết định