Nguyễn Nhược Pháp

Nguyễn Nhược Pháp (1914-1938), sinh ngày thứ bảy, 12 tháng 12 năm 1914 (nhằm ngày 25-10 năm Giáp Dần) tại Hà Nội. Là con trai thứ của văn hào Nguyễn Văn Vĩnh và là em của nhà thơ Nguyễn Giang. Ông theo học trường trung học Albert Sarraut. Sau khi đậu tú tài ông học luật trong một thời gian cùng với thi sĩ Phạm Huy Thông. Vào 7 giờ sáng ngày 19-11-1938 (nhằm ngày 28-9 năm Mậu Dần) ông qua đời tại bệnh viện LaneSao Biển an Hà Nội vì bệnh thương hàn, hưởng thọ 24 tuổi. Tác phẩm đã in: Ngày xưa (Nguyễn Dương xuất bản, Hà Nội 1935), Người học vẽ (kịch bản, xuất bản 1936 Hà Nội). Trong thi phẩm Ngày xưa, chúng ta thấy thi sĩ sắp xếp thứ tự như sau: 1. Sơn Tinh Thuỷ Tinh (Avril 1933), thất ngôn 2. Mỵ Châu (Janvier 1933), thất ngôn 3. Giếng Trọng Thuỷ (Janvier 1933), thất ngôn 4. Tay ngà (2 Mai 1934), ngũ ngôn 5. Mị Ê(Mai 1933), thất ngôn bát cú 6. Một buổi chiều xuân (6 Mai 1933), ngũ ngôn 7. Nguyễn Thị Kim khóc Lê Chiêu Thống (30 Décembre 1932), thất ngôn bát cú 8. Đi cống (10 Mai 1933), thất ngôn 9. Mây (25 Janvier 1934), ngũ ngôn 10. Chùa Hương (Aout 1934), ngũ ngôn Ở đường Phan Thanh Giản, nơi cư ngụ của nhà văn Nguyễn Đức Quỳnh, thường thường là một nơi anh em văn nghệ họp mặt ngày trước đó, có một người thi sĩ đời xưa... xin Thanh Hữu đừng phiền nghe anh! Tôi gọi anh là một thi sĩ đời xưa, tôi cho anh là người đi lạc giữa đời hỗn độn nầy. Tôi cảm hiểu anh lắm đó. Người thi sĩ nầy ngâm thơ thật lạ thường, anh ngâm thơ cổ, anh trình bày kịch thơ Kiều Loan, tôi ngỡ anh là người của đời Xuân Thu, kẻ sĩ của một thời oanh liệt nhất lịch sử, và điều mà tôi muốn nói ở đây là anh đã mang được những nét duyên dáng của thơ Nguyễn Nhược Pháp, nét đùa cợt dí dỏm đó, cũng như sự quyến luyến say sưa của anh với nhà thơ nầy, vào tâm hồn say thơ của tôi. Từ đó tôi để ý và đi tìm đọc thơ Nguyễn Nhược Pháp, bài Sơn Tinh Thuỷ Tinh. Thật cả một sự lạ, tôi không ngờ Nguyễn Nhược Pháp có tâm hồn tươi tắn đến thế. Cái gì đối với ông cũng hiện hoạt trong sáng, trẻ trung điểm vào một tính chất hoài cổ lơ thơ của một người có vóc dáng dân tộc học nhưng còn một vẻ ý nhị Á Đông. Tôi đọc thơ ông để cảm, để vui giây bâng khuâng của một lứa tuổi thanh xuân nào đó. Nguyễn Nhược Pháp hay kể chuyện bằng thơ, chuyện Sơn Tinh Thuỷ Tinh, chuyện đi Chùa Hương, chuyện Đi Cống sứ vân vân... nhưng kể mà gợi lại được những huyền thoại xưa, kể mà làm lưu luyến người đọc, nghệ thuật kể chuyện bằng thơ... có lẽ chỉ có một Nguyễn Nhược Pháp mà thôi vậy. (Trích Thi nhân Việt Nam hiện đại, Trần Tuấn Khải) Nguyễn Nhược Pháp (1914-1938), con nhà văn hào Nguyễn Văn Vĩnh. Sinh ngày 12-12-1914 ở Hà Nội, mất ngày 19-11-1938. Học ở Hà Nội. Có bằng tú tài tây. Làm thơ từ năm 1932. Ngoài thơ có viết nhiều chuyện ngắn và kịch. Có viết giúp: Annam Nouveau, Hà Nội Báo, Tinh Hoa, Đông Dương Tạp Chí. Đã xuất bản: Ngày xưa (1935). Thơ in ra rất ít mà được người ta mến rất nhiều, tưởng không ai bằng Nguyễn Nhược Pháp. Không mến sao được? Với đôi ba nét đơn sơ, Nguyễn Nhược Pháp đã làm sống lại cả một thời xưa. Không phải cái thời xưa nặng nề của nhà sử học, cũng không phải cái thời xưa tráng lệ hay mơ màng của Huy Thông, mà là một thời xưa gồm những màu sắc tươi vui, những hình dáng ngộ nghĩnh. Thời xưa ở đây đã mất hết cái vẻ rầu rĩ cố hữu và đã biết cười, cái cười của những thắt lưng dài đỏ hoe, những đôi dép cong nho nhỏ. Những cảnh ấy vốn có thực. Nhưng dầu sự thực không có thì nhà thơ sẽ tạo ra, khó gì. Mặc cho những nhà khảo cổ cặm cụi tìm nguyên do câu chuyện hai vị thần dành nhau một nàng công chúa, thi nhân cứ cho là có thực và người thấy khi Thuỷ Tinh đã bắt quyết gọi mưa để khoe tài, thì Sơn Tinh chẳng chịu thua, liền: Vung tay niệm chú: Núi từng dải, Nhà lớn, đồi con lổm cổm bò Chạy mưa. Sáng hôm sau, Thuỷ Tinh cưỡi rồng vàng đến xin cưới: Theo sau cua đỏ và tôm cá, Chia đội năm mươi hòm ngọc trai, Khập khiễng bò lê trên đất lạ, Trước thành tấp tểnh đi hàng hai. Nhưng chậm mất rồi. Sơn Tinh đã đến trước. Tức quá, Thuỷ Tinh liền ra lệnh cho bọn đồ đệ dương oai: Cá voi quác mồm to muốn đớp, Cá mập quẫy đuôi cuồng nhe răng. Càng cua lởm chởm giơ như mác; Tôm kềnh chạy quắp đuôi xôn xao. Ai xem những cảnh ấy mà không buồn cười. Thi nhân cũng chỉ muốn thế: kiếm chuyện cười chơi. Cũng có khi người cười những nhân vật chính người tạo ra, như cái cô bé đi Chùa Hương trong thiên ký sự chép những câu thật thà: Em đi, chàng theo sau. Em không dám đi mau, Ngại chàng chê hấp tấp, Số gian nan không giầu. Có khi chẳng còn biết người muốn cười ai. Sau khi tả cái đẹp của Mỵ Nương, người thêm một câu: Mê nàng, bao nhiêu người làm thơ, Người vờ ngơ ngẩn để kiếm cớ diễu mình chơi, hay người muốn diễu những kẻ đứng trước gái đẹp bỗng thấy hồn thơ lai láng? Lại có khi không diễu mình không diễu người, thi nhân cũng cười: cười vì một cảnh ngộ. Như khi Sơn Tinh và Thuỷ Tinh cùng đến hỏi Mỵ Nương, Hùng Vương sung sướng nhìn con: Nhưng có một nàng mà hai rể, Vua cho rằng cũng hơi nhiều. Đọc thơ Nguyễn Nhược Pháp, lúc nào hình như cũng thoáng thấy bóng một người đương khúc khích cười. Nhưng cái cười của Nguyễn Nhược Pháp khác xa những lối bông lơn, khó chịu của các ông tú, từ Tú Suất, Tú Xương, đến Tú Mỡ. Nó hiền lành và thanh tao. Nội chừng ấy có lẽ cũng đủ cho nó có một địa vị trên thi đàn. Nhưng còn có điều này nữa mới thật quý: với Nguyễn Nhược Pháp nụ cười trên miệng bao giờ cũng kèm theo một ít cảm động trong lòng. Những cảnh, những người đã khiến thi nhân cười cũng là những cảnh, những người thi nhân mến. Người mến cô bé đi Chùa Hương và cùng cô bé san sẻ nỗi ước mơ, sung sướng, buồn rầu. Người mến nàng Mỵ Nương. Lúc Mỵ Nương từ biệt cha đi theo chồng, người thấy: Lầu son nàng ngoái trông lần-nữa, Mi xanh lệ ngọc mờ hơi sương. rồi: Nhìn quanh khói toả buồn man mác, Nàng kêu: "Phụ Vương ôi! Phong-châu! Một điều lạ là những câu tình tứ như thế ghép vào bên cạnh những câu đến buồn cười mà không chút bỡ ngỡ. Cái duyên của Nguyễn Nhược Pháp là ở đó. Chắc Nguyễn Nhược Pháp không chịu ảnh hưởng A. France, nhưng xem Ngày Xưa tôi cứ nhớ đến cái duyên của tác giả Le livre de mon ami. Phải chăng Nguyễn Nhược Pháp cũng hay diễu đời và thương người như A. France? Không, nói diễu đời e không đúng. Nguyễn Nhược Pháp còn hiền lành hơn. Nguyễn Nhược Pháp chỉ muốn tìm những cảnh, những tình có thể mua vui. Dầu sao, tôi thấy Nguyễn Nhược Pháp già lắm, khác hẳn người bạn chí thân của người là Huy Thông. Người nhìn đời như một ông già nhìn đàn trẻ con rất ngộ nghĩnh mà cũng rất dễ yêu, mặc dầu người vẫn còn trẻ lắm. Người mất năm hai mươi bốn tuổi, lòng trong trắng như hồi còn thơ. (Trích Thi nhân Việt Nam, Hoài Thanh - Hoài Chân) Nguyễn Nhược Pháp (1914-1938), sinh ngày thứ bảy, 12 tháng 12 năm 1914 (nhằm ngày 25-10 năm Giáp Dần) tại Hà Nội. Là con trai thứ của văn hào Nguyễn Văn Vĩnh và là em của nhà thơ Nguyễn Giang. Ông theo học trường trung học Albert Sarraut. Sau khi đậu tú tài ông học luật trong một thời gian cùng với thi sĩ Phạm Huy Thông. Vào 7 giờ sáng ngày 19-11-1938 (nhằm ngày 28-9 năm Mậu Dần) ông qua đời tại bệnh viện LaneSao Biển an Hà Nội vì bệnh thương hàn, hưởng thọ 24 tuổi. Tác phẩm đã in: Ngày xưa (Nguyễn Dương xuất bản, Hà Nội 1935), Người học vẽ (kịch bản, xuất bản 1936 Hà Nội). Trong thi phẩm Ngày xưa, chúng ta thấy thi sĩ sắp xếp thứ tự như sau: 1. Sơn Tinh Thuỷ Tinh (Avril 1933), thất ngôn 2. Mỵ Châu (Janvier 1933), thất ngôn 3. Giếng Trọng Thuỷ (Janvier 1933), thất ngôn 4. Tay ngà … Ngày xưa (1935)

Nguyễn Nhược Pháp (1914-1938), sinh ngày thứ bảy, 12 tháng 12 năm 1914 (nhằm ngày 25-10 năm Giáp Dần) tại Hà Nội. Là con trai thứ của văn hào Nguyễn Văn Vĩnh và là em của nhà thơ Nguyễn Giang. Ông theo học trường trung học Albert Sarraut. Sau khi đậu tú tài ông học luật trong một thời gian cùng với thi sĩ Phạm Huy Thông. Vào 7 giờ sáng ngày 19-11-1938 (nhằm ngày 28-9 năm Mậu Dần) ông qua đời tại bệnh viện LaneSao Biển an Hà Nội vì bệnh thương hàn, hưởng thọ 24 tuổi.

Tác phẩm đã in: Ngày xưa (Nguyễn Dương xuất bản, Hà Nội 1935), Người học vẽ (kịch bản, xuất bản 1936 Hà Nội). Trong thi phẩm Ngày xưa, chúng ta thấy thi sĩ sắp xếp thứ tự như sau:

1. Sơn Tinh Thuỷ Tinh (Avril 1933), thất ngôn
2. Mỵ Châu (Janvier 1933), thất ngôn
3. Giếng Trọng Thuỷ (Janvier 1933), thất ngôn
4. Tay ngà (2 Mai 1934), ngũ ngôn
5. Mị Ê(Mai 1933), thất ngôn bát cú
6. Một buổi chiều xuân (6 Mai 1933), ngũ ngôn
7. Nguyễn Thị Kim khóc Lê Chiêu Thống (30 Décembre 1932), thất ngôn bát cú
8. Đi cống (10 Mai 1933), thất ngôn
9. Mây (25 Janvier 1934), ngũ ngôn
10. Chùa Hương (Aout 1934), ngũ ngôn

Ở đường Phan Thanh Giản, nơi cư ngụ của nhà văn Nguyễn Đức Quỳnh, thường thường là một nơi anh em văn nghệ họp mặt ngày trước đó, có một người thi sĩ đời xưa... xin Thanh Hữu đừng phiền nghe anh! Tôi gọi anh là một thi sĩ đời xưa, tôi cho anh là người đi lạc giữa đời hỗn độn nầy. Tôi cảm hiểu anh lắm đó. Người thi sĩ nầy ngâm thơ thật lạ thường, anh ngâm thơ cổ, anh trình bày kịch thơ Kiều Loan, tôi ngỡ anh là người của đời Xuân Thu, kẻ sĩ của một thời oanh liệt nhất lịch sử, và điều mà tôi muốn nói ở đây là anh đã mang được những nét duyên dáng của thơ Nguyễn Nhược Pháp, nét đùa cợt dí dỏm đó, cũng như sự quyến luyến say sưa của anh với nhà thơ nầy, vào tâm hồn say thơ của tôi. Từ đó tôi để ý và đi tìm đọc thơ Nguyễn Nhược Pháp, bài Sơn Tinh Thuỷ Tinh. Thật cả một sự lạ, tôi không ngờ Nguyễn Nhược Pháp có tâm hồn tươi tắn đến thế. Cái gì đối với ông cũng hiện hoạt trong sáng, trẻ trung điểm vào một tính chất hoài cổ lơ thơ của một người có vóc dáng dân tộc học nhưng còn một vẻ ý nhị Á Đông. Tôi đọc thơ ông để cảm, để vui giây bâng khuâng của một lứa tuổi thanh xuân nào đó. Nguyễn Nhược Pháp hay kể chuyện bằng thơ, chuyện Sơn Tinh Thuỷ Tinh, chuyện đi Chùa Hương, chuyện Đi Cống sứ vân vân... nhưng kể mà gợi lại được những huyền thoại xưa, kể mà làm lưu luyến người đọc, nghệ thuật kể chuyện bằng thơ... có lẽ chỉ có một Nguyễn Nhược Pháp mà thôi vậy.

(Trích Thi nhân Việt Nam hiện đại, Trần Tuấn Khải)



Nguyễn Nhược Pháp (1914-1938), con nhà văn hào Nguyễn Văn Vĩnh. Sinh ngày 12-12-1914 ở Hà Nội, mất ngày 19-11-1938. Học ở Hà Nội. Có bằng tú tài tây. Làm thơ từ năm 1932. Ngoài thơ có viết nhiều chuyện ngắn và kịch.

Có viết giúp: Annam Nouveau, Hà Nội Báo, Tinh Hoa, Đông Dương Tạp Chí.

Đã xuất bản: Ngày xưa (1935).

Thơ in ra rất ít mà được người ta mến rất nhiều, tưởng không ai bằng Nguyễn Nhược Pháp. Không mến sao được? Với đôi ba nét đơn sơ, Nguyễn Nhược Pháp đã làm sống lại cả một thời xưa. Không phải cái thời xưa nặng nề của nhà sử học, cũng không phải cái thời xưa tráng lệ hay mơ màng của Huy Thông, mà là một thời xưa gồm những màu sắc tươi vui, những hình dáng ngộ nghĩnh. Thời xưa ở đây đã mất hết cái vẻ rầu rĩ cố hữu và đã biết cười, cái cười của những thắt lưng dài đỏ hoe, những đôi dép cong nho nhỏ. Những cảnh ấy vốn có thực. Nhưng dầu sự thực không có thì nhà thơ sẽ tạo ra, khó gì. Mặc cho những nhà khảo cổ cặm cụi tìm nguyên do câu chuyện hai vị thần dành nhau một nàng công chúa, thi nhân cứ cho là có thực và người thấy khi Thuỷ Tinh đã bắt quyết gọi mưa để khoe tài, thì Sơn Tinh chẳng chịu thua, liền:

Vung tay niệm chú: Núi từng dải,
Nhà lớn, đồi con lổm cổm bò
Chạy mưa.

Sáng hôm sau, Thuỷ Tinh cưỡi rồng vàng đến xin cưới:

Theo sau cua đỏ và tôm cá,
Chia đội năm mươi hòm ngọc trai,
Khập khiễng bò lê trên đất lạ,
Trước thành tấp tểnh đi hàng hai.

Nhưng chậm mất rồi. Sơn Tinh đã đến trước. Tức quá, Thuỷ Tinh liền ra lệnh cho bọn đồ đệ dương oai:

Cá voi quác mồm to muốn đớp,
Cá mập quẫy đuôi cuồng nhe răng.
Càng cua lởm chởm giơ như mác;
Tôm kềnh chạy quắp đuôi xôn xao.

Ai xem những cảnh ấy mà không buồn cười. Thi nhân cũng chỉ muốn thế: kiếm chuyện cười chơi. Cũng có khi người cười những nhân vật chính người tạo ra, như cái cô bé đi Chùa Hương trong thiên ký sự chép những câu thật thà:

Em đi, chàng theo sau.
Em không dám đi mau,
Ngại chàng chê hấp tấp,
Số gian nan không giầu.

Có khi chẳng còn biết người muốn cười ai. Sau khi tả cái đẹp của Mỵ Nương, người thêm một câu:

Mê nàng, bao nhiêu người làm thơ,

Người vờ ngơ ngẩn để kiếm cớ diễu mình chơi, hay người muốn diễu những kẻ đứng trước gái đẹp bỗng thấy hồn thơ lai láng?

Lại có khi không diễu mình không diễu người, thi nhân cũng cười: cười vì một cảnh ngộ. Như khi Sơn Tinh và Thuỷ Tinh cùng đến hỏi Mỵ Nương, Hùng Vương sung sướng nhìn con:

Nhưng có một nàng mà hai rể,
Vua cho rằng cũng hơi nhiều.

Đọc thơ Nguyễn Nhược Pháp, lúc nào hình như cũng thoáng thấy bóng một người đương khúc khích cười. Nhưng cái cười của Nguyễn Nhược Pháp khác xa những lối bông lơn, khó chịu của các ông tú, từ Tú Suất, Tú Xương, đến Tú Mỡ. Nó hiền lành và thanh tao. Nội chừng ấy có lẽ cũng đủ cho nó có một địa vị trên thi đàn. Nhưng còn có điều này nữa mới thật quý: với Nguyễn Nhược Pháp nụ cười trên miệng bao giờ cũng kèm theo một ít cảm động trong lòng. Những cảnh, những người đã khiến thi nhân cười cũng là những cảnh, những người thi nhân mến. Người mến cô bé đi Chùa Hương và cùng cô bé san sẻ nỗi ước mơ, sung sướng, buồn rầu. Người mến nàng Mỵ Nương. Lúc Mỵ Nương từ biệt cha đi theo chồng, người thấy:

Lầu son nàng ngoái trông lần-nữa,
Mi xanh lệ ngọc mờ hơi sương.

rồi:

Nhìn quanh khói toả buồn man mác,
Nàng kêu: "Phụ Vương ôi! Phong-châu!

Một điều lạ là những câu tình tứ như thế ghép vào bên cạnh những câu đến buồn cười mà không chút bỡ ngỡ. Cái duyên của Nguyễn Nhược Pháp là ở đó.

Chắc Nguyễn Nhược Pháp không chịu ảnh hưởng A. France, nhưng xem Ngày Xưa tôi cứ nhớ đến cái duyên của tác giả Le livre de mon ami. Phải chăng Nguyễn Nhược Pháp cũng hay diễu đời và thương người như A. France? Không, nói diễu đời e không đúng. Nguyễn Nhược Pháp còn hiền lành hơn. Nguyễn Nhược Pháp chỉ muốn tìm những cảnh, những tình có thể mua vui. Dầu sao, tôi thấy Nguyễn Nhược Pháp già lắm, khác hẳn người bạn chí thân của người là Huy Thông. Người nhìn đời như một ông già nhìn đàn trẻ con rất ngộ nghĩnh mà cũng rất dễ yêu, mặc dầu người vẫn còn trẻ lắm. Người mất năm hai mươi bốn tuổi, lòng trong trắng như hồi còn thơ.

(Trích Thi nhân Việt Nam, Hoài Thanh - Hoài Chân)
Nguyễn Nhược Pháp (1914-1938), sinh ngày thứ bảy, 12 tháng 12 năm 1914 (nhằm ngày 25-10 năm Giáp Dần) tại Hà Nội. Là con trai thứ của văn hào Nguyễn Văn Vĩnh và là em của nhà thơ Nguyễn Giang. Ông theo học trường trung học Albert Sarraut. Sau khi đậu tú tài ông học luật trong một thời gian cùng với thi sĩ Phạm Huy Thông. Vào 7 giờ sáng ngày 19-11-1938 (nhằm ngày 28-9 năm Mậu Dần) ông qua đời tại bệnh viện LaneSao Biển an Hà Nội vì bệnh thương hàn, hưởng thọ 24 tuổi.

Tác phẩm đã in: Ngày xưa (Nguyễn Dương xuất bản, Hà Nội 1935), Người học vẽ (kịch bản, xuất bản 1936 Hà Nội). Trong thi phẩm Ngày xưa, chúng ta thấy thi sĩ sắp xếp thứ tự như sau:

1. Sơn Tinh Thuỷ Tinh (Avril 1933), thất ngôn
2. Mỵ Châu (Janvier 1933), thất ngôn
3. Giếng Trọng Thuỷ (Janvier 1933), thất ngôn
4. Tay ngà …

Ngày xưa (1935)

Bài liên quan

Quảng Nghiêm thiền sư 廣嚴禪師

Quảng Nghiêm thiền sư 廣嚴禪師 (1121–1190) họ Nguyễn 阮, người đất Đan Phượng, thuộc thế hệ thứ 11 dòng thiền Vô Ngôn Thông. Theo học người câu là Bảo Nhật, sau đến chùa Phúc Thành thụ giáo với Thiền Sư Trí Thiền, rồi trụ trì chùa Thánh Ân ở Siêu Loại. Được Thượng Thư Bộ Binh Bằng Giáng Tường mời về trụ ...

Vũ Đình Liên

Tên thật được lấy làm bút danh, sinh ngày 12-11-1913, quê gốc Hải Dương, mất ngày 18-1-1996 tại Hà Nội, Vũ Đình Liên là một trong những người mở đầu và góp phần thắng lợi cho phong trào thơ mới bằng một bài thơ (chỉ một thôi) xuất sắc Ông đồ , lần đầu in trên báo Tinh hoa năm 1936. Trước và sau Ông ...

Nguyễn Đình Thư

Nguyễn Đình Thư sinh ngày 1/2/1917 tại làng Phước Yên, Quảng Điền, Thừa Thiên. Ông nhà nghèo, nhờ bà ngoại nuôi đến lớn nên lấy tên Thư với ý rằng đời xưa Nguỵ Thư khôn lớn cũng nhờ bên ngoại. Ông học trường Queignec, Quốc học Huế, có bằng thành chung, sau làm thư ký Kho bạc Huế. Sau, ông tham gia ...

Trần Huyền Trân Trần Đình Kim

Trần Huyền Trân tên thật là Trần Đình Kim, sinh ngày 13/9/1913 tại Hà Nội. Ông quê ở huyện Ân Thi, Hưng Yên, tham gia phong trào Thơ mới. Sau Cách mạng tháng Tám, ông tham gia Việt Minh, làm việc ở đoàn kịch Tháng Tám. Sau năm 1954, Trần Huyền Trân chuyển sang hoạt động chủ yếu ở lĩnh vực sân khấu. ...

Mộng Huyền

Mộng Huyền sinh năm 1919 ở Huế, học Ban tú tài ở Hà Nội, đã đăng thơ trên các báo Tràng An , Sông Hương .

Nguyễn Viết Thâm

Nguyễn Viết Thâm (1917-) là nhà thơ Việt Nam, quê ở Thanh Văn, Thanh Chương, Nghệ An. Ông là hội viên Hội VHNT Hải Phòng. Tác phẩm: - Sau luỹ tre xanh (thơ), Huế, 1939 - Vầng trăng đêm ấy (thơ in chung), NXB Lao động, 1994

Trần Mai Ninh Nguyễn Thường Khanh, Mai Đỗ, Hồng Diên, TK

Trần Mai Ninh (1917-1947) tên thật là Nguyễn Thường Khanh, sinh tại Thanh Hoá. Bút danh khác: Mai Đỗ, Hồng Diên, TK. Thể loại: thơ, truyện ngắn, phê bình văn học. Các tác phẩm: - Thằng Tuất (1939) - Trừ hoạ (1941) - Ngơ ngác (1941) - Sống đã rồi viết văn (1944) - Thơ văn Trần Mai Ninh (1980)

Trác Văn Quân 卓文君

Trác Văn Quân 卓文君 là tài nữ người Lâm Cùng đời Tây Hán (nay thuộc Cùng Lai, Tứ Xuyên), giỏi đàn, thiện âm luật. Nàng xuất thân phú quý, là con của đại phú thương thời đó là Trác Vương Tôn 卓王孫, lấy chồng nhưng sớm thành quả phụ. Tư Mã Tương Như 司馬相如 đến uống rượu nhà họ Trác, biết trong nhà có quả ...

Lưu Triệt 劉徹, Hán Vũ Đế

Lưu Triệt 劉徹 (156 tr.CN – 87 tr.CN) tức Hán Vũ Đế 漢武帝, tại vị từ năm 140 tr.CN đến năm 87 tr.CN. Lưu Triệt là một vị vua hùng tài đảm lược, tiếp tục chính sách của Cảnh Đế 景帝, đối nội thì thống nhất toàn vẹn, đối ngoại thì uy hiếp Hung Nô. Về các mặt chính trị, kinh tế ông cũng đều tiến hành những ...

Hà Thị Hải Yến

Hà Thị Hải Yến sinh năm 1969 tại Yên Bái, công tác tại NXB Giáo dục. Tác phẩm đã in có "Cổ tích tình yêu" (1999) và thơ đăng trong "Ngày hội thơ" của NXB hội nhà văn.

Mới nhất

THPT Đinh Tiên Hoàng

THPT Đinh Tiên Hoàng đang không ngừng nỗ lực phát triển trở thành một ngôi trường với chất lượng giảng dạy tốt nhất, tạo ra những thế hệ học sinh chất lượng

THPT Thực nghiệm

Trường THPT Thực Nghiệm trực thuộc Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam. Trường là cơ sở giáo dục đào tạo công lập trong hệ thống giáo dục quốc dân và trong hệ thống các trường phổ thông của thành phố Hà Nội. Trường dạy học theo chương trình giáo dục Trung học phổ thông của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Tiếp ...

THPT Đông Kinh

Khẩu hiệu hành động: “ Hãy đặt mình vào vị trí cha mẹ học sinh để giảng giải giáo dục và xử lý công việc ” “ Tất cả vì học sinh thân yêu ”

THPT Hà Nội Academy

Những rào cản còn tồn tại kể trên sẽ được vượt qua bởi những công dân toàn cầu tích cực với nhiệm vụ chung tay xây dựng một thế giới tốt đẹp hơn thông qua việc nghiên cứu và tìm kiếm giải pháp cho những vấn đề toàn cầu bao gồm, nhưng không giới hạn ở nhân quyền, đói nghèo và công bằng xã hội. Nhận ...

http://thptkimlien-hanoi.edu.vn/

Qua 40 năm nỗ lực phấn đấu trong các hoạt động giáo dục, vượt khó khăn, thiếu thốn về cơ sở vật chất, trường THPT Kim Liên đã tạo dựn được uy tín vững chắc, là 1 trong 5 trường THPT hàng đầu của Thủ đô có chất lượng giáo dục toàn diện không ngừng nâng cao và trở thành địa chỉ tin cậy của các bậc ...

THPT Tô Hiến Thành

Trường THPT Tô Hiến Thành được thành lập từ năm học 1995-1996, theo quyết định của Ủy Ban nhân dân tỉnh Thanh Hóa. Đến tháng 6/2010, trường chuyển đổi loại hình sang công lập. Suốt 20 năm phát triển, thầy, cô giáo, thế hệ học sinh đã phấn đấu vượt qua mọi khó khăn, gian khổ, từng bước phát triển ...

THPT Mai Hắc Đế

Trường THPT Mai Hắc Đế được thành lập năm 2009, sau gần 10 năm xây dựng và phát triển, Trường đã trở thành một địa chỉ tin cậy trong đào tạo bậc THPT trên địa bàn Hà Nội.

Trường Trung học phổ thông Nguyễn Gia Thiều

Nhìn lại chặng đường gần 60 năm xây dựng và trưởng thành , các thế hệ giáo viên và học sinh trường Nguyễn Gia Thiều có thể tự hào về truyền thống vẻ vang của trường ; tự hào vì trường đã đóng góp cho đất nước những Anh hùng , liệt sĩ , những người chiến sĩ , nhà khoa học , trí thức , những cán bộ ...

Trường Trung học phổ thông MV.Lô-mô-nô-xốp

Sứ mệnh Xây dựng Hệ thống giáo dục Lômônôxốp có môi trường học tập nền nếp, kỉ cương, chất lượng giáo dục cao; học sinh được giáo dục toàn diện, có cơ hội, điều kiện phát triển phẩm chất, năng lực và tư duy sáng tạo, tự tin hội nhập.

Trường Trung học phổ thông Quốc tế Việt Úc Hà Nội

Trường thực hiện việc giảng dạy và học tập theo chương trình do Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành, thực hiện thời gian học tập theo biên chế năm học do Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định. Song song với chương trình này là chương trình học bằng tiếng Anh được giảng dạy bởi đội ngũ giáo viên bản ngữ giàu ...