18/06/2018, 15:26

Nguồn gốc và kì công của người Goth (phần 1)

Tác phẩm Getica của Jordan Bản tiếng Anh của Charles C. Mierow Đàm Hà Khánh dịch và chú thích Lời nói đầu Sử gia Jordanes sống vào thế kỷ thứ 6 là người đã viết tác phẩm Romana (lịch sử La Mã), tuy nhiên tác phẩm nổi tiếng nhất của ông lại là Getica, tác phẩm ...

Tác phẩm Getica của Jordan

Bản tiếng Anh của Charles C. Mierow

Đàm Hà Khánh dịch và chú thích

Lời nói đầu

Sử gia Jordanes sống vào thế kỷ thứ 6 là người đã viết tác phẩm Romana (lịch sử La Mã), tuy nhiên tác phẩm nổi tiếng nhất của ông lại là Getica, tác phẩm duy nhất mô tả đầy đủ lịch sử của dân tộc Goth. Jordanes, bản thân có gốc gác Gothic, viết tác phẩm này như một bản tổng hợp dài hơn từ cuốn sách “lịch sử của những người Goths” của sử gia Cassiodorus. Bởi vì cuốn sách của Cassiodorus đã biến mất nên Getica của Jordanes là tác phẩm duy nhất viết về lịch sử người Goth còn tồn tại. Ông đã viết Getica trong giai đoạn cuối của triều đại của Justinian, không lâu sau khi sự sụp đổ của vương quốc Ostrogothic ở Ý.

Jordanes chia tác phẩm của mình, ngoài phần giới thiệu và kết luận, thành bốn phần chính : 1) Giới thiệu địa lý, 2) Liên minh những người Goths ; 3) người Visigoth; 4) và người Ostrogoth. Các nội dung khác, chẳng hạn như các chủ đề về người Hun, ông đưa vào phần phụ lục ( mà những phần thú vị và quan trọng được trích đưa thẳng vào nội  dung bản dịch tiếng Anh của Mierow).

Vốn không phải là một dịch giả chuyên nghiệp tôi chỉ xin góp phần tạm dịch thô nội dung tác phẩm Getica mà tôi nghĩ là cực kì thú vị đối với những người yêu sử để giới thiệu với độc giả mà thôi. Tôi hy vọng trong tương lai những tác phẩm lịch sử nổi tiếng thế giới sẽ tiếp tục được những dịch giả khác chuyển ngữ và phổ biến đầy đủ hơn.

Phần 1: Giới thiệu về địa lý

Tổ tiên chúng ta, chẳng hạn như Orosius (1), đã cho rằng thế giới được gắn kết vòng quanh bởi ba thành phần bao bọc bởi các đại dương (2). Ba phần của nó được gọi là Châu Á, Châu Âu và Châu Phi. Liên quan đến sự phân chia ba lục địa của trái đất hầu như đã có vô số những học giả, những người không chỉ cố gắng miêu tả tình trạng của các thành phố và các địa điểm, mà còn  đo lường khoảng cách và thống kê các vị trí. Hơn nữa, họ còn xác định vị trí các đảo xen kẽ giữa những con sóng đại dương, cả những đảo lớn và  những hòn đảo nhỏ hơn được gọi là Cyclades hay Sporades ​​trong lòng đại dương.

Nhưng xa hơn những giới hạn đó của đại dương thì không những chưa có ai mô tả, mà còn chưa từng  có người nào đạt tới, lý do là vì sự ngăn trở của những cơn gió và những dòng hải lưu đã khiến cho những vùng đất xa vẫn còn chưa được khám phá, lưu giữ riêng những bí mật giành riêng cho Đức chúa người tạo ra vạn vật.

Tuy nhiên, ở những biên giới gần hơn của đại dương, mà chúng ta gọi là vòng tròn của thế giới, thì vùng bờ biển được bao bọc giống như một vòng hoa. (3) Điều này đã được con người biết rõ từ lâu và thậm chí cố gắng để viết về nó. Không chỉ trên bờ biển mới có cư dân mà trên các hòn đảo xa cũng có người cư ngụ. Như vậy về phía Đông ở Ấn Độ Dương là các đảo Hippodes, Iamnesia, Solis Perusta (mặc dù không thể sinh sống được tuy rất dài và rộng), bên cạnh đó là Taprobane, một hòn đảo bằng phẳng trong đó có các thành thị  và mười thành phố là những pháo đài mạnh mẽ . Và có cả những thành phố khác như Theros cùng với Silefantina đáng yêu .

Những đảo này, mặc dù không được mô tả rõ ràng bởi bất cứ nhà văn nào, vẫn đầy dân cư. Đại Dương cùng với những hòn đảo phía tây đã được biết đến rộng rãi bởi số lượng rất nhiều những hành trình qua lại. Hai trong số chúng cách không xa khu vực eo biển Gades, một đảo gọi là đảo Ban phước và một là đảo May Mắn. Một số người cho rằng hai doi đất Galicia và Lusitania cũng là các đảo phía tây, mà trên đó vẫn còn có thể nhìn thấy đền thờ của Hercules và Đài tưởng niệm của Scipio. Tuy nhiên đó là các cực của lãnh thổ xứ Galicia thuộc về vùng đất rộng lớn ở châu Âu .

Tuy nhiên, có các đảo khác nằm xa hơn trên đại dương, gọi là Baleares và Mevania, và Orcades, tổng cộng 33 đảo mặc dù không phải tất cả các đảo đều có người cư ngụ. Và ở xa nhất về phía tây là một hòn đảo tên là Thule (4), vốn được thi sĩ Mantuan  đề cập đến ” Nơi xa nhất chính là đảo Thule”

Một biển vùng vĩ đại cũng ở khu vực Bắc cực, ở xa nơi phía bắc ấy có một hòn một hòn đảo vĩ đại tên là Scandza mà từ đó câu chuyện của tôi (bởi ân điển của Đức Chúa Trời) sẽ bắt đầu. Từ đó bắt nguồn cho nguồn gốc một chủng tộc mà chúng ta tìm hiểu, bật ra như một đàn ong từ giữa hòn đảo này đi vào các vùng đất của châu Âu. Nhưng hành trình ấy như thế nào và ra sao thì chúng ta sẽ giải thích sau đây, nếu đó là ý của Chúa.

Nhưng bây giờ hãy để tôi nói vắn tắt liên quan một chút đến hòn đảo nước Anh, nằm trong lòng  Đại Dương giữa Tây Ban Nha, xứ Gaul và Đức. Mặc dù Livy (5)cho chúng ta biết rằng không có ai trong quá khứ có thể du hành xung quanh đảo vì kích thước to lớn của nó. Nhưng rất nhiều học giả đã có nhiều ý kiến khác nhau về hòn đảo này. Một thời gian dài nó nằm ngoài tầm với của La mã mãi cho đến lúc Ceasar đặt chân lên sau những trận chiến vinh quang. Thời gian sau đó thì thông thương qua lại giữa hòn đảo và lục địa  đã được tăng cường bởi nhiều phương tiện. Do đó vị trí địa lý của nó đã được mô tả khá kỹ lường như tôi đã tìm thấy trong nhiều tài liệu Hy Lạp và các học giả Latin khác. Hầu hết trong số họ nói rằng hình dạng của nó giống như một hình tam giác giữa phía bắc và phía tây. Góc rộng nhất của nó đối mặt với cửa sông Rhine. Sau đó, đảo co lại chiều rộng và rút đi cho đến khi nó kết thúc ở hai cạnh dọc. Cạnh dài nhất của nó đối mặt với xứ Gaul và Đức. Chiều rộng lớn nhất của nó được cho là dài gấp 2310 chiều dài một sân vận động, và chiều dài của nó không hơn 7132 lần chiều dài một sân vận động. Một số khu vực là thảo nguyên, một số là rừng và thỉnh thoảng những ngọn núi vươn lên cao. Hòn đảo được bao quanh bởi một vùng biển yên bình. Tôi cho rằng điều này là bởi vì nó cách xa cách vùng đất khác nên vùng nước ít bị ảnh hưởng bởi các đại dương khác mặc dù vùng biển ở đây lớn hơn bất cứ nơi nào khác. Hơn nữa Strabo, một nhà văn nổi tiếng của người Hy Lạp, đã đề cập rằng hòn đảo như thở ra màn sương mù do sự thâm nhập thường xuyên của đại dương vào đất liền và rằng bầu trời ở đây cứ như bị che phủ quanh năm và làm cho vùng đất này như bị che khuất.

Ngoài ra thì Cornelius, tác giả của quyển Biên niên sử, nói rằng ở phần xa nhất của nước Anh đêm  sáng hơn và rất ngắn. Ông cũng nói rằng hòn đảo này có rất nhiều kim loại, cỏ và các yếu tố khác giúp phát triển gia súc. Hơn nữa có nhiều con sông chảy qua nó, và thủy triều dâng lên mang theo đá quý và ngọc trai. Người Silures (6) có đặc điểm ngăm đen và thường được sinh ra với mái tóc xoăn màu đen, nhưng các cư dân của Caledonia lại có mái tóc đỏ và cơ thể với các khớp nối lớn và lỏng lẻo. Họ giống như hai dân tộc Gaul và Tây Ban Nha xét về mặt khác nhau hơn là phân biệt giữa hai quốc gia. Do đó một số người đã cho rằng dân cư trên đảo đến từ hai đất nước trên vì lí do khoảng cách địa lý khá gần của chúng. Tuy nhiên, Dio, một nhà văn nổi tiếng nhất của biên niên sử, xác nhận một thực tế rằng họ kết hợp thành hai bộ lạc lớn là Caledonians và Maeatae. Họ sống trong những túp lều cỏ, một nơi trú ẩn được sử dụng chung trong cả bộ lạc, và rừng là nơi ở thường xuyên của họ. Họ vẽ cơ thể của họ với sắt màu đỏ, có thể để trang điểm hoặc có lẽ vì một số lý do khác. Họ thường chiến tranh với nhau, hoặc vì mong muốn quyền lực hoặc để tăng tài sản. Họ không chỉ chiến đấu trên lưng ngựa hoặc đi bộ, mà còn dùng cả chiến xa hai ngựa kiểu Scythed, mà họ thường gọi là essedae. Có lẽ nói như vậy là đã đủ nhiều về hình dạng của hòn đảo nước Anh.

Bây giờ chúng ta hãy quay trở lại địa điểm của đảo Scandza (7), mà chúng ta đề cập đến ở trên. Claudius Ptolemaeus, một nhà văn lớn của thế giới, đã đề cập đến nó trong cuốn sách thứ hai trong các tác phẩm của ông, nói rằng: “Có một hòn đảo lớn nằm ở phía xa vùng biển phía bắc, tên là Scandza, có hình dạng của một cây bách xù lá với bên phồng giảm dần xuống đến điểm kết thúc của chiều dài “. Pomponius Mela cũng cho rằng nó nằm ở vùng Vịnh Codan với Đại Dương bao quanh bờ biển của nó.  Hòn đảo này nằm đối diện dòng sông Vistula, vốn bắt nguồn từ vùng núi Sarmatian chảy ra ba cửa đổ vào vùng biển phía Bắc theo hướng nhìn về phía Scandza, chia tách Đức và Scythia. Phần phía Đông của hòn đảo này có một hồ nước rộng lớn hình thành từ lòng trái đất, từ đây những dòng suối tuôn ra từ dưới lòng trái đất và chảy mạnh vào đại dương. Ở phía tây, nó được bao quanh bởi biển cả mênh mông. Ở phía bắc là một vùng biển rộng lớn không thể đi lại, ở đó nhô ra doi đất hình cánh tay mà từ đó vùng vịnh bị chia cắt và hình thành nên vùng biển nước Đức. Ở đây cũng được cho là có nhiều đảo nhỏ nằm rải rác vây quanh. Nếu những con sói có vượt qua những hòn đảo này khi biển đóng băng do giá lạnh thì người ta nói rằng chúng cũng đánh mất tầm nhìn. Vì vậy, vùng đất này khắc nghiệt không chỉ đối với con người mà còn tàn khốc ngay cả đối với loài dã thú.

bản đồ vùng đất Scandza theo như jordanes mô tả

Quay lại đảo Scandza, mà tôi đang nhắc đến ở đây, có nhiều chủng tộc và quốc gia cùng sinh sống mà Ptolemaeus đã từng đề cập đến tên của bảy trong số bọn họ. Ở đấy bạn không thể tìm thấy bất cứ loài ong làm mật nào vì thời tiết quá lạnh giá. Trong phần phía bắc của đảo là nơi sinh sống của chủng tộc  Adogit, những người được kể rằng sinh sống trong vùng đất có mùa hè với mặt trời không lặn suốt 40 ngày đêm và khoảng thời gian đêm dài cũng kéo dài tương tự. Bởi lý do của sự thay đổi luân phiên kéo dài như vậy của nỗi buồn và niềm vui nên họ không giống với bất cứ dân tộc nào khác trong sức chịu đựng và niềm tin. Và tại sao nữa ? Bởi vì trong những ngày dài  họ nhìn thấy mặt trời quay trở lại về phía đông dọc theo mép của đường chân trời, nhưng vào những ngày ngắn hơn thì không phải như vậy. Mặt trời thể hiện hình ảnh khác nhau bởi vì nó đi qua hướng nhìn từ phía Nam, và khi đó với chúng ta, mặt trời dường như mọc lên từ bên dưới và có vẻ như đi vòng xung quanh dọc theo cạnh của trái đất. Ở đấy cũng có rất nhiều các dân tộc khác nữa. Có chủng tộc Screrefennae, vốn không gieo hạt để làm thực phẩm mà chỉ sống bằng thịt loài thú hoang dã và trứng chim, cách thức đi săn theo bầy trong những vùng đầm lầy làm tăng cường sự gắn kết của họ và đáp ứng nhu cầu cho tất cả mọi người. Ngoài ra còn có các chủng tộc khác sống ở đó, người Suehans, giống như dân Thuringians, sỡ hữu những con ngựa tuyệt vời. Ở đây cũng có những giống dân mà đã gửi ngọc quý sappherine thông qua tuyến giao thương thông qua vô số những bộ lạc khác để phục vụ cho nhu cầu của La Mã. Họ là những người nổi tiếng với vẻ đẹp đen tối của áo khoác bằng lông thú, mặc dù sống trong nghèo đói nhưng trang phục bằng da của họ lại rất phong phú. Rồi đến một lô các quốc gia khác nhau như  Theustes, Vagoth, Bergio, Hallin, Liothida. Tất cả bọn họ đều sinh sống trong cùng một khu vực cư trú màu mỡ. Vậy nên họ liên tục bị quấy rầy bởi các cuộc tấn công của các bộ tộc khác. Xa hơn nữa là các dân Ahelmil, Finnaithae, Fervir và Gauthigoth, một chủng tộc của những người đàn ông mạnh mẽ và hiếu chiến. Sau đó đến Mixi, Evagre, và Otingis. Tất cả những dân tộc này đều sống như động vật hoang dã trong những ngôi nhà xếp bằng đá đẽo. Ở phía xa hơn nữa là người Ostrogoth, Raumarici, Aeragnaricii, rồi đến người Phần Lan hiền lành nhất, ôn hoà hơn so với tất cả các cư dân của Scandza, và cũng giống như họ là dân Vinovilith. Giống dân Suetidi cũng cùng gốc gác với các chủng tộc này nhưng vượt trội hơn về tầm vóc. Tuy nhiên, dân Dani, mà nếu truy nguyên cũng có chung nguồn gốc với các dân tộc này, đến từ vùng đất của họ ở Heruli, là những người tuyên bố sự ưu việt của dân tộc họ trong toàn thể  các quốc gia trên vùng Scandza bởi vì ưu thế về chiều cao của họ. Xa hơn là khu vực các quốc gia Grannii, Augandzi, Eunixi, Taetel, Rugi, Arochi và Ranii, trong đó có vị vua Roduulf . Tuy nhiên, ông này từ bỏ vương quốc riêng của mình và chạy vào vòng tay của Theodoric, vua của những người Goths, để tìm kiếm những gì ông ta khao khát.Tất cả các quốc gia này đều vượt qua Đức về quy mô và tinh thần, họ chiến đấu với sự tàn ác của loài thú hoang dã.

Phần 2 : liên minh những người Goth

Bắt đầu tại hòn đảo Scandza này, vốn là cái nôi chung của rất nhiều chủng tộc và quốc gia , người Goth được kể rằng đã đến vùng đất này từ rất lâu dưới sự lãnh đạo của vị vua Berig. Ngay sau khi đổ bộ lên bờ từ tàu và đặt chân trên đất liền, họ ngay lập tức đặt tên cho nó theo tên của họ. Thậm chí cho đến bây giờ vùng này vẫn còn được gọi là Gothiscandza. Ngay sau đó họ di chuyển đến vùng đất của người Ulmerugi, những người sinh sống ở vùng bờ biển, tại đây người Goth lập tức hạ trại, tấn công và đánh đuổi người Ulmerugi ra khỏi nơi cư trú. Sau đó, họ chinh phục các nước láng giềng khác như người Vandals và liên tục giành thắng lợi. Nhưng khi số lượng của người dân tăng lên rất nhiều, con trai của Gadaric, vua Filimer- vị vua thứ năm kể từ Berig – quyết định rằng quân đội của người Goths cùng với gia đình nên di chuyển khỏi khu vực đó. Trong lúc tìm kiếm nơi cu trú phù hợp dễ chịu, họ đến vùng đất Scythia, gọi là Oium theo ngôn ngữ của họ. Ở đây họ đã rất vui mừng với sự phong phú tuyệt vời của vùng đất, và người ta nói rằng khi một nửa quân đội đã được đưa qua thì cây cầu mà họ đã dùng để vượt qua sông đã bị mục nát hoàn toàn do đó không có có ai sau đó có thể vượt qua hoặc trở lui được nữa.  Khu vực này được cho là được bao quanh bởi các đầm lầy và vực thẳm, làm cho nó không thể tiếp cận. Và thậm chí đến ngày nay một người vẫn có thể nghe thấy tiếng gia súc và những dấu vết của cư dân ở đó, nếu chúng ta tin vào những câu chuyện của những du khách, mặc dù chúng tôi phải xác nhận rằng họ nghe thấy những điều này từ rất xa.

Nhóm những người Goths này, được cho là đã vượt qua sông và đi cùng với Filimer vào vùng đất Oium, vùng đất mà họ mong muốn, và ở đó họ nhanh chóng bắt gặp chủng tộc Spali, tiến hành chiến  tranh và giành chiến thắng. Từ đó những kẻ chiến thắng tiến nhanh hơn đến phần xa nhất của Scythia, đó là gần biển Pontus.  Các câu chuyện này thường được kể trong những bài hát thuở ban đầu của họ, hầu hết mang phong cách sử thi. Ablabius là một bài như vậy, một biên niên sử nổi tiếng của chủng tộc Gothic, xác nhận điều này trong nội dung đáng tin cậy của mình. Một số nhà văn cổ đại cũng đồng ý với câu chuyện này. Trong số này, chúng ta có thể đề cập đến Josephus, một học giả đáng tin cậy nhất của biên niên sử, người luôn tuân theo quy tắc của sự thật và theo đuổi các manh mối từ các nguồn gốc ban đầu, nhưng lý do tại sao ông đã bỏ qua sự khởi đầu của các chủng tộc Goths, mà tôi đang kể ở đây thì cũng tôi không rõ. Ông hầu như không đề cập đến dân Magog, và cho rằng họ cũng là dân Scythian xét về nguồn gốc chủng tộc và tên gọi.

Trước khi tôi kể tiếp về lịch sử của chúng tôi, tôi phải mô tả ranh giới của vùng đất này như nó hiện diện.

Biên giới của vùng Scythia trên đất Đức vươn xa tận nguồn của sông  Ister và vùng đầm lầy rộng lớn Morsian. Nó trải dài đến các con sông Tyra, Danaster và Vagosola, và sông Danaper vĩ đại, vươn xa đến dãy Taurus – không phải những ngọn núi ở châu Á, mà theo cách gọi của chúng tôi, đó là dãy  Scythian Taurus – tất cả các tuyến đường để đến Hồ Maeotis. Vượt ra khỏi vùng Hồ Maeotis, vùng đất này lan rộng về phía bên kia eo biển Bosphorus đến dãy núi Caucasus và sông Araxes. Sau đó, nó uốn cong về bên trái vòng phía sau biển Caspian, mà vốn xuất phát từ vùng biển đông bắc thuộc về những phần xa nhất của châu Á, có hình dạng mở ra như cây nấm, eo biển trước tiên thu hẹp và sau đó mở rộng ra thành hình tròn. Vùng đất đó trải dài xa đến tận lãnh thổ của những giống dân như người Hung, Albani và Seres.

Vùng đất này, tôi nói, – cụ thể là, Scythia, kéo dài rất xa và rộng, về phía đông tiếp giáp Seres, một chủng tộc có lịch sử khởi nguồn từ bờ biển Caspian. Về phía tây tiếp giáp với người Đức và sông Vistula, về phía cực Bắc nó được bao quanh bởi đại dương, về phía nam là các giống dân : Persis, Albania, Hiberia, Pontus và nhánh xa nhất của con sông Ister, được gọi là sông Danube từ cửa sông cho đến thượng nguồn. Tuy nhiên, ở khu vực nơi Scythia tiếp giáp với bờ biển Pontic, rải rác có các thị trấn không có danh tiếng là: – Borysthenis, Olbia, Callipolis, Cherson, Theodosia, Careon, Myrmicion và Trapezus. Những thị trấn này được các bộ lạc Scythia hoang dã cho phép những người Hy Lạp xây dựng để làm cơ sở thương mại. Ngay chính giữa Scythia là đại điểm phân cách châu Á và châu Âu, tôi muốn nói về ngọn núi Rhipaeian, mà  từ đó dòng chảy Tanais vĩ đại bắt đầu. Dòng sông đổ vào đầm lầy Maeotis, một đầm lầy rộng 144 dặm và có độ sâu ít hơn tám sải.

Trong vùng đất của Scythia về phía tây xét về vị trí sinh sống thì trước hết là vùng đất của chủng tộc Gepidae, được bao quanh bởi các con sông lớn và nổi tiếng. Sông Tisia chảy qua nó ở phía bắc và tây bắc, và phía tây nam là sông Danube. Về phía đông, nó được cắt bởi sông Flutausis, một dòng chảy nhanh lượn xoắn vào vùng biển Ister. Giữa những con sông này là vùng đất Dacia, bao quanh bởi dãy núi Alps cao như một vương miện. Gần sườn núi phía bên trái, hướng về phía bắc, là nơi bắt đầu của dân Vistula, một chủng tộc đông dân vùng Venethi, chiếm cứ một vùng đất rộng lớn. Mặc dù tên của họ  phân tán giữa các gia tộc và những nơi khác nhau, nhưng họ chủ yếu được gọi là Sclaveni và Antes. Nơi trú ngụ của dân Sclaveni trải dài từ thành phố Noviodunum và hồ Mursianus đến sông Danaster, và phía bắc đến sông Vistula. Đầm lầy và rừng núi bao bọc cho các thành phố của họ. Dân Antes, can đảm nhất trong những dân tộc ở trong đường cong của biển Pontus, sinh sống trải rộng từ sông Danaster đến sông Danaper, cách nhau nhiều ngày đi đường. Trên bờ đại dương, nơi dòng chảy của sông Vistula đổ ra biển từ ba cửa sông, là dân Vidivarii, một nhóm bao gồm các bộ tộc khác nhau. Xa hơn họ là dân Aesti, một chủng tộc lớn nắm giữ bờ đại dương. Về phía nam là dân Acatziri, một bộ tộc rất dũng cảm không biết gì về nông nghiệp, tồn tại dựa vào gia cầm và săn bắn. Xa và ở xa phiá trên vùng biển Pontus là nơi cư trú của dân Bulgares, nổi tiếng vì những bất công họ phải gánh chịu từ sự áp bức của chúng tôi. Từ khu vực này trở đi là nơi sinh sống là dân tộc Hun, cội nguồn của một chủng tộc can đảm nhất, chia thành hai bầy chính. Một được gọi là Altziagiri, và nhóm kia gọi là Sabiri; và họ có nơi ở khác nhau. Altziagiri ở gần Cherson, nơi mà các thương nhân tham lam mang đến hàng hóa của châu Á. Vào mùa hè, họ di chuyển trong phạm vi của vùng đồng bằng rộng lớn, bất cứ nơi nào có đồng cỏ cho gia súc của họ, và di chuyển đi xa trong mùa đông vượt ra ngoài biển Pontus. Bây giờ người Hunuguri được chúng ta biết đến nhờ vào việc kinh doanh da chồn mactet. Nhưng ngay cả họ sợ hãi các nước láng giềng hung bạo hơn .

Chúng ta đã đọc về cuộc di cư đầu tiên của những người Goths đến cư ngụ trong vùng đất Scythia gần Hồ Maeotis. Trong lần di cư thứ hai, họ đã đi đến Moesia, Thrace và Dacia, và sau lần di cư thứ ba , họ ở lại trong Scythia, trên biển Pontus. Chúng tôi không tìm thấy chứng cứ trong bất kì truyền thuyết nào được ghi lại của họ nói về sự chinh phục của họ đến chế độ nô lệ ở Anh hay ở một số hòn đảo khác, hoặc là về việc chuộc tự do cho một người đàn ông với cái giá của một con ngựa. Tất nhiên, nếu bất cứ ai trong thành phố của chúng ta nói rằng những người Goths có nguồn gốc khác mà tôi đã đề cập thì cứ hãy để anh ta phản bác. Đối với bản thân mình, tôi thích tin vào những gì tôi đã đọc, chứ không phải là niềm tin đặt vào câu chuyện của những bà vợ già.

Để quay lại chủ đề của tôi, chủng tộc nói trên mà tôi đang kể được biết là có vua tên là Filimer khi họ còn ở nơi cư trú đầu tiên của họ tại Scythia gần Maeotis. Tại khu vực sinh sống thứ hai của họ, các lãnh thổ thuộc Dacia, Thrace và Moesia, thì Zalmoxes người trị vì, người mà nhiều nhà văn sử biên niên đề cập đến như là một người đàn ông có kiến thức đáng kể về triết học. Tuy nhiên,trước đó đã có học giả  Zeuta, và sau ông là Dicineus, người thứ ba là Zalmoxes mà tôi đã đề cập ở trên. Như vậy là họ không hề thiếu những thầy dạy thông thái. Vậy nên những người Goths khôn ngoan hơn các giống man rợ khác và đã gần giống như người Hy Lạp, như Dio từng đề cập, người đã viết lịch sử và biên niên sử của họ với một cây bút Hy Lạp. Ông nói rằng những người quý tộc của họ, những người sẽ bầu ra vua và các linh mục, đầu tiên được gọi là các Tarabostesei và sau đó Pilleati. Ngoài ra những người Getae còn ca ngợi vị thần sao Hỏa, được các nhà thơ gọi là thần chiến tranh, được cho rằng đã được sinh ra từ dân tộc của họ. Do đó Virgil nói:

“Chúa Cha Gradivus thống trị chiến trường của dân tộc Getic.” (8)

Thần sao Hỏa đã luôn được tôn thờ bởi những người Goths với những nghi thức tàn nhẫn, tù binh bắt giữ được bị giết như là nạn nhân tế thần. Họ nghĩ rằng vị chúa tể của chiến tranh sẽ được xoa dịu bởi sự đổ máu của con người . Họ cống hiến phần đầu tiên của các chiến lợi phẩm cho vị thần, và trong vòng tay vinh danh vị thần họ tước đoạt của cải từ kẻ thù được treo lên cây. Họ có niềm tin sâu sắc vào tôn giáo nhiều hơn so với các dân tộc khác và việc tôn thờ vị thần chiến tranh có nguồn gốc xa xưa từ tổ tiên của họ.

Tại nơi ở thứ ba của họ, trên vùng biển Pontus, họ giờ đây trở nên văn minh hơn và, như tôi đã nói trước đây, sản sinh ra nhiều học giả. Sau đó, người dân được chia theo các gia tộc cầm quyền. Người Visigoth phục vụ gia tộc Balthi và người Ostrogoth phục vụ gia tộc Amali nổi tiếng.

Họ là những chủng tộc đầu tiên sử dụng cung tên, Lucan, một sử gia hơn một nhà thơ, khẳng định:

“Họ căng cung kiểu Armenia với dây Getic.”

Trong buổi đầu, họ hát về những chiến công của tổ tiên của họ trong những bài bài hát cùng với cây đàn Xi-ta các khúc ca như Eterpamara, Hanala, Fritigern, Vidigoia và những  người nổi tiếng khác, đó những anh hùng cổ xưa những người lập nên những kì công của riêng mình.

Và câu chuyện tiếp tục khi vua Vesosis tiến hành một cuộc chiến thất bại thê thảm chống lại người Scythia, những người mà truyền thống xa xưa khẳng định là chồng của những nữ chiến binh Amazon.  Orosius đã kể lại câu chuyện các nữ chiến binh  bằng ngôn ngữ rất có sức thuyết phục. Như vậy, chúng ta có thể chứng minh rõ ràng rằng Vesosis lúc này đã chiến đấu với những người Goths, vì chúng tôi biết chắc chắn rằng ông tiến hành chiến tranh với các ông chồng của người Amazon. Tại thời điểm đó họ cư ngụ dọc theo bờ uốn cong của Hồ Maeotis, từ sông Borysthenes mà người dân địa phương gọi là Danaper, cho đến dòng chảy của sông Tanais. (9)

Dòng sông Tanais mà tôi đề cập là dòng sông chảy xuống từ ngọn núi Rhipaeian với dòng chảy gấp khúc và rất xiết đến nỗi khi các dòng suối xung quanh vùng hồ Maeotis và Bosphorus đóng bằng thì nó là con sông duy nhất được giữ ấm bởi những ngọn núi gồ ghề và không bao giờ đóng băng bởi cái  lạnh Scythia. Nó cũng nổi tiếng là ranh giới của châu Á và châu Âu. Đối một số người thì sông Tanais bắt nguồn từ vùng núi của Chrinni và chảy vào biển Caspian. Sông Danaper bắt nguồn từ một đầm lầy rộng lớn. Dòng nước rất ngọt ngào và phù hợp để uống trong khoảng nữa hành trình của dòng sông. Nó cũng cung cấp loài cá có hương vị thơm ngon và không có xương, chỉ có sụn như là một khung hoạt động cho các cơ quan. Nhưng khi nó tiếp cận Pontus thì dòng sông tiếp nhận thêm dòng chảy của một con suối nhỏ gọi là Exampaeus, có dòng nước rất đắng do đó dòng nước của con sông bị nhiễm và không còn được như trước và dòng chảy bị ô nhiễm này đổ vào vùng biển giữa các thị trấn của Hy Lạp Callipidae và Hypanis. Tại khu vực cửa sông có một hòn đảo có tên là Achilles. Giữa hai con sông này là một vùng đất rộng lớn với những cánh rừng và đầm lầy nguy hiểm.

Đây là khu vực mà người Goths trú ngụ khi Vesosis, vua của người Ai Cập, gây chiến tranh với họ. Vua của họ tại thời điểm đó là Tanausis. Trong trận chiến tại sông Phasis (vùng này có những con chim được gọi là gà lôi, vốn phục vụ cho các bữa tiệc tuyệt vời trên khắp thế giới), Tanausis, vua của những người Goths, chạm trán Vesosis, vua của người Ai Cập, và đã giáng một thất bại nghiêm trọng lên quân Ai Cập, thậm chí truy đuổi ông này đến tận đất Ai Cập. Nếu ông không bị hạn chế bởi các vùng nước sông Nile vốn không thể đi qua và các công sự mà Vesosis đã ra lệnh xây dựng nhằm chống lại các cuộc tấn công của Ethiopia, thì ông ta đã giết chết được vua Ai Cập ngay tại quê nhà. Nhận thấy người Ai Cập không còn khả năng đe dọa mình, ông quay trở lại và chinh phục hầu như tất cả các khu vực châu Á và bắt các vùng đất này phải quy phục và triều cống cho Sornus, vua người Medes, lúc đó là người bạn thân của mình. Vào thời điểm đó, một số nhóm trong quân đội chiến thắng của người Goth nhận thấy rằng các tỉnh chinh phục giàu có và màu mỡ nên đã tách ly khỏi hàng ngũ và ở lại rải rác tại các vùng khác nhau của châu Á.

Xét về tên gọi hay về mặt chủng tộc thì Pompeius Trogus cho rằng một số nhóm dân Parthia ngày nay có nguồn gốc từ những nhóm dân định cư này. Do đó ngay cả đến ngày nay trong tiếng Scythia họ vẫn còn được gọi là Parthi có nghĩa là đào ngũ. Và bắt nguồn từ nguồn gốc xa xưa này, họ là những cung thủ gần như duy nhất số tất cả các quốc gia châu Á – và là những chiến binh rất dũng cảm. Liên quan đến vấn đề tên gọi , mặc dù như tôi đã nói họ được gọi là Parthi bởi vì họ đã đào ngũ (từ quân Goth), một số người truy tìm nguồn gốc khác của từ này và nói rằng họ được gọi là Parthi vì họ chạy trốn khỏi bà con của họ (người Parthia). Khi Tanausis, vua của những người Goths chết, ông được dân của mình tôn thờ như một trong số các vị thần của họ.

Sau khi ông chết, trong lúc quân đội dưới sự lãnh đạo của người kế nhiệm tham gia vào một cuộc viễn chinh đến các vùng đất khác, một bộ tộc láng giềng đã cố gắng cướp phụ nữ của những người Goths như chiến lợi phẩm. Nhưng ngay cả những người phụ nữ cũng thể hiện một sức đề kháng dũng cảm, như họ đã được dạy bởi chồng của họ, thậm chí phản công những kẻ tấn công họ. Khi giành được chiến thắng, họ được truyền cảm hứng cho sự táo bạo lớn hơn. Được chiến thắng cổ vũ, họ đã tự vũ trang và chọn hai người dũng cảm nhất là Lampeto và Marpesia làm người lãnh đạo cho mình.

Dưới sự lãnh đạo của hai người này, họ tốn nhiều công sức cả cho việc bảo vệ đất nước và việc cướp phá các vùng đất khác. Vì vậy, Lampeto ở lại để bảo vệ quê hương còn Marpesia dẫn một nhóm những nữ chiến binh tiến vào Châu Á. Sau khi chinh phục các bộ lạc khác nhau bằng chiến tranh hoặc kết đồng minh thông qua các hiệp ước, cô đến vùng Caucasus. Tại đây cô này ở lại một thời gian và đặt cho vùng đất này cái tên Rock of Marpesia, vốn được Virgil cho đề cập đến:

“Cứng như đá lửa hay đá ở núi Marpesian.”

Chính tại đây Alexander đại đế đã xây dựng những cánh cổng và đặt tên chúng là cổng Caspian, được bộ lạc Lazi đóng giữ như một pháo đài La Mã.  Ở đây, những nữ chiến binh Amazon (10) ở lại một thời gian và được tăng cường thêm sức mạnh. Sau đó, họ rời khỏi và vượt qua sông Halys, gần thành phố Gangra, và thành công trong việc chinh phục các vùng đất  Armenia, Syria, Cilicia, Galatia, Pisidia và tất cả mọi nơi của châu Á. Sau đó, họ quay sang Ionia và Aeolian, biến vùng này này thành các tỉnh của họ sau khi thành phố chịu đầu hàng. Ở đây họ cai trị một thời gian và thậm chí cho thiết lập các thành phố mang tên của họ. Tại Ephesus họ cũng cho xây dựng một ngôi đền rất tốn kém và xinh đẹp để vinh danh nữ thần Diana, (nữ thần bắn cung và đi săn mà họ tôn thờ). Sau đó, những phụ nữ xuất thân từ vùng Scythia này, những người đã  tình cờ đạt được quyền kiểm soát các vương quốc châu Á, thống trị nơi đây gần một trăm năm, cuối cùng quay trở lại với những bà con của mình trong vùng núi đá Marpesian mà tôi đã đề cập ở trên, cụ thể là vùng núi Caucasus.

Bởi vì tôi đã hai lần đề cập đến ngọn núi này, tôi nghĩ rằng cũng không lạc đề khi mô tả phạm vi và hình thái của ngọn núi nổi tiếng này, trải dài trên một khu vực vô cùng rộng lớn. Bắt đầu từ Ấn Độ Dương, sườn núi phía nam đối diện với vùng thời tiết âm áp, làm bốc hơi hơi nước trong ánh nắng mặt trời, sườn núi phía bắc của nó lại tiếp xúc với những cơn gió lạnh và sương giá. Tiếp đó ngọn núi uốn cong về phía  Syria sau những gấp khúc và gửi ra rất nhiều dòng chảy. Bắt nguồn từ ngọn núi này hai con sông nổi tiếng Euphrates và Tigris chảy khu vực Vasianensian chia ra làm nhiều dòng chảy nhỏ êm đềm không bao giờ cạn. Những con sông này bao bọc lấy  đất của người Syria khiến cho vùng đất này được gọi là Mesopotamia, như nó thực sự rất màu mỡ. Dòng chảy của các con sông này sau đó đổ vào lòng Biển Đỏ. Quay trở lại phía bắc ngọn núi, khu vực tôi đã nhắc tới với vùng đồi núi chập chùng băng qua vùng đất Scythia. Từ đây ngọn núi đổ ra nhiều nhánh sông rất nổi tiếng chảy vào Biển Caspian là Araxes, Cyrus và Cambyses. Giới hạn của ngọn núi còn vươn xa đến tận vùng núi Rhipaeian. Từ đó ngọn núi xoải xuống về phía bắc chạy về phía biển Pontic và tạo thành một vành đai bao bọc các bộ lạc Scythia, thậm chí vươn tới sông Ister với những ngọn đồi nối tiếp liên tục. Bị cắt bởi dòng sông dãy núi bị phân chia và phần thuộc về khu vực Scythia của nó được gọi là Taurus. Như vậy thì phần lớn bộ phận cấu thành dãy núi là những khu vực vô cùng rộng lớn cung cấp cho con người những nơi ẩn náu bất khả xâm phạm. Đôi lúc dãy núi bị chia tách và khu vực nơi sườn núi tách để lại khoảng cách sâu tạo thành Cổng Caspian, được gọi là Armenian hoặc Cilician, hoặc bất cứ tên nào khác. Ở đây không ai có thể vược qua được dầu chỉ một toa xe vì sườn núi dốc cao và dựng đứng của nó. Ngọn núi có nhiều tên gọi khác nhau giữa các dân tộc khác nhau. Người Ấn Độ gọi nó là Imaus và một bộ phận khác gọi nó là Paropamisus. Người Parthian gọi nó trước tiên là Choatras và sau đó là Niphates; người Syria và Armenia gọi nó là Taurus, người Scythia đặt tên cho ngọn núi là Caucasus và Rhipaeus và cuối cùng họ gọi nó là Taurus. Nhiều bộ lạc khác gọi nó bằng những cái tên khác nữa. Như vậy là  chúng ta đã cống hiến một vài từ để mô tả mức độ của ngọn núi này, giờ thì chúng ta hãy quay trở lại chủ đề những người Amazon.

Lo sợ chủng tộc của họ sẽ lụy tàn, họ tìm kiếm hôn nhân với các bộ tộc láng giềng. Họ chỉ định một ngày gặp gỡ một lần trong mỗi năm, để rồi sau đó họ quay trở lại đúng khu vực đó vào ngày đó trong năm tiếp theo mỗi mỗi người mẹ sẽ đem cho người cha bất kì đứa trẻ trai nào được sinh ra nhưng giữ lại nuôi nấng và dạy dỗ nếu đứa trẻ là nữ. Hoặc nếu không, để duy trì, họ vứt bỏ những đứa bé trai bỏ mặc cuộc sống của đứa trẻ xấu số với sư khinh ghét như của một bà mẹ kế. Trong số bọn họ đa phần đều căm ghét việc sinh đẻ, mặc dù ở những nơi khác đó lại là mong muốn của người phụ nữ. Sự kinh sợ những hành động tàn nhẫn của họ được tăng lên bởi những tin đồn thường gặp, bởi những hy vọng và cầu nguyện nào đó hoặc nỗi lo bị chiễm hữu mà khiến họ tin rằng việc buông tha mạng sống , thậm chí chỉ của một đứa bé trai là sai lầm? Hercules được kể rằng đã chiến đấu với họ và đã đánh bại được Menalippe, chủ yếu bởi mưu kế hơn là bởi sự dũng cảm. Theseus (11) còn hơn thế nữa, bắt giữ Hippolyte và buộc cô này sinh cho ông ta người con trai tên là Hippolytus. Trong thời kỳ tiếp theo, Amazon có một nữ hoàng tên là Penthesilea, vốn nổi danh trong câu chuyện về cuộc chiến thành Trojan. Những phụ nữ này được cho là đã giữ được quyền lực của họ thậm chí đến thời của Alexander Đại đế.

Nhưng nói không phải là “Tại sao trong câu chuyện kể về những người đàn ông của người Goths lại kể quá nhiều về phụ nữ của họ?” Hãy nghe sau đây câu chuyện nổi tiếng về lòng dũng cảm và vinh quang của những người đàn ông. Dio, nhà sử học và là một nhà nghiên cứu siêng năng của thời cổ đại, người đã đặt tên cho tác phẩm của mình là “Getica” (mà Getae thì như chúng tôi đã chứng minh chính là tiên nhân của những người Goths, dẫn từ lời của Orosius Paulus) – Sử gia Dio đề cập đến của một vị vua về sau của họ tên là Telefus. Chẳng ai nói rằng cái tên này là khá lạ lẫm trong ngôn ngữ Gothic, hoặc ngu dốt cãi nhau chuyện nhỏ nhen một thực tế là các bộ lạc thời ấy thường sử dụng rất nhiều tên gọi khác nhau, ngay cả những cái tên La Mã cũng vay mượn từ người Macedonia và từ Hy Lạp, Sarmatia mượn từ Đức, và những tên gọi của người Hun thường xuyên vay mượn từ người Goth.

Vua Telefus, một con trai của Hercules từ người vợ Auge, là chồng em gái vua Priam, có tầm vóc cao chót vót và sức mạnh khủng khiếp. Ông có sự kết hợp của lòng dũng cảm của cha mình và đức tính nhân từ của bản thân và cũng có vể bề ngoài gợi nhớ đến người anh hùng Hercules. Tổ tiên chúng ta gọi lvương quốc của ông là Moesia. Tỉnh này ở phía đông giáp cửa sông Danube, về phía nam giáp Macedonia, phía tây giáp Histria và phía bắc giáp sông Danube. Vị vua mà chúng tôi  đề cập đến đã  tiến hành chiến tranh chống lại người Hy Lạp, và giết đượcThesander, lãnh đạo của người Hy Lạp trong trận chiến. Tuy nhiên, trong lúc đang thực hiện một cuộc tấn công vào Ajax và đuổi theo Ulysses, thì con ngựa của ông bị vướng vào dây nho và té ngã . Ông bị ném ra và bị thương ở bắp đùi bởi một mũi lao của Achilles, trong một thời gian dài vết thương không thể được chữa lành. Tuy nhiên, bất chấp thương tích ông vẫn đẩy lùi người Hy Lạp ra khỏi vùng đất của mình. Khi Telefus chết, con trai ông Eurypylus là người kế vị ngai vàng, và cũng là con trai của em gái vua Priam, vua của người Phrygia. Bởi tình yêu đối với Cassandra, nên ông đã tìm cách tham gia vào cuộc chiến thành Troy, hy vọng giúp đỡ cha mẹ của bà và cả cha dượng của chính mình nhưng ông đã bị giết chết trong trận đánh.

Sau đó, một khoảng thời gian khoảng 630 năm (theo Pompeius Trogus), Cyrus, vua của người Ba Tư, tiến hành một cuộc chiến tranh không thành công chống lại Tomyris, Nữ hoàng của Getae. Phấn chấn bằng chiến thắng của mình ở châu Á, ông cố gắng chinh phục người Getae. Mặc dù bà có thể ngăn chận sự tiếp cận của Cyrus tại sông Araxes, nhưng bà vẫn cho phép ông này vượt sông,vì bà chỉ mong muốn giành chiến thắng trong trận chiến hơn là bằng cách tận dụng lợi thế từ vị trí. Cyrus tân công và giành được chiến thắng đầu tiên khi giết chết con trai của Tomyris và hầu hết đạo quân của anh này. Nhưng khi trận chiến lại tái diễn, người Getae và nữ hoàng của họ đánh bại, chinh phục và áp đảo người Parthia và đã cướp được vô số chiến lợi phẩm. Đây cũng là đầu tiên chủng tộc Goths nhìn thấy lều trại bằng lụa châu Á. Sau khi đạt được chiến thắng và giành rất nhiều chiến lợi phẩm từ kẻ thù. Nữ hoàng Tomyris tiến vào phần đất của Moesia mà bây giờ được gọi là Hạ Scythia – một cái tên vay mượn từ Scythia, và cho xây dựng thành phố Tomi tại Moesian trên bờ biển Pontus, đặt theo tên của mình.

Sau đó, Darius, vua của người Ba Tư, con trai của Hystaspes, yêu cầu kết hôn với con gái của Antyrus, vua của những người Goths, đồng thời đe dọa trong trường hợp họ không đạt được ý nguyện. Nhưng người Goth từ chối liên minh này và đuổi sứ giả ra về. Vô cùng tức giận vì đề nghị của mình bị từ chối, ông này lãnh đạo một đội quân 700.000 lính tiến đánh người Goth tìm cách trả thù sự tổn thương bằng cách gây ra một chiến tranh. Băng qua một cầu phao được kết bằng các con tàu lót ván có khoảng cách gần như từ Chalcedon đến Byzantium, ông tiến vào xứ Thrace và Moesia. Sau đó, ông xây dựng tiếp một cây cầu bắc qua sông Danube cũng theo cách tương tự nhưng ông nhanh chóng cảm thấy mệt mỏi sau hai tháng chiến đấu và mất 8000 lính tại xứ Tapae. Sau đó, vì sợ cây cầu bắc qua sông Danube sẽ bị bao vây bởi kẻ thù của mình, ông rút quân nhanh chóng về lại xứ Thace vì cảm thấy không an toàn khi ở lại Moesia dù chỉ một thời gian ngắn.

Sau khi Darius chết, con trai của ông là Xerxes lên kế hoạch để trả thù cho những sai lầm của cha mình và tiến hành chiến tranh chống lại những người Goths với một đạo quân gồm 700.000 người và 300.000 lính hỗ trợ, 1200 tàu chiến và tàu 3000 vận chuyển. Nhưng cuối cùng ông này đã không dám mạo hiểm trên chiến trường, bị khuất phục bởi sự dũng cảm kiên cường của người Goth. Vì vậy, ông rút hết lực lượng của mình trở về mà không tham gia một trận đánh nào.

sau đó đó, Philip, cha của Alexander Đại đế, tiến hành liên minh với những người Goths và lấy Medopa , con gái của vua Gudila, làm vợ nhằm củng cố sự an toàn của Macedonia. Vào thời điểm này, theo nhà sử học Dio thì, Philip, do thiếu tiền nên đã lãnh đạo lực lượng của ông cướp bóc Odessus, một thành phố xứ Moesia, vốn là chứ hầu của người Goth ở thành phố Tomi lân cận. Lúc ấy những tu sĩ người Goth đột nhiên mở cổng thành Odessus và bước ra gặp họ. Họ mang đàn hạc và mặc áo choàng trắng như tuyết, hát các ca khúc khẩn cầu các vị thần của tổ tiên phù hộ để đẩy lùi quân Macedonia. Khi người Macedonia thấy họ đến với sự tự tin như vậy, họ đã rất ngạc nhiên, và qua đàm thoại những người lính đã bị khuất phục bởi những người không hề có vũ trang. Quân lính rời bỏ hàng ngũ và từ bỏ việc phá hủy các thành phố, thậm chí trao trả  những người mà họ đã bắt giữ bên ngoài thành phố. Sau đó, họ ký kết một hiệp ước đình chiến và quay trở về quê nhà.

Một thời gian dài sau đó, Sitalces, một lãnh đạo nổi tiếng của người Goths, nhớ đến cuộc tấn công của người Hy lạp nên đã tập hợp một trăm năm mươi ngàn người và gây chiến với người Athens, chống lại Perdiccas, vua xứ Macedon. Perdiccas là người kế tục Alexander cai trị Athens  khi ông bị đầu độc tại Babylon bởi sự phản bội của người hầu gái. Người Goths tấn công mạnh mẽ và tỏ ra áp đảo. Vì vậy, để đáp trả cuộc tấn công của người Macedonia trước cam kết tại Moesia, người Goths xâm chiếm Hy Lạp và tàn phá toàn bộ xứ Macedonia.

Sau đó, vào thời kì khi Buruista là vua của người Goths, Dicineus đến vùng đất Gothia vào thời điểm Sulla cai trị La Mã. Buruista đã tiếp đón Dicineus và trao cho ông một vị trí ngang bằng với hoàng gia. Từ những lời khuyên của ông này mà người Goth tiến vào tàn phá vùng đất nước Đức vốn lúc này nằm dưới sự kiểm soát của người Frank. Và rồi, Caesar xuất hiện, người đầu tiên của La Mã thiết lập quyền lực đế quốc và chinh phục gần như toàn bộ thế giới, người đã chinh phục tất cả các vương quốc và thậm chí chiếm giữ những hòn đảo xa xôi ngoài đại dương. Ông đã quy phục những bộ lạc thậm chí chưa hề biết đến người La mã và bắt họ trở thành chư hầu, nhưng vẫn không thể thắng được người Goths, bất chấp những nỗ lực liên tục của mình. Cho đến khi Gaius Tiberius trở thành hoàng đế thứ ba của người La Mã,  người Goths vẫn duy trì vương quốc của họ không hề hấn gì. An ninh, lợi thế và hy vọng của họ được mang đến nhờ sự thông thái của Dicineus, và bất cứ điều gì cố vấn Dicineus khuyên đều được thực hiện bởi mọi giá, họ đánh giá cao lời khuyên của ông và luôn nỗ lực để hoàn thành. Khi nhận thấy rằng họ chịu nghe theo ông và họ cũng là những người có khả năng, ông đã dạy họ gần như toàn bộ kiến thức triết học mà ông là một bậc thầy tinh thông. Như vậy, bằng cách dạy họ đạo đức, ông hạn chế phong tục man rợ của họ, bằng cách truyền đạt kiến thức về vật lý, ông làm cho họ sống một cách tự nhiên nhiên theo quy định của pháp luật của riêng mình, mà họ sở hữu bằng văn bản cho đến ngày nay gọi là belagines. Ông dạy cho họ logic và khiến cho họ có kiến thức cao về lý luận vượt hơn hẳn tất cả các chủng tộc khác, ông đã dạy họ kiến thức thực tế và truyền bá cho họ rất nhiều những tác phẩm hay. Bằng cách diễn giải những kiến thức lý thuyết, ông chỉ cho họ cách chiêm ngưỡng mười hai dấu hiệu cùng với đường đi của các hành tinh và toàn bộ ngành thiên văn học. Ông giải thích cho họ sự tăng giảm kích thước mặt trăng tho chu kì và kích thước vượt trội của vần lửa thái dương so với trái đất của chúng ta. Ông giải thích tên gọi của 346 ngôi sao và dấu hiệu lướt qua của chúng trên vòm trời từ vị trí xuất phát và điểm trở lại của chúng.

Hãy nghĩ về điều này, tôi lưu ý các bạn, niềm vui thú nhỏ nhoi của những con người dũng cảm này sau những khoảng thời gian chiến tranh là được hướng dẫn các bài giảng triết học! Bạn có thể thấy một người đang chú tâm quan sát bầu trời và một kẻ khác lại say sưa nghiên cứu những bụi cây lùm cỏ. Đây đó có những người quan sát chu kì thịnh suy của mặt trăng trong khi một số khác người khác thì quan sát hoạt động của mặt trời và cách thức mà bầu trời xoay sang đông rồi trở lại phía tây.(12) Cho đến khi họ hiểu rõ nhưng nguyên lý như vậy họ mới chịu nghỉ ngơi.

Dicineus dạy cho người Goth tất cả những điều này và những điều khác nữa với sự thông thái của mình và đạt được danh tiếng lớn lao đối với người Goth, do đó, ông đã thống trị không chỉ những người đàn ông thông thường mà cả vua của họ. Ông đã chọn từ trong số họ những người có nguồn gốc cao quý và sự khôn ngoan vượt trội để giảng dạy thần học, khiến họ phải tôn thờ đấng thánh linh và những thánh địa. Ông đã đặt tên là Pilleati cho các linh mục mà ông truyền đạo, điều này tôi cho rằng bắt nguồn từ việc họ làm lễ dâng hiến trong khi đội mũ tiaras (13), mà chúng tôi gọi cách khác là pillei. Tuy nhiên, ông bảo họ gọi phần còn lại của chủng tộc là Capillati . Những cái tên này được người Goths chấp nhận và đánh giá cao, và họ giữ lại cho đến ngày nay trong các bài hát của họ. Sau cái chết của Dicineus, họ tôn Comosicus lên vị trí danh dự tương đương, bởi vì ông không hề thua kém Dicineus về kiến ​​thức. Bởi sự khôn ngoan của mình, ông đã thống lãnh những linh mục và vua của họ, và ông đánh giá mọi người bằng sự chính trực tuyệt đối.

Khi ông cũng đã lìa khỏi kiếp người , Coryllus lên ngôi vua của người Goths và cai trị trong vòng bốn mươi năm ở Dacia. Ý tôi là Dacia cổ đại, mà giờ đây chủng tộc Gepidae chiếm hữu. Đất nước này nằm trên sông Danube trong tầm nhìn của Moesia, và được bao quanh bởi các ngọn núi. Nó chỉ có hai cách tiếp cận, một theo lối Boutae và một qua lối Tapae. Lãnh thổ này của người Goth (14), tổ tiên của chúng ta gọi là Dacia và bây giờ, như tôi đã nói, được gọi là Gepidia, được bao quanh ở phía đông bởi vùng Roxolani, về phía tây bởi vùng Iazyges, ở phía bắc là Sarmatia và Basternae và về phía nam là sông Danube. Xứ Lazyges được tách ra từ Roxolani bởi sông Aluta.

Một khi đề cập đến sông Danube, tôi nghĩ rằng nó không lạc đề khi giới thiệu vắn tắt về dòng sông tuyệt vời này. Bắt nguồn từ khu vực Alamanni, nó nhận được 60 dòng suối nhập vào đây đó trong suốt hành trình 1200 km từ nguồn đến cửa đổ vào biển Pontus, giống như cột sống đan xen với xương sườn như một cái rổ. Nó thực sự là một trong những con sông lớn nhất. Trong ngôn ngữ của Bessi nó được gọi là Hister, và nó có độ sâu hơi 200 feet. Luồng chảy này vượt quá kích thước tất cả các con sông khác, ngoại trừ sông Nile. Vài dòng như vậy là đủ cho sông Danube giờ chúng ta hãy quay trở lại  chủ đề từ đó chúng ta đã ngắt quãng.

Sau đó một thời gian dài, vào thời cai trị của hoàng đế Domitian, người Goth, e ngại sự tham lam của ông này, đã phá vỡ hiệp ước đình chiến tồn tại từ lâu dưới thời các hoàng đế khác. Họ tàn phá dọc bờ sông Danube vốn lâu nay được nắm giữ bởi đế chế La Mã, tàn sát quân lính và cả tướng chỉ huy La mã. Oppius Sabinus là chỉ huy sau đó của tỉnh này, kế tục chức vị của Agrippa, trong khi Dorpaneus là chỉ huy người Goths. Người Goths tiếp tục gây ra chiến tranh và chinh phục đất đai của người La Mã, họ chém được đầu Oppius Sabinus, xâm lược và mạnh dạn cướp nhiều lâu đài, thành phố trực thuộc Hoàng đế. Trong lúc nguy cấp, Domitian nhanh chóng tung tất cả sức mạnh của mình tới Illyricum, mang theo gần như toàn bộ quân đội của đế quốc. Ông gửi Fuscus chỉ huy một đạo binh lính được tuyển chọn đi trước. Sau đó, bằng cách kết nối các thuyền với nhau thành một cầu phao, ông cho binh sĩ của mình vượt  sông Danube ở vị trí phía trên quân đội của Dorpaneus. Nhưng người Goths đã cảnh giác. Họ cầm lấy vũ khí và lập tức áp đảo những người La Mã trong cuộc chạm trán đầu tiên. Họ giết chết Fuscus, chỉ huy của quân La mã và cướp bóc trại lính La mã để chiếm đoạt của cải. Nhờ chiến thắng tuyệt vời này mà họ đã hoàn toàn làm chủ khu vực này, sau đó họ gọi những người lãnh đạo của họ, mà dường như vận may của họ đã giúp sức cho người Goth trong cuộc chinh phục, không phải là người trần bình thường mà là những á thần, là những Ansis. Phả hệ của họ, tôi sẽ lướt qua vắn tắt, kể sơ qua những giai đoạn và phả hệ từ đầu đến đuôi. Các bạn hãy chịu khó lắng nghe vì tôi đang thuật lại một cách thành thực.

Bây giờ người đầu tiên của các anh hùng, như được kể trong các truyền thuyết, là Gapt, người sinh ra Hulmul. Và Hulmul sinh ra Augis; và Augis sinh ra người được gọi là Amal, là nguồn gốc cái tên của người Amali. Amali sinh ra Hisarnis. Hisarnis sinh ra Ostrogotha​​, và Ostrogotha ​​sinh ra Hunuil, và Hunuil tương tự như vậy sinh ra Athal. Athal sinh ra Achiulf và Oduulf. Kế tiếp Achiulf sinh ra Ansila và Ediulf, Vultuulf và Hermanaric. Và Vultuulf sinh ra Valaravans và Valaravans sinh ra Vinitharius. Vinitharius sinh ra Vandalarius; Vandalarius sanh Thiudimer và Valamir và Vidimer và Theodoric Thiudimer sanh. Theodoric sinh Amalasuentha; Amalasuentha sinh ra Athalaric và Mathesuentha với chồng là Eutharic, người mà về chủng tộc do đó gia nhập với cô ấy thành mối quan hệ họ hàng.

Đối với Hermanaric nêu trên, con trai của Achiulf, sinh ra Hunimund, và Hunimund sinh ra Thorismud.  Thorismud sinh Beremud, Beremud sinh Veteric, và tương tự như vậy Veteric sinh ra Eutharic, người kết hôn với Amalasuentha và sinh ra Athalaric và Mathesuentha. Athalaric qua đời trong những năm thơ ấu, và Mathesuentha kết hôn với Vitiges, người mà cô không có con. Cả hai đều đã bị đưa tới  Constantinople bởi Belisarius. Khi Vitiges từ trần, Germanus một quí tộc, người anh em họ của hoàng đế Justinian, kết hôn với Mathesuentha và có với cô ấy một con trai, gọi là Germanus. Sau cái chết của Germanus, cô quyết định sống như một góa phụ. Câu chuyện làm thế nào và tại sao mà vương quốc Amali bị lật đổ chúng ta sẽ tiếp tục đúng chỗ của nó, nếu Chúa giúp chúng ta.

Nhưng bây giờ chúng ta quay trở lại từ điểm mà chúng ta lạc để tiếp tục tìm hiểu hành trình của dân tộc trong câu chuyện của chúng ta. Nhà sử học A

0