Nhà Nguyên xâm lược Nhật Bản
Nguyễn Nam Trân Từ đầu thế kỷ 13, tộc Mông Cổ đã trở nên hùng mạnh ở cao nguyên Mông Cổ dưới sự lãnh đạo của Gengis Khan (Thành Cát Tư hãn). Ông đã thống nhất được hai hệ phái dân tộc là Mông Cổ (Mongol) và Thổ (Turk), xây dựng nên đế quốc Mông Cổ, chinh phục suốt một vùng từ Trung Á ...
Nguyễn Nam Trân
Từ đầu thế kỷ 13, tộc Mông Cổ đã trở nên hùng mạnh ở cao nguyên Mông Cổ dưới sự lãnh đạo của Gengis Khan (Thành Cát Tư hãn). Ông đã thống nhất được hai hệ phái dân tộc là Mông Cổ (Mongol) và Thổ (Turk), xây dựng nên đế quốc Mông Cổ, chinh phục suốt một vùng từ Trung Á cho đến phía nam nước Nga.
Ngày nay, người Nhật vẫn còn nhắc đến một truyền thuyết, theo đó thì Đại đế Gengis Khan của Mông Cổ không ai khác hơn là danh tướng Minamoto no Yoshitsune, người đã dẹp được nhà Heike, vì bất hòa với anh mà phải trốn lên miền Đông Bắc ẩn náu rồi trôi dạt sang đại lục. Sở dĩ nhiều người tin theo thuyết đó bởi vì ngày sinh tháng đẻ của hai người chỉ cách nhau khoảng 2,3 năm.Từ cuối đời Muromachi (thế kỷ 16), dân gian đã truyền tụng chuyện Yoshitsune trốn thoát vào đất của người dân tộc thiểu số Ezo. Thế rồi từ thời Meiji trở về sau, với ý đồ biện minh cho tham vọng tiến chiếm đại lục, thuyết này lại được cổ súy hơn nữa. Tuy nhiên, đó chỉ là một truyền thuyết trong dân chúng chứ không có chứng cứ khoa học.
Cháu gọi Gengis Khan bằng ông nội là Đại hãn Kubilai (Hốt Tất Liệt) sau khi viễn chinh ở Âu châu, đã diệt nước Kim ở phía bắc Trung Quốc và xây dựng được một đế quốc rộng lớn giăng ngang suốt đại lục Âu Á (Eurasia).Thế rồi để cai trị Trung Quốc, Kubilai mới thiên đô về Đại Đô (Bắc Kinh bây giờ) đặt quốc hiệu theo kiểu Trung Quốc là Nguyên. Chẳng những thế, năm 1279, ông đã thành công tiêu diệt lực lượng chống đối cuối cùng là triều đình của di thần nhà Tống trên đường đào vong về miền nam. Hơn 40 năm trước khi xua quân qua Nhật, ông đã nhiều lần xâm lược bán đảo Triều Tiên. Phía triều đình Cao Ly, một bộ phận của quân đội gọi là Sanbesshô (Tam Biệt Sao), trong lần tấn công năm 1259, đã không ngừng kháng chiến chống quân Nguyên nhưng đến năm 1273, lực lượng của Kubilai hoàn toàn dẹp yên họ.
Kết quả là sau đó, nhà Nguyên nhiều lần gửi yêu sách đòi Nhật Bản phải triều cống nhưng Nhật Bản không chịu khuất phục. Quân Nguyên mới phối hợp quân với quân Cao Ly thành một đội quân liên hợp để vượt biển sang tấn công họ. Đó là biến cố Genkô hay Giặc Nguyên trong sử Nhật.Có thể nói là vào thời kỳ này, ở vùng Đông Bắc châu Á, chỉ còn có mỗi Nhật Bản là chưa bị đặt dưới móng vuốt của triều đình nhà Nguyên. Thế lực quân viễn chinh nhà Nguyên lúc đó được gọi là Mukuri-Kokuri nghĩa là liên quân Mông Cổ Cao Ly nhưng ai cũng biết rằng người Cao Ly chỉ đi theo vì bị bắt buộc chứ vận mệnh của họ nào có hơn gì người Nhật.
Quân Nguyên đã tiến đánh Nhật Bản dưới thời shikken đời thứ 8 là Hôjô Tokimune (Bắc Điều Thì Tông). Danh từ Genkô (Nguyên khấu) hay “quân xâm lược Nguyên” thực sự do chỉ xuất hiện vào thời Edo (đầu thế kỷ 17 trở đi) phản ánh tinh thần bài ngoại của các nhà tư tưởng quốc học lúc đó.Liên minh Nguyên-Cao ly với khoảng 3 vạn binh đã tấn công đảo Tsushima (Đối Mã) và Iki (Nhất Kỳ) ngoài khơi biển Nhật Bản vào năm 1274 (Bun.ei 11) và sau đó một bộ phận lớn đã đổ bộ lên vùng vịnh Hakata phía bắc đảo Kyuushuu. Thế nhưng mạc phủ có nguồn tin chính xác nên đã cảnh giác đề phòng. Họ đã động viên các go-kenin có lãnh địa ở vùng này sẵn sàng nghênh địch. Trước chiến thuật tập hợp đông đảo binh sĩ và sử dụng võ khí tối tân của quân Nguyên, quân Nhật phải khổ chiến vì cho đến bấy giờ họ chỉ quen lối đánh xưng tên và một chọi một (ikkiuchi).
Thế nhưng phía quân Nguyên cũng bị tổn thất nặng nề trước sự đề kháng của bushi Nhật Bản.Thêm vào đó gặp lúc những cơn mưa to gió lớn mà ngày nay người Nhật thường nhắc đến với cái tên kamikaze hay thần phong. Vì không chịu nổi mưa gió, quân Nguyên đã phái tháo lui. Cuộc tiến công lần thứ nhất của quân Nguyên được mệnh danh là Bun.ei no eki (chiến dịch năm Bun.ei).
Sau đó, để chuẩn bị cho cuộc tấn công lần thứ hai của quân Nguyên, mạc phủ đã hạ lệnh lực lượng go kenin Kyuushuu lập chiến tuyến phòng thủ ở các nơi hiểm yếu dọc bờ biển Hakata. Chế độ đó gọi là Ikoku keigo banyaku (Công cuộc tăng cường canh phòng giặc nước ngoài) thiết lập vào năm 1275 (Kenji nguyên niên). Công cuộc canh phòng này thực ra đã có trước chiến dịch năm Bun.ei nhưng đã chế độ hoá sau đó nghĩa là được tăng cường và xem như bắt buộc.
Mạc phủ lại cho xây đắp dọc bờ biển Hakata những thành lũy để canh phòng (hourui) làm bằng đá (sekirui = thạch lũy). Để hoàn thành hệ thống công sự này, mạc phủ động viên không những go kenin mà cả toàn bộ các chủ trang viên vùng Kyuushuu.
Quân Nguyên từ khi tiêu diệt nhà Nam Tống, vào năm 1281 (Kôan 4) lại phái 4 vạn binh thuộc Đông lộ quân đến từ bán đảo Triều Tiên và 10 vạn Giang nam quân đến từ Trung Quốc, chia làm hai mặt giáp công đảo Kyuushuu. Đó là Kôan no eki (chiến dịch năm Kôan). Lúc đó một trận bão lớn đã nổi lên cản trở cuộc đổ bộ của quân Nguyên. Bị thiệt hại nặng, một lần nữa họ đành rút lui.
Hai lần thất bại cùng một kiểu, quân Nguyên đã lộ ra chỗ yếu kém về mặt thủy chiến.Ngoài ra sự thất bại của họ còn do sức đề kháng từ trong nước của dân chúng Nam Tống và Cao Ly cũng như sự chiến đấu dũng mãnh của bushi Kyuushuu được tổ chức tốt bởi mạc phủ.
Ngày nay người ta còn giữ lại được tập tranh cuốn nhan đề Môko shuurai emaki (Mông Cổ tập lai hội quyển) cho thấy cảnh kỵ binh Nhật Bản đã chiến đấu như thế nào trước quân Nguyên. Tương truyền nhân vật xuất hiện trong tranh là một go-kenin đất Higo (nay thuộc tỉnh Kumamoto), trẻ mới 29 tuổi, Takezaki Suenaga (Trúc Kỳ Quý Trường). Hình như chính nhân vật này đã kể lại chiến công cho họa sư của mình theo đó mà vẽ. Đó là một trong số những bằng chứng ít ỏi về cuộc chiến đấu chống Nguyên Mông của dân tộc Nhật. Trong số vũ khí quân Nguyên dùng, có một loại được gọi là “tetsuhau”, có lẽ một loại hỏa khí hay súng (teppô =thiết pháo?) thô sơ !
Nhân vì còn lo ngại quân Nguyên còn sang đánh lần thứ ba, mạc phủ vẫn luôn luôn giữ thái độ cảnh giác.Go kenin ở Kyuushuu vẫn tiếp tục tăng cường việc biên phòng.Biến cố lịch sử này còn giúp cho mạc phủ giữ lấy quyền động viên quân đội (go kenin, bushi đi theo các chủ trang viên và công lãnh) trên toàn quốc, xưa nay hãy còn tùy thuộc ở triều đình.
Mạc phủ cũng lợi dụng danh nghĩa canh phòng giặc Nguyên để có cơ hội bành trướng thế lực của mình ra miền Tây, một nơi trước đây không phải là căn cứ địa của họ. Đặc biệt các nhân vật thuộc họ Hôjô được phái xuống Hakata trên đảo Kyuushuu để tham gia vào việc cai trị và tài phán, chỉ huy go-kenin, nhằm tăng cường thế lực Chinsei bugyô (Trấn tây phụng hành) và Chinzei tandai (Trấn tây thám đài) vốn được xem như là phủ thủ hiến và nha cảnh sát trên đảo.
Giặc Nguyên Mông và bài học lịch sử
Trước khi tiến đánh Nhật Bản, từ năm 1231, quân Nguyên đã dày xéo đất nước Triều Tiên (được gọi là Cao Ly hay Korea sau khi Wang Geon tức Vương Kiến lập quốc từ năm 918) trong suốt 30 năm. Tuy người Triều Tiên kháng cự rất mãnh liệt nhưng quân Nguyên đã làm chủ bán đảo. Vua Nguyên Tông nước Cao Ly dù ngoại giao khéo léo, rốt cuộc chỉ còn giữ được chút hư vị. Lần lượt chính quyền quân sự họ Choe (Thôi), các võ tướng yêu nước như Bak Seo (Phác Tề), Kim Nhân Tuấn, cha con Lâm Diễn, tăng nhân hoàn tục Gim Yun-hu (Kim Duẫn Hầu), bộ đội chủ lực Sambyeolcho (Tam Biệt Sao), quân nghĩa dũng xuất thân từ tầng lớp nông dân nô tỳ … đều bị quân Nguyên đánh bại. Người Triều Tiên đã lập mưu chuyển triều đình ra ngoài đảo Giang Hoa (Gangwado, phía tây Seoul bây giờ) lợi dụng địa hình hiểm trở mà lánh nạn, và sau đó, cố thủ ở Jindo (Trân Đảo) thuộc Toàn La Đạo ở vùng cực nam bán đảo chống giặc nhưng cuộc kháng chiến không kéo dài được bao lâu. Trung Liệt Vương lên kế vị Nguyên Tông cũng bị mất chức hoàng đế, chỉ còn giữ được tước vương. Tờ chiếu vua ban chỉ còn giá trị một tờ trình. Thuở nhỏ bị bắt làm con tin ở triều đình nhà Nguyên nên hoàng hậu của ông là một công chúa Mông Cổ. Tuy mang tiếng là vua dân Triều Tiên nhưng áo xống, đầu tóc của ông đã rập khuôn theo kiểu Mông Cổ. Người kế vị ông trong tương lai ắt sẽ có dòng máu Mông Cổ của mẹ mình.
Lúc đó, nhà Nguyên năm lần gửi sứ giả sang Nhật dụ lãnh đạo nước ấy (Mạc phủ Kamakura) vào chầu, một mặt bắt người Triều Tiên đóng thuyền, nạp lương và trưng binh đề chuẩn bị tấn công. Khi sứ giả cuối cùng thất bại trong việc dụ hàng trở về, đầu năm 1274, Nguyên Thế Tổ đã bắt người Triều Tiên đóng 900 chiến thuyền lớn nhỏ dùng vào việc quân. Nhà Nguyên huy động 2 vạn binh gồm lính Mông Cổ, Nữ Chân và hàng binh nhà Tống (gọi là Man tử quân). Ngoài ra còn có thêm 1 vạn binh và phu trạo Triều Tiên. Tất cả được đặt dưới quyền chỉ huy của nguyên soái Mông Cổ Hân Đô với sự phụ tá của 2 hàng tướng Hồng Trà Khâu và Lưu Phục Hưởng. Tướng Kim Phương Khánh chỉ huy quân Triều Tiên tham chiến. Lần ra quân đầu tiên, tuy có phá được quân Nhật ở các đảo nhỏ nhưng thuyền của họ bị sóng to gió lớn, đành bỏ lại tàn binh và tháo thân về Hợp Phố. Thua keo đó, nhà Nguyên lại bày keo khác. Số là khi ấy, bên Trung Quốc, quân Nguyên đã vào được thành Lâm An (1275), Tống Cung Tông chịu hàng phục. Họ tiếp tục quét sạch tàn quân Tống của Văn Thiên Tường và Trương Thế Kiệt đang chạy về phía Nam, làm cho Đế Bính – ông vua cuối cùng của Nam Tống – phải gieo mình xuống biển ở Nhai Sơn (Quảng Đông). Xong việc đó, Thế Tổ rảnh tay mặt trận phương nam, bèn dồn sức đánh Nhật Bản lần thứ hai (1281). Khi thấy hai lần liên tục sứ giả thuyết hàng mình gửi qua đều bị người Nhật chém đầu, Thế Tổ quyết tâm gửi đi một lực lượng trận thật lớn. Đội quân lần này chia làm 2 đạo: đạo thứ nhất gọi là quân Đông Lộ do Hân Đô và Hồng Trà Khâu chỉ huy gồm 4 vạn binh Mông-Ly-Hán (Mông Cổ, Cao Ly và Trung Quốc miền bắc) xuất phát từ cảng Gappo (Hợp Phố) của Triều Tiên, đạo thứ hai (Man tử quân) do A Thích Can và hàng tướng Nam Tống là Phạm Văn Hổ điều binh phát xuất từ Giang Nam. Ngày hẹn gặp nhau ở đảo Iki để hành động chung, nhân vì tướng chỉ huy ốm, quân Giang Nam không đến kịp. Quân Đông Lộ coi thường kế hoạch đã định, xuất quân chiến đấu một mình và gặp phải sức đề kháng dữ dội của quân dân Nhật Bản trên chiến lũy Hakata. Người Nhật lại thừa lúc tối trời dùng thuyền nhẹ và hỏa công để tập kích thuyền lớn của địch. Cuộc chiến đấu đã diễn ra liên tiếp một tuần lễ, hai bên chết hại rất nhiều. Đợi mãi quân Giang Nam vẫn không tới (thật ra quân tiền phương đã đi lạc sang đảo Tsushima). Gặp lúc trời viêm nhiệt sinh bệnh dịch, tàu bè lại bị hư hại, quân Đông Lộ biết không thắng nổi bèn rút về đảo Iki nhưng quân Nhật bám theo không tha. Đến khi quân Giang Nam tới nơi thì vừa vặn hứng trận bão lịch sử gọi là Thần Phong (Kamikaze) ngày 30 tháng 6 Âm lịch năm đó. Nó đã quét sạch đoàn thuyền của quân Nguyên, làm chìm gần hết 4.000 chiếc. Thuyền bè vỡ nát (thuyền Giang Nam cũ kỹ, chất lượng kém hơn thuyền Đông Lộ mới đóng), binh sĩ chết nhiều vô kể. Con số bị bắt làm tù binh lên đến 2, 3 vạn. Chưa đổ bộ lên đất Nhật mà 14 vạn binh đã bị tiêu diệt, về tới quê nhà chỉ vỏn vẹn 3 vạn mấy nghìn.
Hai trận viễn chinh đưa đến một kết quả tương tự vì sự thiếu kinh nghiệm chiến đấu trên mặt biển và ô hợp trong tổ chức. Thế nhưng nhà Nguyên còn dự trù một cuộc phiêu lưu thứ ba. Lúc ấy trong nội bộ của họ, người Trung Quốc ở các địa phương Giang Nam đang nổi dậy. Điển hình là cuộc loạn nông dân ở Quảng Đông tháng 9 năm 1283 hay cuộc loạn của quân Phổ Đà ở Phúc Kiến vào tháng 10 cùng năm, với chiêu bài lập lại nhà Tống. Cũng phải nói nhà Nguyên đã mất tự tin nhiều sau những cuộc thất bại ở Việt Nam và Chiêm Thành. Do đó, đến năm 1284, Thế Tổ bèn hạ lệnh bãi bỏ Chinh Đông hành tĩnh và chấm dứt ý định tiến quân qua Nhật Bản lần thứ ba. Một điều đặc biệt là ở ba nước Đông Á nạn nhân của quân Mông Cổ, người ta đều dựa vào sức Phật giáo để kháng chiến. Họ Thôi (Choessi), tập đoàn quân nhân lãnh đạo triều đình Cao Ly lúc đó đã cho khắc mộc bản Palman Daejanggyong (Bát Vạn Đại Tạng Kinh) trên đảo Giang Hoa, mất 16 năm, bù đắp việc quân Mông Cổ phá chùa, đốt kinh, hủy hoại văn hóa. Vua Trần Nhân Tông, người anh hùng nước ta, là người sùng Phật, sau đã đi tu, trở thành tổ phái Thiền Trúc Lâm Yên Tử. Còn chư tăng Nichiren (Nhật Liên), Eizon (Duệ Tôn) và Ninshô (Nhẫn Tính) thì vừa truyền đạo, vừa cổ xúy dân Nhật đứng lên chống xâm lăng.
Bài học lịch sử của những cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông chứng tỏ rằng đối với những kẻ xâm lược, chỉ có bạo lực mới trả lời được bạo lực. Vua quan nhà Nguyên tỏ ra mền nắn rắn buông. Hơn nữa, ta còn thấy rằng chính thế thế liên hoàn không hẹn mà gặp giữa các nước bị tấn công trong khu vực đã làm tham vọng đế quốc Nguyên Mông bị xẹp lại.
Nguồn bài đăng