Những trận hải chiến nổi tiếng trong lịch sử- Phần 4
Phần 4 : Những trận hải chiến nổi tiếng thời cận đại – Châu Mỹ thế kỷ 19 Biên dịch : hongsonvh Trận hải chiến Hamptom Roads Một bức tranh vẽ cuộc cảnh chiếc Monitor hạ gục chiếc USS Cumberland Ngày 08 — > 09 tháng 3 năm 1862 Vị trí Ngoài khơi Sewell Point, Gần ...
Phần 4 : Những trận hải chiến nổi tiếng thời cận đại – Châu Mỹ thế kỷ 19
Biên dịch : hongsonvh
Trận hải chiến Hamptom Roads
Ngày 08 — > 09 tháng 3 năm 1862
Vị trí Ngoài khơi Sewell Point, Gần cửa sông Hampton Roads, bang Virginia
Kết quả Không có chiến thắng quyết định, cả hai bên đều tuyên bố chiến thắng
Các bên tham chiến
Liên bang Hoa Kỳ USS (Miền Bắc)
Chỉ huy
Louis M. Goldsborough (không xuất hiện)
John Marston (sĩ quan cao cấp nhất lúc đó)
Sức mạnh
1 tầu thiết giáp – ironclad
5 tàu khu trục gỗ
Thương vong và thiệt hại
261 thiệt mạng
108 người bị thương
1 tàu khu trục nhỏ chìm
1 thông báo hạm chìm
1 tàu khu trục nhỏ bị hư hỏng
Hợp bang ly khai CSA (Miền Nam)
Chỉ huy
Franklin Buchanan
Catesby ap Roger Jones
Sức mạnh
1 tầu thiết giáp – ironclad
2 tàu chiến gỗ
1 pháo hạm
2 tầu vận tải
Thương vong và thiệt hại
7 bị giết
17 bị thương
1 tầu ironclad bị hư hỏng
Khái quát về bối cảnh lịch sử của cuộc nội chiến Hoa Kỳ năm 1861-1865
Năm 1861 Abraham Lincoln đắc cử tổng thống và muốn thay đổi dự luật để xóa bỏ thể chế nô lệ. Trước ngày ông nhậm chức, bảy tiểu bang miền nam Hoa Kỳ phản đối chính sách cởi mở này và tuyên bố ly khai chính phủ liên bang, thành lập chính phủ riêng do Jefferson Davis làm tổng thống. Chính quyền Abraham Lincoln không công nhận chính phủ Hợp bang miền Nam này. Khi quân miền Nam tấn công đồn Sumter, Nội chiến Hoa Kỳ bùng nổ và thêm 4 tiểu bang khác gia nhập phe miền nam chống lại lực lượng Liên bang miền Bắc.
Cuộc phân tranh Nam-Bắc kéo dài 4 năm và chấm dứt khi quân miền Nam đầu hàng năm 1865.
Trong năm đầu của cuộc chiến, quân Liên bang miền Bắc chiếm đóng và kiểm soát dọc biên giới các tiểu bang, đồng thời phong tỏa mặt biển. Hai bên thi nhau tăng cường quân lực. Những cuộc đụng độ đẫm máu bắt đầu từ năm 1862. Sau trận đánh tại Antietam vào tháng 9 năm 1862, Lincoln đọc bản Tuyên ngôn Giải phóng Nô lệ, coi việc trả tự do cho nô lệ là mục tiêu chính yếu. Mặc dù lúc đó có nhiều phe phái bên trong chính phủ vẫn còn ủng hộ thể chế nô lệ, họ phải đồng ý với tuyên cáo này vì an ninh của chính phủ liên bang. Bản Tuyên ngôn đã làm cho Anh và Pháp khó lấy cớ ủng hộ quân miền Nam. Cũng nhờ tuyên cáo giải phóng nô lệ mà quân miền Bắc chiêu mộ được một lực lượng khá đông đảo là binh lính Mỹ gốc Phi. Trong khi đó miền Nam không muốn quân đội của họ có sắc dân gốc Phi.
Trong các trận đánh dọc sông Potomac, tướng miền Nam Robert Edward Lee đạt nhiều thắng lợi ở Mặt trận miền Đông. Viên tướng giỏi của ông là Stonewall Jackson bị thiệt mạng trong trận Chancellorsville vào tháng 5 năm 1863. Lee tiến quân lên miền Bắc nhưng bị đánh bại trong trận chiến trứ danh tại Gettysburg – suýt chút nữa Lee bị bắt nhưng may mắn lắm mới chạy thoát về Virginia.
Về Tây, quân miền Bắc chiếm được cảng New Orleans năm 1862. Tướng miền Bắc là Ulysses S. Grant đem quân chiếm Vicksburg, khống chế sông Mississippi vào tháng 7 năm 1863 – cắt đôi lực lượng miền Nam.
Đến năm 1864, quân miền Bắc với nhiều lợi thế về địa hình, quân lực, kỹ nghệ, tài chánh, kế hoạch chính trị và tiếp vận bắt đầu chiếm ưu thế đối với quân miền Nam. Hai tướng Grant và Lee đánh nhau nhiều trận khốc liệt tại vùng Virginia trong mùa hè 1864. Tuy chiến thắng về mặt chiến thuật, Tướng Lee lại thua về mặt chiến lược vì quá hao binh tổn khí – do đó phải rút về Richmond đóng giữ trong các tuyến chiến hào. Trong lúc đó, tướng miền Bắc William Tecumseh Sherman chiếm được Atlanta thuộc tiểu bang Georgia và tiến thẳng ra bờ biển, phá vỡ vòng đai cố thủ của Georgia.
Năm 1865, Tướng Lee ký văn kiện đầu hàng tại tòa án địa phương của Appomattox, Virginia- đây là thời điểm chấm dứt cuộc chiến tương tàn giữa hai miền Nam Bắc nước Mỹ và cũng là thời điểm khởi đầu công cuộc giải phóng nô lệ tại đất nước này.
Thời kỳ hậu chiến là những năm hồi phục khó khăn. Hậu quả của cuộc phân tranh là 970.000 người chết, trong đó 620.000 là binh lính, gần hai phần ba do bệnh tật. Cho đến nay nhiều người Mỹ vẫn còn tiếp tục tranh cãi về những khía cạnh của cuộc chiến tàn khốc này.
Bối cảnh chung của trận đánh Hampton Roads
Trận Hampton Roads, còn được gọi là Trận Monitor hoặc Merrimack, là trận hải chiến đáng chú ý nhất và quan trọng nhất trong cuộc Nội chiến Hoa Kỳ theo quan điểm về sự phát triển của hải quân. Trận đánh diễn ra trong hai ngày, Ngày 08-09 Tháng Ba, 1862, tại Hampton Roads, một vũng sông tại Virginia, nơi các con sông Elizabeth và Nansemond gặp con sông James ngay trước khi nó đổ vào Vịnh Chesapeake. Trận đánh là một phần của nỗ lực của lực lượng Hợp bang Miền Nam nhằm để phá bỏ phong tỏa của Liên Bang Miền Bắc, mà cuộc phong tỏa này vốn đã cô lập các thành phố lớn nhất của bang Virginia, như Norfolk và Richmond, với thương mại quốc tế.
Ý nghĩa chính của trận đánh là trận đụng độ đầu tiên của các tàu chiến lớp ironclad. Hạm đội của Hợp bang gồm tầu lớp ironclad CSS Virginia (Merrimack) có trang bị Ram, và một số tàu hỗ trợ. Vào ngày đầu tiên của trận đánh, họ đã bị tấn công bởi một số tàu vỏ gỗ quy ước (loại được sử dụng bởi lực lượng chính quy) của Hải quân Liên bang. Vào ngày này, Virginia đã phá hủy hai tàu của Hạm đội Liên bang và đe dọa chiếc thứ ba, làm chiếc USS Minnesota phải bỏ chạy và bị mắc cạn. Cuộc tấn công này bị tạm dừng bởi bóng tối và thủy triều xuống, do đó, chiếc Virginia đã quay về nghỉ để chăm sóc những người bị thương của nó bao gồm cả viên thuyền trưởng, Sỹ quan Franklin Buchanan và sửa chữa hư hỏng tối thiểu của nó trong trận đánh.
Quyết định để hoàn tất việc tiêu diệt chiếc Minnesota, Catesby ap Roger Jones, với vai trò thay thế thuyền trưởng vắng mặt Buchanan, đã cho con tàu quay trở lại vào sáng hôm sau, 09 tháng 3. Tuy nhiên, trong buổi đêm hôm đó chiếc ironclad USS Mornitor đã đến và chiếm một vị trí để bảo vệ chiếc USS Minnesota. Khi chiếc Virginia tiếp cận, chiếc Monitor ra chặn nó lại. Hai chiếc tầu lớp ironclad chiến đấu với nhau trong khoảng ba giờ đồng hồ mà không thể gây được thiệt hại đáng kể nào khác cả. Trận đánh đã kết thúc mà không có thắng lợi quyết định thuộc về bên nào, chiếc CSS Virginia quay về căn cứ của mình ở ụ tầu Hải quân Gosport Yard để sửa chữa và tăng cường, và chiếc USS Monitor cũng quay về để bảo vệ chiếc Minnesota. Cả hai chiếc tàu đã không tấn công nhau thêm một lần nào nữa, và cuộc phong tỏa vẫn tiếp diễn.
Trận đánh đã nhận được sự quan tâm của toàn thế giới, và nó có tác dụng ngay lập tức đến lực lượng hải quân của tất cả các quốc gia. Các cường quốc về hải quân như Anh và Pháp ngừng ngay việc đóng thêm các tàu vỏ gỗ, và họ lại bị bắt chiếc bởi tất cả những nước khác. Họ sản xuất một loại tàu chiến mới, chiếc Monitor, Dựa trên thiết kế của bản gốc. Việc sử dụng ít súng nhưng súng phải cực lớn, có khung giá súng và có thể nổ súng về tất cả các hướng, lần đầu tiên đã chứng minh bởi chiếc Monitor, sớm trở thành chuẩn của tất cả các loại tàu chiến. Các công ty đóng tàu cũng kết hợp cả Ram vào trong thiết kế của vỏ tàu chiến ở phần còn lại của thế kỷ này ( cuối TK19).
Chuẩn bị phong tỏa Norfolk
Ngày 19 tháng 4 năm 1861, ngay sau khi các hành động thù địch nổ ra tại Charleston Harbor, tổng thống Abraham Lincoln tuyên bố tién hành một cuộc phong tỏa nhắm tới tất cả các cảng của các bang ly khai. Ngày 27 tháng 4, sau khi Virginia và Bắc Carolina cũng đã thông qua pháp lệnh ly khai, phong tỏa được mở rộng để bao vây các cảng của họ. Ngay cả trước khi có sự mở rộng của cuộc phong tỏa, quân địa phương (quân Hợp bang li khai) đã chiếm Norfolk và đe dọa Công xưởng Hải quân Gosport Yard. Chi? huy trươ?ng đó, Thuyền trưởng Charles S. McCauley, Mặc dù trung thành với Liên bang, đã không thể nhúc nhích được bởi ông nhận được lời khuyên từ nhân viên cấp dưới của mình, mà hầu hết trong số họ có cảm tình với phe ly khai. Mặc dù ông nhận được mệnh lệnh từ Bộ trưởng Hải quân Gideon Welles (phe Liên Bang) là phải di chuyển số tàu của ông đến cảng phía Bắc, ông đã từ chối để làm việc này cho đến ngày 20 tháng 4, khi ông lệnh đánh đắm các tàu trong Công xưởng và phá hủy các cơ sở của nó. Chín tàu bị đốt cháy, trong đó có chiếc frigate USS Merrimack. Một chiếc ( trong số các tàu khu trục nhỏ, chiếc Cumberland) được kéo đi thành công. Chiếc Merrimack bị đốt chỉ đến mực nước, tuy nhiên động cơ của nó còn ít nhiều còn nguyên vẹn. Việc tiêu hủy Công xưởng hải quân chủ yếu là không có hiệu quả, đặc biệt là ụ tầu lớn trên cạn tương đối không bị hư hại gì cả và sớm có thể được phục hồi. Không cần phải bắn một súng, phe chủ trương ly khai đã thu được một công xưởng hải quân lớn nhất cho họ, cũng như các thân tàu và động cơ và những gì sẽ tạo ra được chiếc tàu chiến nổi tiếng nhất trong thời gian này. Họ cũng đã bắt giữ hơn một nghìn khẩu súng hạng nặng, cộng thêm các toa chở súng và một lượng lớn thuốc súng.
Với Norfolk và Công xưởng hải quân của mình, Hợp bang kiểm soát phía nam của Hampton Roads. Để ngăn chặn đoàn tàu chiến của Liên bang tấn công vào công xưởng, họ thiết lập các khẩu đội pháo tại cứ điểm Sewell và đảo Craney, điểm nối của sông Elizabeth với sông James. (Xem bản đồ.) Liên bang duy trì sở hữu pháo đài Fort Monroe, ở cứ điểm Old Point Comfort trên bán đảo Virginia. Họ cũng đã xây một hòn đảo nhân tạo nhỏ được gọi là Raps Rip, về cạnh phía xa của kênh đối diện với pháo đài Fort Monroe, và trên hòn đảo này họ xây dựng một pháo đài, được đặt tên là Fort Wool. Với pháo đài Fort Monroe phe Liên bang đã đi kiểm soát phần thấp của bán đảo cũng như vùng Newport News.
Khái quát về bối cảnh lịch sử của cuộc nội chiến Hoa Kỳ năm 1861 ?” > 1865
Năm 1861 Abraham Lincoln đắc cử tổng thống và muốn thay đổi dự luật để xóa bỏ thể chế nô lệ. Trước ngày ông nhậm chức, bảy tiểu bang miền nam Hoa Kỳ phản đối chính sách cởi mở này và tuyên bố ly khai chính phủ liên bang, thành lập chính phủ riêng do Jefferson Davis làm tổng thống. Chính quyền Abraham Lincoln không công nhận chính phủ Hợp bang miền Nam này. Khi quân miền Nam tấn công đồn Sumter, Nội chiến Hoa Kỳ bùng nổ và thêm 4 tiểu bang khác gia nhập phe miền nam chống lại lực lượng Liên bang miền Bắc.
Cuộc phân tranh Nam-Bắc kéo dài 4 năm và chấm dứt khi quân miền Nam đầu hàng năm 1865.
Trong năm đầu của cuộc chiến, quân Liên bang miền Bắc chiếm đóng và kiểm soát dọc biên giới các tiểu bang, đồng thời phong tỏa mặt biển. Hai bên thi nhau tăng cường quân lực. Những cuộc đụng độ đẫm máu bắt đầu từ năm 1862. Sau trận đánh tại Antietam vào tháng 9 năm 1862, Lincoln đọc bản Tuyên ngôn Giải phóng Nô lệ, coi việc trả tự do cho nô lệ là mục tiêu chính yếu. Mặc dù lúc đó có nhiều phe phái bên trong chính phủ vẫn còn ủng hộ thể chế nô lệ, họ phải đồng ý với tuyên cáo này vì an ninh của chính phủ liên bang. Bản Tuyên ngôn đã làm cho Anh và Pháp khó lấy cớ ủng hộ quân miền Nam. Cũng nhờ tuyên cáo giải phóng nô lệ mà quân miền Bắc chiêu mộ được một lực lượng khá đông đảo là binh lính Mỹ gốc Phi. Trong khi đó miền Nam không muốn quân đội của họ có sắc dân gốc Phi.
Trong các trận đánh dọc sông Potomac, tướng miền Nam Robert Edward Lee đạt nhiều thắng lợi ở Mặt trận miền Đông. Viên tướng giỏi của ông là Stonewall Jackson bị thiệt mạng trong trận Chancellorsville vào tháng 5 năm 1863. Lee tiến quân lên miền Bắc nhưng bị đánh bại trong trận chiến trứ danh tại Gettysburg – suýt chút nữa Lee bị bắt nhưng may mắn lắm mới chạy thoát về Virginia.
Về Tây, quân miền Bắc chiếm được cảng New Orleans năm 1862. Tướng miền Bắc là Ulysses S. Grant đem quân chiếm Vicksburg, khống chế sông Mississippi vào tháng 7 năm 1863 – cắt đôi lực lượng miền Nam.
Đến năm 1864, quân miền Bắc với nhiều lợi thế về địa hình, quân lực, kỹ nghệ, tài chánh, kế hoạch chính trị và tiếp vận bắt đầu chiếm ưu thế đối với quân miền Nam. Hai tướng Grant và Lee đánh nhau nhiều trận khốc liệt tại vùng Virginia trong mùa hè 1864. Tuy chiến thắng về mặt chiến thuật, Tướng Lee lại thua về mặt chiến lược vì quá hao binh tổn khí – do đó phải rút về Richmond đóng giữ trong các tuyến chiến hào. Trong lúc đó, tướng miền Bắc William Tecumseh Sherman chiếm được Atlanta thuộc tiểu bang Georgia và tiến thẳng ra bờ biển, phá vỡ vòng đai cố thủ của Georgia.
Năm 1865, Tướng Lee ký văn kiện đầu hàng tại tòa án địa phương của Appomattox, Virginia- đây là thời điểm chấm dứt cuộc chiến tương tàn giữa hai miền Nam Bắc nước Mỹ và cũng là thời điểm khởi đầu công cuộc giải phóng nô lệ tại đất nước này.
Thời kỳ hậu chiến là những năm hồi phục khó khăn. Hậu quả của cuộc phân tranh là 970.000 người chết, trong đó 620.000 là binh lính, gần hai phần ba do bệnh tật. Cho đến nay nhiều người Mỹ vẫn còn tiếp tục tranh cãi về những khía cạnh của cuộc chiến tàn khốc này.
Bối cảnh chung của trận đánh Hampton Roads
Trận Hampton Roads, còn được gọi là Trận Monitor hoặc Merrimack, là trận hải chiến đáng chú ý nhất và quan trọng nhất trong cuộc Nội chiến Hoa Kỳ theo quan điểm về sự phát triển của hải quân. Trận đánh diễn ra trong hai ngày, Ngày 08-09 Tháng Ba, 1862, tại Hampton Roads, một vũng sông tại Virginia, nơi các con sông Elizabeth và Nansemond gặp con sông James ngay trước khi nó đổ vào Vịnh Chesapeake. Trận đánh là một phần của nỗ lực của lực lượng Hợp bang Miền Nam nhằm để phá bỏ phong tỏa của Liên Bang Miền Bắc, mà cuộc phong tỏa này vốn đã cô lập các thành phố lớn nhất của bang Virginia, như Norfolk và Richmond, với thương mại quốc tế.
Ý nghĩa chính của trận đánh là trận đụng độ đầu tiên của các tàu chiến lớp ironclad. Hạm đội của Hợp bang gồm tầu lớp ironclad CSS Virginia (Merrimack) có trang bị Ram, và một số tàu hỗ trợ. Vào ngày đầu tiên của trận đánh, họ đã bị tấn công bởi một số tàu vỏ gỗ quy ước (loại được sử dụng bởi lực lượng chính quy) của Hải quân Liên bang. Vào ngày này, Virginia đã phá hủy hai tàu của Hạm đội Liên bang và đe dọa chiếc thứ ba, làm chiếc USS Minnesota phải bỏ chạy và bị mắc cạn. Cuộc tấn công này bị tạm dừng bởi bóng tối và thủy triều xuống, do đó, chiếc Virginia đã quay về nghỉ để chăm sóc những người bị thương của nó bao gồm cả viên thuyền trưởng, Sỹ quan Franklin Buchanan và sửa chữa hư hỏng tối thiểu của nó trong trận đánh.
Quyết định để hoàn tất việc tiêu diệt chiếc Minnesota, Catesby ap Roger Jones, với vai trò thay thế thuyền trưởng vắng mặt Buchanan, đã cho con tàu quay trở lại vào sáng hôm sau, 09 tháng 3. Tuy nhiên, trong buổi đêm hôm đó chiếc ironclad USS Mornitor đã đến và chiếm một vị trí để bảo vệ chiếc USS Minnesota. Khi chiếc Virginia tiếp cận, chiếc Monitor ra chặn nó lại. Hai chiếc tầu lớp ironclad chiến đấu với nhau trong khoảng ba giờ đồng hồ mà không thể gây được thiệt hại đáng kể nào khác cả. Trận đánh đã kết thúc mà không có thắng lợi quyết định thuộc về bên nào, chiếc CSS Virginia quay về căn cứ của mình ở ụ tầu Hải quân Gosport Yard để sửa chữa và tăng cường, và chiếc USS Monitor cũng quay về để bảo vệ chiếc Minnesota. Cả hai chiếc tàu đã không tấn công nhau thêm một lần nào nữa, và cuộc phong tỏa vẫn tiếp diễn.
Trận đánh đã nhận được sự quan tâm của toàn thế giới, và nó có tác dụng ngay lập tức đến lực lượng hải quân của tất cả các quốc gia. Các cường quốc về hải quân như Anh và Pháp ngừng ngay việc đóng thêm các tàu vỏ gỗ, và họ lại bị bắt chiếc bởi tất cả những nước khác. Họ sản xuất một loại tàu chiến mới, chiếc Monitor, Dựa trên thiết kế của bản gốc. Việc sử dụng ít súng nhưng súng phải cực lớn, có khung giá súng và có thể nổ súng về tất cả các hướng, lần đầu tiên đã chứng minh bởi chiếc Monitor, sớm trở thành chuẩn của tất cả các loại tàu chiến. Các công ty đóng tàu cũng kết hợp cả Ram vào trong thiết kế của vỏ tàu chiến ở phần còn lại của thế kỷ này ( cuối TK19).
Chuẩn bị phong tỏa Norfolk
Ngày 19 tháng 4 năm 1861, ngay sau khi các hành động thù địch nổ ra tại Charleston Harbor, tổng thống Abraham Lincoln tuyên bố tién hành một cuộc phong tỏa nhắm tới tất cả các cảng của các bang ly khai. Ngày 27 tháng 4, sau khi Virginia và Bắc Carolina cũng đã thông qua pháp lệnh ly khai, phong tỏa được mở rộng để bao vây các cảng của họ. Ngay cả trước khi có sự mở rộng của cuộc phong tỏa, quân địa phương (quân Hợp bang li khai) đã chiếm Norfolk và đe dọa Công xưởng Hải quân Gosport Yard. Chi? huy trươ?ng đó, Thuyền trưởng Charles S. McCauley, Mặc dù trung thành với Liên bang, đã không thể nhúc nhích được bởi ông nhận được lời khuyên từ nhân viên cấp dưới của mình, mà hầu hết trong số họ có cảm tình với phe ly khai. Mặc dù ông nhận được mệnh lệnh từ Bộ trưởng Hải quân Gideon Welles (phe Liên Bang) là phải di chuyển số tàu của ông đến cảng phía Bắc, ông đã từ chối để làm việc này cho đến ngày 20 tháng 4, khi ông lệnh đánh đắm các tàu trong Công xưởng và phá hủy các cơ sở của nó. Chín tàu bị đốt cháy, trong đó có chiếc frigate USS Merrimack. Một chiếc ( trong số các tàu khu trục nhỏ, chiếc Cumberland) được kéo đi thành công. Chiếc Merrimack bị đốt chỉ đến mực nước, tuy nhiên động cơ của nó còn ít nhiều còn nguyên vẹn. Việc tiêu hủy Công xưởng hải quân chủ yếu là không có hiệu quả, đặc biệt là ụ tầu lớn trên cạn tương đối không bị hư hại gì cả và sớm có thể được phục hồi. Không cần phải bắn một súng, phe chủ trương ly khai đã thu được một công xưởng hải quân lớn nhất cho họ, cũng như các thân tàu và động cơ và những gì sẽ tạo ra được chiếc tàu chiến nổi tiếng nhất trong thời gian này. Họ cũng đã bắt giữ hơn một nghìn khẩu súng hạng nặng, cộng thêm các toa chở súng và một lượng lớn thuốc súng.
Với Norfolk và Công xưởng hải quân của mình, Hợp bang kiểm soát phía nam của Hampton Roads. Để ngăn chặn đoàn tàu chiến của Liên bang tấn công vào công xưởng, họ thiết lập các khẩu đội pháo tại cứ điểm Sewell và đảo Craney, điểm nối của sông Elizabeth với sông James. (Xem bản đồ.) Liên bang duy trì sở hữu pháo đài Fort Monroe, ở cứ điểm Old Point Comfort trên bán đảo Virginia. Họ cũng đã xây một hòn đảo nhân tạo nhỏ được gọi là Raps Rip, về cạnh phía xa của kênh đối diện với pháo đài Fort Monroe, và trên hòn đảo này họ xây dựng một pháo đài, được đặt tên là Fort Wool. Với pháo đài Fort Monroe phe Liên bang đã đi kiểm soát phần thấp của bán đảo cũng như vùng Newport News.
Trận đánh
Chỉ huy
Các chuỗi mệnh lệnh của phía Hợp bang là bất thường. Trung úy Catesby ap Roger Jones đã bỏ nhiều công sức trong việc chuyển đổi chiếc Merrimack thành chiếc Virginia, và ông ta đã rất thất vọng khi ông không được trở thành thuyền trưởng của nó. Jones vẫn được giữ lại trên chiếc tàu Virginia, Nhưng chỉ như là một sỹ quan quản trị nó. Thường thì con tàu sẽ được chỉ huy bởi một thuyền trưởng của Hải quân Hợp bang, được xác định qua hệ thống thâm niên cứng nhắc. Bộ trưởng Mallory muốn bổ nhiệm thuyền trưởng Franklin Buchanan, con người đầy nhiệt huyết, nhưng ít nhất có hai thuyền trưởng khác có thâm niên hơn và được cử vào vị trí này. Mallory cứ lờ họ đi và tiếp tục bổ nhiệm Franklin, người đứng đầu của Office of Orders & Detail (Chúa biết được đây là gì), sỹ quan phụ trách việc phòng thủ Norfolk và sông James. Như vậy, ông có thể kiểm soát các hoạt động của chiếc Virginia. Về mặt kỹ thuật mà nói do đó con tàu đã đi vào cuộc chiến mà không có một thuyền trưởng (thực thụ).
Về phía Liên Bang, quyền chỉ huy của Hải đội phong tỏa Bắc Đại Tây Dương được nắm giữ bởi sỹ quan Louis M. Goldsborough. Ông đã nghĩ ra một kế hoạch cho các tàu khu trục của mình để bẫy chiếc Virginia, Hy vọng cài bẫy nó vào hỏa lực bắn chéo cánh sẻ CrossFire của họ. Trong thực tế, kế hoạch của ông bị đổ vỡ hoàn toàn khi bốn trong số các tàu đang hoạt động bị mắc cạn (một trong số chúng là do cố ý) trong vùng nước cạn của vũng sông. Ngày xảy ra trận đánh, Goldsborough đã vắng mặt với các tàu tham gia vào trận đánh Burnside ở Bắc Carolina. Vì sự vắng mặt của ông, quyền chỉ huy rơi vào tay viên thuyền trưởng thứ hai, John Marston của chiếc USSRoanoke. Nhưng chiếc Roanoke lại là một trong những chiếc tàu chạy bị mắc cạn, Marston đã không thể có nhiều ảnh hưởng vào trận chiến, và sự chỉ huy của ông thường không được tuân phục. Hầu hết các tài liệu đều nhấn mạnh đến sự đóng góp của thuyền trưởng của chiếc Monitor, John L. Worden, mà bỏ bê những người khác.
Ngày 08 tháng 3: chiếc Virginia trút giận lên những chiếc tàu chiến gỗ của Liên bang
Trận đánh bắt đầu khi chiếc CSS Virginia to lớn và cồng kềnh bơi vào Hampton Roads trong buổi sáng ngày 08 Tháng Ba năm 1862. Thuyền trưởng Buchanan đã cố gắng để chỉ huy tất cả mọi người nhưng một số ít tin rằng đây chỉ là một sự thử nghiệm đơn thuần , nhưng hầu hết các thủy thủ đoàn nhận thức được rằng ông dự định tấn công nếu có cơ hội. Chiếc Virginia được hộ tống bởi chiếc Raleigh và Beaufort trên sông Elizabeth, và cùng tham gia vào Hampton Roads bởi Hải đội sông James gồm các chiếc Patrick Henry, Jamestown, và Teaser. Khi họ đi qua các khẩu đội pháo của Liên Bang tại Newport News, chiếc Patrick Henry đã tạm thời bị vô hiệu hoá bởi một loạt súng bắn vào nồi hơi của nó và đã giết chết bốn người trong thuỷ thủ đoàn của nó. Sau khi sửa chữa, nó quay trở lại và tái gia nhập những chiếc khác.
Vào thời gian này, Hải quân Liên Bang có năm tàu chiến trong vũng sông (xem bản đồ), ngoài một số tàu hỗ trợ. Chiếc thông báo hạm USS Cumberland và tàu khu trục nhỏ Congress được neo tại chiếc kênh gần Newport News. Chiếc Frigate St Lawrence và tàu khu trục hơi nước Roanoke và Minnesota neo gần Fort Monroe. Ba chiếc sau cùng đã theo ngay vào khi họ thấy chiếc Virginia tiến đến gần, nhưng cả ba sớm bị mắc cạn. Các chiếc St Lawrence và Roanoke đã không thể đóng góp thêm được một phần quan trọng nào cho trận đánh.
Chiếc Virginia hướng trực tiếp về phía đội tàu của Liên Bang. Trận đánh mở màn khi chiếc tàu kéo Zouave bắn vào đối phương đang tiến lên, và Beaufort trả lời. Các phát súng lẻ tẻ này không gây được nhiều thiệt hại. Chiếc Virginia không nổ súng cho đến khi nó đến được phạm vi tầm bắn hiệu quả để diệt chiếc Cumberland. Những phát đạn bắn trả từ chiếc Cumberland và Congress nảy vào các mảng giáp sắt mà không thể xuyên qua được. Chiếc Virginia đâm vào chiếc Cumberland ở dưới mực nước và nó (chiếc Cumberland) nhanh chóng bị chìm, ” Họ vẫn dũng cảm chiến đấu miễn là họ vẫn ở trên mực nước,” Buchanan nói (về chiếc Cumberland). Nó (vẫn chiếc Cumberland ) đã chìm xuống kéo theo 121 thuỷ thủ cùng với nó, những người bị thương trong sự kiện trên đưa tổng số nạn nhân lên gần 150 người.
Đâm chìm chiếc Cumberland kết quả cũng làm cho chiếc Virginia chìm theo. Chiếc mũi nhọn ( ram) trên mũi của nó đã bị mắc kẹt trong thân tàu của đối phương, và khi chiếc Cumberland tê liệt và bắt đầu chìm xuống, nó gần như kéo cả chiếc Virginia xuống với nó. Chiếc Virginia tự bị gãy (phần Ram để đâm đối phương), tuy nhiên, khi chiếc ram bị gãy ra thì nó lấy lại thăng bằng.
Buchanan chuyển mục tiêu của chiếc Virginia sang chiếc USS Congress. Thấy những gì đã xảy ra với chiếc Cumberland, trung úy Joseph B. Smith, thuyền trưởng của chiếc USS Congress, ra lệnh cho tàu của ông chạy vào chỗ nước nông. vào thời điếm này, Hải đội Sông James, dưới sự chỉ huy của John Randolph Tucker, đã đến và tham gia cùng với chiếc Virginia trong cuộc tấn công chiếc USS Congress. Sau một giờ chiến đấu không cân sức, bị hư hỏng nặng chiếc USS Congress đầu hàng. Trong khi những người còn sống sót của thủy thủ đoàn của chiếc Congress đã xuống các xuồng cứu sinh và rời khỏi con tàu, một khẩu đội pháo của Liên Bang trên bờ biển phía bắc nổ súng vào chiếc Virginia. Để trả đũa, Buchanan ra lệnh tiếp tục bắn vào chiếc Congress bằng đạn lửa. Chiếc Congress bốc cháy và bị đốt cháy trong suốt phần còn lại trong ngày. Gần nửa đêm, ngọn lửa đã bén vào kho đạn của nó và nó đã đã phát nổ rồi chìm. Thiệt hại về nhân mạng bao gồm 110 người chết hoặc mất tích và coi là chết đuối. 26 người khác bị thương, 10 trong đó đã chết trong vòng vài ngày.
Mặc dù nó đã không phải chịu bất cứ thiệt hại gì giống như nó đã gây ra cho các chiếc tầu của Liên Bang, chiếc Virginia đã không còn hoàn toàn nguyên vẹn. Các phát đạn từ chiếc Cumberland, Congress, và pháo của quân Liên Bang trên bờ làm thủng ống khói của nó, nó đã phải giảm tốc độ xuống thấp. Hai trong số súng của nó đã bị vô hiệu hoá và một số tấm giáp đã bị nới lỏng. Hai trong số thuỷ đoàn của nó đã bị giết hại, và nhiều người khác bị thương. Một trong những người bị thương là thuyền trưởng Buchanan, đùi trái của ông bị xuyên thủng bởi một phát đạn súng trường.
Trong khi đó, Hải đội sông James đã chuyển sự chú ý của họ đến chiếc USS Minnesota, chiếc này đã rời cánh trái Fort Monroe để tham gia trận đánh sau đó nó đã bỏ chạy và bị mắc cạn. Sau khi chiếc Virginia đã xử lý xong chiếc Congress đã đầu hàng, nó đã gia nhập vào Hải đội Sông James (để tiếp tục thịt nốt chiếc USS Minnesota) bất chấp những thiệt hại của nó. Bởi vì được thiết kế một cách to lớn và thủy triều lại xuống cho nên chiếc Virginia không thể vào đủ gần để có thể tấn công một cách có hiệu quả, và bóng tối ngăn cản phần còn lại của Hải đội trong việc nhằm súng của họ một cách chính xác. Cuộc tấn công này được do đó bị trì hoãn tạm thời. Chiếc Virginia bỏ đi với kỳ vọng ngày hôm sau nó sẽ trở lại và hoàn thành nốt nhiệm vụ. Nó rút lui vào vùng biển an toàn do Hợp Bang kiểm soát ở ngoài khơi cứ điểm Sewell Point vào ban đêm.
Ngày 9 tháng 3: Monitor tấn công Virginia
Cả hai bên đều sử dụng thời gian nghỉ ngơi để chuẩn bị cho ngày hôm sau. Chiếc Virginia đưa thân thể bị thương của nó lên bờ và trải qua 1 cuộc sửa chữa tạm thời. Thuyền trưởng Buchanan là một trong những người chỉ huy bị thương và như vậy, vào ngày thứ hai quyền chỉ huy rơi vào tay sỹ quan quản trị của nó, trung úy Catesby ap Roger Jones. Jones được chứng minh là ít hung hăng hơn người ông ta thay thế. Trong khi chiếc Virginia được chuẩn bị cho phần việc mới của trận đánh, và trong khi chiếc Congress vẫn đang bốc cháy, chiếc USS Monitor, chỉ huy bởi trung úy John L. Worden đã đến Hampton Roads. Tầu bọc thép lớp ironclad đã lao đến Hampton Roads với hy vọng bảo vệ hạm đội của Liên Bang và ngăn ngừa chiếc Virginia đe dọa các thành phố của Liên Bang. Thuyền trưởng Worden đã được thông báo nhiệm vụ chính của ông là phải bảo vệ chiếc Minnesota, như vậy chiếc Monitor tiến đến một vị trí gần nơi chiếc Minnesota bị mắc cạn và chờ đợi.
Sáng hôm sau, vào lúc bình minh ngày 09 Tháng ba năm 1862, chiếc Virginia rời nơi neo đậu của nó tại cứ điểm Sewell Point và di chuyển để tấn công chiếc Minnesota lúc này vẫn còn bị mắc cạn. Nó đã được hộ tống bởi ba tàu của Hải đội sông James. Họ thấy chuyến đi của họ bị phong toả, tuy nhiên, do chiếc Monitor mới đến. Lúc đầu, Jones tin rằng đối thủ lạ là một tầu hơi nước được điều đến để kéo chiếc Minnesota, Ông không nhận ra ngay thực chất của đối thủ của mìmh. Tuy nhiên ngay sau đó, ông đã hiểu rõ ràng rằng không còn sự lựa chọn ngoài cách nổ súng chiến đấu với nó.
Sau khi chiến đấu khoảng 1 giờ, chủ yếu là ở cự ly gần, chiếc này không thể thắng nổi chiếc kia. Các lớp thiết giáp của cả hai tàu đã chứng minh đầy đủ. Một phần, bởi vì mỗi chiếc được chế tạo theo một cách tấn công riêng của nó. Buchanan, trong chiếc Virginia, Có thể sẽ không ngờ rằng mình sẽ phải đánh nhau với một tàu bọc thép, do đó, súng của ông chỉ được cung cấp đạn thường hơn là loại đạn xuyên giáp. Súng chiếc Monitor đã được sử dụng với đạn tiêu chuẩn chỉ có 15pound (6,8 kg) bột thuốc súng, mà không tạo đủ đà phóng để xuyên qua giáp của đối thủ của mình. Tiến hành các thí nghiệm sau trận đánh cho thấy súng Dahlgren có thể hoạt động một cách an toàn và hiệu quả với lượng thuốc súng tăng lên nhiều đến 30 pound (13,6 kg).
Trận chiến cuối cùng đã ngừng lại khi một phát đạn bắn từ chiếc Virginia trúng vào khoang hoa tiêu của chiếc Monitor và phát nổ, các mảnh vỡ lọt qua khe quan sát nhìn vào mắt Worden và tạm thời làm ông ta bị mù . Vì không ai khác có thể nhìn thấy để lái con tàu, chiếc Monitor đã bị buộc phải rút lui ra xa. Sỹ quan quản trị, trung úy Samuel Dana Greene đã thay thế viên hoa tiêu và chiếc Monitor quay trở lại để tiếp tục trận chiến . Trong giai đoạn này có sự nhầm lẫn về mệnh lệnh, tuy nhiên các thành viên thuỷ thủ đoàn của chiếc Virginia tin rằng đối thủ của họ đã tháo chạy . Mặc dù chiếc Minnesota vẫn còn bị mắc cạn, thuỷ triều xuống có nghĩa là nó (chiếc Minnesota) ở ngoài tầm với. Hơn nữa, chiếc Virginia đã phải chịu một số thiệt hại mà có thể n ó sẽ yêu cầu sửa chữa lớn . Tin tưởng rằng tàu của ông đã thắng trong trận này , Jones đã ra lệnh cho nó (chiếc Virginia) trở lại Norfolk. Vào thời gian này chiếc Monitor đã quay trở lại, chỉ để phát hiện ra rằng đối thủ của nó dường như đã từ bỏ cuộc chiến. Tin tưởng rằng chiếc Virginia đã bỏ đi và với mệnh lệnh là phải bảo vệ chiếc Minnesota và không muốn tạo nguy hiểm cho tàu của mình một cách không cần thiết, Greene đã không đuổi theo. Như vậy, mỗi bên hiểu sai sự di chuyển của bên kia, và như vậy kết quả là cả hai bên đều tuyên bố chiến thắng.
Mùa xuân 1862 – một trạng thái cân bằng tại Hampton Roads
Chiếc Virginia vẫn ở trong ụ tầu trên cạn tới gần một tháng, để sửa chữa các thiệt hại trong trận chiến cũng như một số thay đổi nhỏ để cải thiện hiệu suất chiến đấu của mình. Ngày 04 tháng 4, nó đã có thể rời khỏi ụ tầu trên cạn. Buchanan, vẫn còn đang phải phục hồi từ vết thương của mình,mọi người đã hy vọng rằng Catesby Jones sẽ được chọn để thay thế ông ta, và hầu hết các nhà quan sát đều tin rằng những hành động của Jones trong trận chiến là xuất sắc. Hệ thống thâm niên cho sự thăng tiến tại Hải quân đã làm mất cơ hội của ông ta, tuy nhiên, người thực sự trở thành thuyền trưởng lại là Commodore Josiah Tattnall 67 tuổi. Chiếc Monitor không bị hỏng nặng vẫn làm nhiệm vụ. Giống như Jones đối thủ của ông, Greene được coi là quá nhỏ bé để được giữ chức như là một thuyền trưởng, do đó ông đã bị thay thế. Ngày hôm sau trận đánh, ông được thuyên chuyển và thay thế bởi trung úy Thomas O. Selfridge; Hai ngày sau đó, Selfridge lại lần lượt bị thuyên chuyển và thay thế bởi trung úy William Nicholson Jeffers.
Mỗi bên tự cho là có cách tốt nhất để loại trừ các mối đe dọa bởi đối thủ của nó, và sau khi chiếc Virginia quay trở lại mỗi bên đã cố gắng để kích thích để đối phương phải tấn công trong những hoàn cảnh bất lợi. Cả hai thuyền trưởng đã từ chối những cơ hội phải tấn công trong những vùng nước không phải do họ lựa chọn, Jeffers đặc biệt nhận được mệnh lệnh là không để mạo hiểm xảy ra với tàu của ông. Do đó, mỗi tàu tốn cả tháng trời tiếp theo để rình rập lẫn nhau. Không chỉ là hai chiếc tàu không thể tấn công lẫn nhau, mà không bao giờ chúng còn có thể quay trở lại để chiến đấu với nhau sau ngày đó.
Kết thúc xảy ra đầu tiên tới chiếc Virginia. Vì phong tỏa không bị phá vỡ, Norfolk đã trở nên ít được sử dụng trong chiến lược của Hợp Bang, và kế hoạch sơ bộ đã được đặt để di chuyển các con tầu ngược lên sông James đến vùng lân cận của Richmond. Trước khi sự chuẩn bị đầy đủ có thể được tiến hành, quân đội miền Nam do Thiếu tướng Benjamin Huger chỉ huy đã rời bỏ thành phố vào ngày 09 tháng 5, mà không tư vấn bất cứ ai từ Hải quân. Thiết kế của chiếc Virginia là quá lớn để cho phép nó đi ngược lên để vượt qua con sông, trong đó có độ sâu chỉ 18 feet (5,5 m), và không ở trong những hoàn cảnh thuận lợi. Nó đã bị mắc kẹt và chỉ có thể bị bắt hoặc đánh chìm bởi Hải quân Liên Bang. Thay vì chọn một trong hai, Tatnall quyết định dốt bỏ chiếc tàu của riêng mình. Ông ra lệnh kéo nó xuống đến đảo Craney, nơi thuỷ thủ đoàn của nó được đưa lên bờ, và sau đó nó bị đốt cháy. Nó bốc cháy trong suốt phần còn lại trong ngày và hầu hết đêm hôm sau, ngay trước khi bình minh, ngọn lửa đã bén tới kho thuốc, và nổ tung lên.
Chiếc Monitor cũng như vậy, không tồn tại nổi qua năm. Nó được lệnh phải đi Beaufort, North Carolina trong ngày Giáng sinh, để tham gia các cuộc phong tỏa ở đó. Trong khi được kéo xuống bờ biển (dưới sự chỉ huy của thuyền trưởng thứ tư của mình, chỉ huy John P. Bankhead), vùng biển bắt đầu có nước lên và nó đã ngập nước. Nước biển lọt vào tầu làm ngập máy bơm một cách nhanh chóng, và sau đó làm tắt động cơ của nó (đây là động cơ hơi nước đốt bằng lò than – củi). Mệnh lệnh được đưa ra là phải rời bỏ con tàu; hầu hết các thuỷ thủ được cứu bởi chiếc USSRhode Island, Nhưng mười sáu thuỷ thủ đã chìm theo nó khi con tàu bị chìm trong những giờ đầu của ngày 31 Tháng 12 năm 1862.
Ai đã thắng?
Chiến thắng được tuyên bố bởi cả hai bên sau Trận Hampton Roads, bởi cả hai đều đều căn cứ một cách sai lầm về hành vi của đối thủ, và chúng đã bị bác bỏ bởi các nhà sử học ngày nay. Họ đều đồng ý rằng kết quả của trận đánh giữa chiếc Monitor-Merrimack không phải là một chiến thắng cho bên nào. Khi trận chiến giữa các tầu bọc thép ironclads có ý nghĩa chính cho toàn bộ trận Hampton Roads, đánh giá chung về kết quả tổng thể thì đây là một trận hoà. Tất cả mọi người đều thừa nhận rằng hạm đội miền Nam gây ra thiệt hại hơn rất nhiều so với những gì nó phải chịu, điều này ngụ ý rằng họ đã có được một chiến thắng chiến thuật. So với các trận chiến trong Nội chiến, sự mất mát về người và tàu của Hải quân Liên Bang sẽ được coi là một thất bại rõ ràng. Mặt khác, cuộc phong tỏa này không bị đe dọa nghiêm trọng, do đó, toàn bộ trận chiến có thể được coi là một cuộc tấn công mà cuối cùng đã thất bại (về mục đích).
Đánh giá trên phương diện chiến lược vẫn còn đang là những tranh chấp. Cuộc phong tỏa này vẫn được duy trì, thậm chí còn được tăng cường, và chiếc Virginia đã bị giam chân ở Hampton Roads. Bởi vì đây là một vũ khí quyết định của phe Hợp Bang, và nó đã bị khống chế, nên một số người có kết luận rằng phe Liên Bang có thể có một thắng lợi về mặt chiến lược. Tuy nhiên những người ủng hộ phe Hợp Bang lại lập luận rằng chiếc Virginia đã có một ý nghĩa quân sự lớn hơn cuộc phong tỏa, nó chỉ là một phần nhỏ của cuộc chiến tranh ở Tidewater Virginia. Sự hiện diện của nó chỉ đủ để đóng cửa sông James khỏi sự xâm nhập của Hải quân Liên bang. Nó cũng đã áp đặt những hạn chế khác vào Chiến dịch bán đảo sau đó mà chiến dịch này là sự kết hợp các lưc lượng Liên Bang của tướng George B. McClellan, người luôn lo lắng rằng chiếc Virginia có thể tấn công vào các vị trí của mình trên sông York. Mặc dù nỗi sợ hãi của ông là vô căn cứ, điều này vẫn tiếp tục ảnh hưởng đến các chiến dịch của ông ta (có lẽ tướng McClellan luôn sợ chiếc Virginia đánh thọc sườn nên không thể tung hết lực lượng vào chiến dich bán đảo ) cho đến khi chiếc Virginia bị phá hủy.
Ý kiến cá nhân, đối đầu với miền Bắc có nền công nghiệp phát triển, lại thừa thãi tài chính để thuê mẫu thiết kế đóng tầu tiên tiến của nước ngoài như chiếc Monitor mà những người miền Nam, vùng nông nghiệp trồng bông là chính, đã cải tạo vá víu cái xác cháy dở của chiếc Merrimack thành chiếc CSS Virginia lừng danh và gây tổn thất không nhỏ cho quân miền Bắc là một thắng lợi lớn rồi.
Tác động sau khi chiến tranh hải quân
Cả hai ngày diễn ra trận đánh đã thu hút sự chú ý từ tất cả các cường quốc hải quân trên thế giới. USS Monitor trở thành nguyên mẫu cho tàu chiến lớp Monitor. Rất nhiều tầu lớp này được đóng bao gồm cả lớp tầu Monitor chạy trên sông, và chúng đã đóng vai trò then chốt trong chiến trận chiến trên sông Mississippi và sông James. Liên Bang Hoa Kỳ ngay lập tức bắt đầu đóng thêm mười chiếc lớp Monitor dựa trên bản thiết kế gốc lớn hơn của Ericsson, và chúng được gọi là Passaic lớp Monitor. Tuy nhiên, trong khi thiết kế này tỏ ra đặc biệt phù hợp cho các trận chiến trên sông, nhưng với kết cấu thân hình thấp và tháp pháo hạng nặng tạo ra sự yếu kém trong việc đi biển ở vùng nước lớn. Nước Nga lo sợ bị hút vào những cuộc chiến giống như Nội chiến Hoa Kỳ (cuộc chiến sử dụng thiết giáp hạm), đã hạ thuỷ mười tàu chị em với chiếc Monitor, ngay sau khi thiết kế của Ericsson đến được St Petersburg. Những gì xảy ra sau đó đã được người ta mô tả như là ?o chứng cuồng Monitor? chiếc tháp pháo quay vòng sau này được lấy màn cảm hứng để thiết kế tương tự cho các tàu chiến trong tương lai, mà cuối cùng chúng đã trở thành thiết giáp hạm hiện đại.
Sự yếu kém của tầu thân vỏ gỗ trước tàu bọc thép đã được lưu ý đặc biệt tại Anh và Pháp, nơi mà việc quy hoạch chuyển đổi các hạm đội tàu chiến sang tầu thiết giáp đã đưa ra một minh chứng mạnh mẽ. Một tính năng mô phỏng như vậy đã không thành công. Ấn tượng bởi sự dễ dàng khi chiếc CSS Virginia đánh chìm chiếc USS Cumberland, các kiến trúc sư hải quân đã bắt đầu để cố kết hợp ram vào thiết kế thân của họ. Chiếc tầu đầu tiên có ram được đóng trong thời hiện đại của Pháp là chiếc tầu bọc thép Taureau (1863), và súng của nó được cho rằng có “chức năng duy nhất là dọn đường cho đòn đánh ram” Việc bao gồm ram trong thiết kế thân tàu chiến tiếp tục tồn tại gần như đến tận sự bùng nổ của Thế chiến thứ nhất, dù cho sự cải thiện trong thuật bắn pháo hải quân làm cho hành động xích lại gần tàu chiến đối phương để đánh đòn ram là một hành động tự sát, nếu không thì cũng là không thể.
Nguồn bài đăng