Nguyễn Nhược Pháp (1914-1938), sinh ngày thứ bảy, 12 tháng 12 năm 1914 (nhằm ngày 25-10 năm Giáp Dần) tại Hà Nội. Là con trai thứ của văn hào Nguyễn Văn Vĩnh và là em của nhà thơ Nguyễn Giang. Ông theo học trường trung học Albert Sarraut. Sau khi đậu tú tài ông học luật trong một thời gian cùng với thi sĩ Phạm Huy Thông. Vào 7 giờ sáng ngày 19-11-1938 (nhằm ngày 28-9 năm Mậu Dần) ông qua đời tại bệnh viện LaneSao Biển an Hà Nội vì bệnh thương hàn, hưởng thọ 24 tuổi.
Tác phẩm đã in: Ngày xưa (Nguyễn Dương xuất bản, Hà Nội 1935), Người học vẽ (kịch bản, xuất bản 1936 Hà Nội). Trong thi phẩm Ngày xưa, chúng ta thấy thi sĩ sắp xếp thứ tự như sau:
1. Sơn Tinh Thuỷ Tinh (Avril 1933), thất ngôn
2. Mỵ Châu (Janvier 1933), thất ngôn
3. Giếng Trọng Thuỷ (Janvier 1933), thất ngôn
4. Tay ngà (2 Mai 1934), ngũ ngôn
5. Mị Ê(Mai 1933), thất ngôn bát cú
6. Một buổi chiều xuân (6 Mai 1933), ngũ ngôn
7. Nguyễn Thị Kim khóc Lê Chiêu Thống (30 Décembre 1932), thất ngôn bát cú
8. Đi cống (10 Mai 1933), thất ngôn
9. Mây (25 Janvier 1934), ngũ ngôn
10. Chùa Hương (Aout 1934), ngũ ngôn
Ở đường Phan Thanh Giản, nơi cư ngụ của nhà văn Nguyễn Đức Quỳnh, thường thường là một nơi anh em văn nghệ họp mặt ngày trước đó, có một người thi sĩ đời xưa... xin Thanh Hữu đừng phiền nghe anh! Tôi gọi anh là một thi sĩ đời xưa, tôi cho anh là người đi lạc giữa đời hỗn độn nầy. Tôi cảm hiểu anh lắm đó. Người thi sĩ nầy ngâm thơ thật lạ thường, anh ngâm thơ cổ, anh trình bày kịch thơ Kiều Loan, tôi ngỡ anh là người của đời Xuân Thu, kẻ sĩ của một thời oanh liệt nhất lịch sử, và điều mà tôi muốn nói ở đây là anh đã mang được những nét duyên dáng của thơ Nguyễn Nhược Pháp, nét đùa cợt dí dỏm đó, cũng như sự quyến luyến say sưa của anh với nhà thơ nầy, vào tâm hồn say thơ của tôi. Từ đó tôi để ý và đi tìm đọc thơ Nguyễn Nhược Pháp, bài Sơn Tinh Thuỷ Tinh. Thật cả một sự lạ, tôi không ngờ Nguyễn Nhược Pháp có tâm hồn tươi tắn đến thế. Cái gì đối với ông cũng hiện hoạt trong sáng, trẻ trung điểm vào một tính chất hoài cổ lơ thơ của một người có vóc dáng dân tộc học nhưng còn một vẻ ý nhị Á Đông. Tôi đọc thơ ông để cảm, để vui giây bâng khuâng của một lứa tuổi thanh xuân nào đó. Nguyễn Nhược Pháp hay kể chuyện bằng thơ, chuyện Sơn Tinh Thuỷ Tinh, chuyện đi Chùa Hương, chuyện Đi Cống sứ vân vân... nhưng kể mà gợi lại được những huyền thoại xưa, kể mà làm lưu luyến người đọc, nghệ thuật kể chuyện bằng thơ... có lẽ chỉ có một Nguyễn Nhược Pháp mà thôi vậy.
(Trích Thi nhân Việt Nam hiện đại, Trần Tuấn Khải)
Nguyễn Nhược Pháp (1914-1938), con nhà văn hào Nguyễn Văn Vĩnh. Sinh ngày 12-12-1914 ở Hà Nội, mất ngày 19-11-1938. Học ở Hà Nội. Có bằng tú tài tây. Làm thơ từ năm 1932. Ngoài thơ có viết nhiều chuyện ngắn và kịch.
Có viết giúp: Annam Nouveau, Hà Nội Báo, Tinh Hoa, Đông Dương Tạp Chí.
Đã xuất bản: Ngày xưa (1935).
Thơ in ra rất ít mà được người ta mến rất nhiều, tưởng không ai bằng Nguyễn Nhược Pháp. Không mến sao được? Với đôi ba nét đơn sơ, Nguyễn Nhược Pháp đã làm sống lại cả một thời xưa. Không phải cái thời xưa nặng nề của nhà sử học, cũng không phải cái thời xưa tráng lệ hay mơ màng của Huy Thông, mà là một thời xưa gồm những màu sắc tươi vui, những hình dáng ngộ nghĩnh. Thời xưa ở đây đã mất hết cái vẻ rầu rĩ cố hữu và đã biết cười, cái cười của những thắt lưng dài đỏ hoe, những đôi dép cong nho nhỏ. Những cảnh ấy vốn có thực. Nhưng dầu sự thực không có thì nhà thơ sẽ tạo ra, khó gì. Mặc cho những nhà khảo cổ cặm cụi tìm nguyên do câu chuyện hai vị thần dành nhau một nàng công chúa, thi nhân cứ cho là có thực và người thấy khi Thuỷ Tinh đã bắt quyết gọi mưa để khoe tài, thì Sơn Tinh chẳng chịu thua, liền:
Vung tay niệm chú: Núi từng dải,
Nhà lớn, đồi con lổm cổm bò
Chạy mưa.
Sáng hôm sau, Thuỷ Tinh cưỡi rồng vàng đến xin cưới:
Theo sau cua đỏ và tôm cá,
Chia đội năm mươi hòm ngọc trai,
Khập khiễng bò lê trên đất lạ,
Trước thành tấp tểnh đi hàng hai.
Nhưng chậm mất rồi. Sơn Tinh đã đến trước. Tức quá, Thuỷ Tinh liền ra lệnh cho bọn đồ đệ dương oai:
Cá voi quác mồm to muốn đớp,
Cá mập quẫy đuôi cuồng nhe răng.
Càng cua lởm chởm giơ như mác;
Tôm kềnh chạy quắp đuôi xôn xao.
Ai xem những cảnh ấy mà không buồn cười. Thi nhân cũng chỉ muốn thế: kiếm chuyện cười chơi. Cũng có khi người cười những nhân vật chính người tạo ra, như cái cô bé đi Chùa Hương trong thiên ký sự chép những câu thật thà:
Em đi, chàng theo sau.
Em không dám đi mau,
Ngại chàng chê hấp tấp,
Số gian nan không giầu.
Có khi chẳng còn biết người muốn cười ai. Sau khi tả cái đẹp của Mỵ Nương, người thêm một câu:
Mê nàng, bao nhiêu người làm thơ,
Người vờ ngơ ngẩn để kiếm cớ diễu mình chơi, hay người muốn diễu những kẻ đứng trước gái đẹp bỗng thấy hồn thơ lai láng?
Lại có khi không diễu mình không diễu người, thi nhân cũng cười: cười vì một cảnh ngộ. Như khi Sơn Tinh và Thuỷ Tinh cùng đến hỏi Mỵ Nương, Hùng Vương sung sướng nhìn con:
Nhưng có một nàng mà hai rể,
Vua cho rằng cũng hơi nhiều.
Đọc thơ Nguyễn Nhược Pháp, lúc nào hình như cũng thoáng thấy bóng một người đương khúc khích cười. Nhưng cái cười của Nguyễn Nhược Pháp khác xa những lối bông lơn, khó chịu của các ông tú, từ Tú Suất, Tú Xương, đến Tú Mỡ. Nó hiền lành và thanh tao. Nội chừng ấy có lẽ cũng đủ cho nó có một địa vị trên thi đàn. Nhưng còn có điều này nữa mới thật quý: với Nguyễn Nhược Pháp nụ cười trên miệng bao giờ cũng kèm theo một ít cảm động trong lòng. Những cảnh, những người đã khiến thi nhân cười cũng là những cảnh, những người thi nhân mến. Người mến cô bé đi Chùa Hương và cùng cô bé san sẻ nỗi ước mơ, sung sướng, buồn rầu. Người mến nàng Mỵ Nương. Lúc Mỵ Nương từ biệt cha đi theo chồng, người thấy:
Lầu son nàng ngoái trông lần-nữa,
Mi xanh lệ ngọc mờ hơi sương.
rồi:
Nhìn quanh khói toả buồn man mác,
Nàng kêu: "Phụ Vương ôi! Phong-châu!
Một điều lạ là những câu tình tứ như thế ghép vào bên cạnh những câu đến buồn cười mà không chút bỡ ngỡ. Cái duyên của Nguyễn Nhược Pháp là ở đó.
Chắc Nguyễn Nhược Pháp không chịu ảnh hưởng A. France, nhưng xem Ngày Xưa tôi cứ nhớ đến cái duyên của tác giả Le livre de mon ami. Phải chăng Nguyễn Nhược Pháp cũng hay diễu đời và thương người như A. France? Không, nói diễu đời e không đúng. Nguyễn Nhược Pháp còn hiền lành hơn. Nguyễn Nhược Pháp chỉ muốn tìm những cảnh, những tình có thể mua vui. Dầu sao, tôi thấy Nguyễn Nhược Pháp già lắm, khác hẳn người bạn chí thân của người là Huy Thông. Người nhìn đời như một ông già nhìn đàn trẻ con rất ngộ nghĩnh mà cũng rất dễ yêu, mặc dầu người vẫn còn trẻ lắm. Người mất năm hai mươi bốn tuổi, lòng trong trắng như hồi còn thơ.
(Trích Thi nhân Việt Nam, Hoài Thanh - Hoài Chân)
Nguyễn Nhược Pháp (1914-1938), sinh ngày thứ bảy, 12 tháng 12 năm 1914 (nhằm ngày 25-10 năm Giáp Dần) tại Hà Nội. Là con trai thứ của văn hào Nguyễn Văn Vĩnh và là em của nhà thơ Nguyễn Giang. Ông theo học trường trung học Albert Sarraut. Sau khi đậu tú tài ông học luật trong một thời gian cùng với thi sĩ Phạm Huy Thông. Vào 7 giờ sáng ngày 19-11-1938 (nhằm ngày 28-9 năm Mậu Dần) ông qua đời tại bệnh viện LaneSao Biển an Hà Nội vì bệnh thương hàn, hưởng thọ 24 tuổi.
Tác phẩm đã in: Ngày xưa (Nguyễn Dương xuất bản, Hà Nội 1935), Người học vẽ (kịch bản, xuất bản 1936 Hà Nội). Trong thi phẩm Ngày xưa, chúng ta thấy thi sĩ sắp xếp thứ tự như sau:
1. Sơn Tinh Thuỷ Tinh (Avril 1933), thất ngôn
2. Mỵ Châu (Janvier 1933), thất ngôn
3. Giếng Trọng Thuỷ (Janvier 1933), thất ngôn
4. Tay ngà …
Ngày xưa (1935)