25/05/2018, 14:25

Nguyễn Thế Truyền

(17 tháng 12 năm 1898—19 tháng 9 năm 1969) là một nhà chính trị người Việt từng hoạt động trong phong trào vận động đòi người Pháp rút khỏi Việt Nam vào đầu thế kỷ 20. Ông quê làng Hành Thiện, tỉnh Nam Định, con ...

(17 tháng 12 năm 1898—19 tháng 9 năm 1969) là một nhà chính trị người Việt từng hoạt động trong phong trào vận động đòi người Pháp rút khỏi Việt Nam vào đầu thế kỷ 20.

Ông quê làng Hành Thiện, tỉnh Nam Định, con một gia đình quyền thế: ông nội là Nguyễn Duy Hàn làm tuần phủ tỉnh Thái Bình, cha ông là Nguyễn Duy Nhạc làm án sát tỉnh Hà Nam. Năm học lớp 4 (1910) ông được gửi sang Pháp học. Mười năm sau thì ông đã đậu bằng kỹ sư hóa học, cử nhân lý hóa rồi cử nhân văn chương. Năm 1913 khi 15 tuổi, một trái tạc đạn của Việt Nam Quang phục Hội giết chết ông nội của ông là tuần phủ Nguyễn Duy Hàn.

Trong thời gian ở Pháp ông liên lạc và sinh hoạt với các ông Phan Chu Trinh, Phan Văn Trường, Nguyễn An Ninh và Nguyễn Sinh Cung được người đương thời gọi là "nhóm Ngũ long." Bút hiệu "Nguyễn Ái Quốc" trên "Thỉnh nguyện thư của dân tộc An Nam" được ghi nhận là đại diện cho bốn ông: Phan Chu Trinh, Phan Văn Trường, , và Nguyễn Sinh Cung.

Trong thời gian tại Pháp ông gia nhập Đảng Xã hội Pháp rồi Đảng Cộng sản Pháp (1922) và chính ông là người giới thiệu Nguyễn Sinh Cung đến với chính giới Đảng Xã hội Pháp và Đảng Cộng sản Pháp. Khi được tin Phan Bội Châu bị quản thúc, ông hoạt động tích cực đòi nhà chức trách Pháp trả tự do cho nhà chí sĩ họ Phan. Ông đứng ra quyên góp hơn 6.000 franc Pháp để gửi về cho Phan Bội Châu khi được tin ông bị đưa an trí ở Huế, số tiền mà luật sư Phan Văn Trường gọi là "món nợ thiêng liêng" đối với nhà chí sĩ.

đã đóng góp bài vở và từng làm chủ bút cho báo Le Paria của Đảng Cộng sản Pháp nhưng sau ông từ bỏ chủ thuyết Cộng sản và cho ra một tờ báo riêng mang tên Việt Nam hồn (ra được 8 số từ Tháng Giêng đến Tháng Tám 1926), rồi Hồn Việt Nam (4 số), L'Ame Annamite, La Nation Annamite và tờ Phục quốc vào cuối năm 1926 đòi hỏi chính quyền Pháp đáp ứng nguyện vọng tự do của dân Việt Nam. Sau lại thêm tờ Viet Nam xuất bản vào Tháng Chín năm 1927. Cộng tác với ông là nhà văn Mai Lâm Nguyễn Đắc Lộc. Những tờ báo này là tụ điểm của nhiều Việt người đồng chí hướng ở Pháp, khai sinh ra Đảng Việt Nam Độc lập. Ông làm chủ tịch đảng này đến năm 1928 thì giao lại cho Tạ Thu Thâu để về Việt Nam, sống ở Nam Định với vợ người Pháp.

Một giai thoại còn lưu truyền là việc ông đánh tổng đốc Vi Văn Định của tỉnh Thái Bình khi quan tổng đốc tỏ ra hống hách, ngang ngược ở bến đò Tân Đệ.

Vào thập niên 1940 ông bị Sở mật thám Đông Dương theo dõi và kết tội thông đồng với người Nhật nên bị án đày sang Mã Đảo cùng với người em là Nguyễn Thế Song đến năm 1946 mới được thả. từ năm 1941 đến 1946 mới được thả.

Sau Hiệp định Genève (1954) ông di cư vào Nam, tiếp tục nghề báo thời Việt Nam Cộng hòa rồi ra tranh cử trong cuộc bầu cử tổng thống năm 1961 thời Đệ nhất Cộng hòa liên danh với Hồ Nhựt Tân nhưng thất bại.

Ông mất ngày 19 Tháng Chín năm 1969 ở Sài Gòn.

Đời tư

Ông lấy một phụ nữ người Pháp họ La Tour, làm y tá. Hai ông bà có bốn người con.

0