Ngoại tộc dày xéo, cai trị Trung Quốc: Nước Kim
Hồ Bạch Thảo Nước Kim do dân tộc Nữ Chân tại phía đông bắc Trung Quốc kiến lập, dân tộc này buổi đầu chuyên sống về săn bắn, đánh cá; thời Ngũ đạicó các bộ lạc Hoàng Nhan thần thuộc nước Bột Hải (1). Sau khi nước Liêu đánh dẹp Bột Hải, thu phục Nữ Chân phương nam thành Thục Nữ Chân, ...
Hồ Bạch Thảo
Nước Kim do dân tộc Nữ Chân tại phía đông bắc Trung Quốc kiến lập, dân tộc này buổi đầu chuyên sống về săn bắn, đánh cá; thời Ngũ đạicó các bộ lạc Hoàng Nhan thần thuộc nước Bột Hải (1). Sau khi nước Liêu đánh dẹp Bột Hải, thu phục Nữ Chân phương nam thành Thục Nữ Chân, phương bắc thành Sinh Nữ Chân; những dân tộc này đều là tổ tiên của Mãn Châu sau này.
A. Kim diệt Liêu:
Thời cuối triều Liêu chính sự hủ bại, vua Thiên Tộ hôn ám thiếu khả năng; đối với Nữ Chân nước Liêu không ngừng bóc lột, đòi hỏi nhiều cống phẩm. Năm 1112, vua Thiên Tộ đến Xuân Châu [thuộc Nội Mông], triệu tập các Tù trưởng Nữ Chân đến, sau khi yến tiệc say, lệnh các vị Tù trưởng cùng vua khiêu vũ; trong đám dự tiệc chỉ có Hoàn Nhan Ha Cốt Đả cho là thiếu kính trọng, không tuân rồi đem lòng chống đối. Sau đó dùng binh lực thống nhất các bộ lạc Nữ Chân; năm 1114 Hoàn Nhan Ha Cốt Đả tuyên chiến vớiLiêu. Vua Liêu sai tướng mang 7.000 quân đi đánh Nữ Chân, tập kết tại bờ phía bắc sông Áp Tử [tức sông Nộn Giang, vị trí giữa hai tỉnh Cát Lâm và Hắc Long Giang]; riêng Ha Cốt Đả dàn 3.700 quân đối bờ. Lợi dụng ban đêmHa Cốt Đả mang quân vượt sông; bấy giờ gió lớn nỗi lên, trời tối mù mịt, xua quântiến đánh; quân Liêu không phân biệt được lực lượng ít nhiều, tan vỡ đại bại.Tháng giêng năm sau Hoàn Nhan Ha Cốt Đả xưng Đế tức Kim Thái tổ, lập nước Đại Kim. Từ đó vua Thiên Tộ nước Liêu mới cho là sự việc trầm trọng, đích thân chinh phạt, nhưng quân Liêu bị quân Kim đánh bại, đồng thời nội bộ triều Liêu cũng xãy ra những vụ phản nghịch.
Sau khi lập quốc, Kim Thái Tổ nhắm diệt 5 kinh đô của Liêu làm mục tiêu chính, bèn chia quân làm 2 đạo quyết chiến. Phía Liêu vua Thiên Tộ dẫn dụ bằng cách sách phong Kim Thái Tổ là Đông Hoài Quốc Hoàng đế, nhưng phía Kim không chấp thuận vì cho rằng không tôn xưng Kim Thái Tổ là anh trưởng, không gọi tên nước là Đại Kim, nên vẫn tiếp tục diệt Liêu. Năm 1116 đạo quân phía đông đánh chiếm Đông kinh [tại Liêu Ninh], năm 1120 đạo quân phía tây chiếm Thượng kinh [tại Nội Mông Cổ]; Liêu mất đến một nữa đất đai. Trong thời gian chiến tranh nhà Tống cử các Sứ giả như Mã Chính từ Sơn Đông vượt biển đến đất Kim để bàn việc hợp tác diệt nước Liêu, cuối cùng lập điều ước, sử gọi là “Hải thượng chi minh” (2). Năm 1122, đạo quân phía đông đánh Trung kinh [tại Liêu Ninh], vua Thiên Tộ phải chạy trốn lên sa mạc. Đồng thời đạo quân phía tây cũng đánh Tây kinh [tại Sơn Tây]; tướng Liêu Gia Luật Đại Thạch lập Gia Luật Thuần lên làm vua tại Nam kinh[ thuộc Hà Bắc] tức nước Bắc Liêu. Nhà Tống sai bọn Đồng Quán nhiều lần mang quân lên phía bắc đánh Liêu tại Nam kinh và 16 châu Yên Vân, nhưng đều bị Liêu đánh thua. Bắc Tống cuối cùng phải nhờ Kim đánh Nam kinh, nước Bắc Liêu mất, tất cả 5 kinh đều bị Kim đánh chiếm.
Chiếu theo thoả ước “Hải thượng chi minh” nội dung: Tống, Kim hai phía đánh Liêu; phía Kim đánh chiếm Thượng kinh [tại Nội Mông], Trung Kinh [Liêu Ninh]; phía Tống đánh chiếm Tây kinh [Sơn Tây], Nam kinh [Hà Bắc]. Sau Khi diệt Liêu, Tống sẽ đem số tiền và vải quyên trước đó nạp cống cho Liêu được ghi trong “Thiền Uyên chi minh”, nạp hàng năm cho Kim; đổi lại Kim sẽ giao cho Tống Yên Vân thập lục châu (3) Vì nhà Tống không thực hiện được lời hứa đánh chiếm 2 kinh, nên Kim cự tuyệt giao Yên Vân. Cuối cùng qua lại giao thiệp, Tống bằng lòng nạp cho Kim 20 vạn lạng bạc, 30 vạn tấm quyên, cùng tiền mướn Yên kinh [Bắc Kinh] là 100 vạn quan, Kim mới chịu giao cho Yên Vân thập lục châu. Nhưng khi bàn giao, nhà Tống chỉ lấy được đất không, còn tài sản đồ vật Kim vơ vét mang đi hết.
Năm 1123 Kim Thái Tổ mất, người em là Hoàng Nhan Ngộ Khất Mãi lên ngôi, tức Kim Thái Tông. Kim Thái Tông tiếp tục đánh dẹp Liêu tại Đại Đồng [Sơn Tây]. Năm 1124 Kim Thái Tông cùng Tây Hạ đánh dẹp Liêu; rồi chia cho Tây Hạ vùng đất Liêu gồm phía bắc Hạ Trại và phía nam Sơn Âm; Tây Hạ trở thành phiên thuộc Kim. Năm 1125 Liêu Thiên Tộ bị bắt, triều Liêu mất; nhưng Gia Luật Đại Thạch mang quân sang phía tây, lập nên nước Tây Liêu tại Tây Vức.
b. Kim đánh Tống cùng hoà đàm:
Kim sau khi diệt Liêu, lại muốn xua quân xuống phương nam diệt Tống. Bấy giờ Kim Thái Tông dựa vào biến cố tại Bình Châu để gây hấn. Bình Châu nằm trong Yên Vân Thập Lục Châu, do viên tướng Liêu, Trương Giác trấn thủ. Giác từng đầu hàng Kim, sau đó lại đầu hàng Tống; khiến quân Kim phải đòi bắt mấy lần phía Tống mới giao lại. Lấy lý do này, nước Kim huỷ điều ước ký với Tống, năm 1125 phát động cuộc chiến tranh. Kim Thái Tông phái các tướng như Hoàng Nhan Tông Vọng, Hoàng Nhan Tông Hàn, chia quân hai cánh từ Hà Bắc, Sơn Tây hướng vào mục tiêu kinh đô Tống tại Khai Phong [Hà Nam]. Nhờ tướng Lý Cương tử thủ Khai Phong, nên Kim không hạ được, khiến hai bên ký hiệp ước “Tuyên Hoà hoà nghị”. Hoà ước mang tên Tuyên Hoà vì ký vào năm Tống Nhân Tông Tuyên Hoà thứ 7 [1125] nội dung đòi Khang vương Triệu Cấu và quan Thái tể Trương Bang Xương phải đi làm con tin; nhường các đất Thái Nguyên [Sơn Tây], Sơn Trung [Hà Bắc], Hà Gian [Hà Bắc] cho Kim. Phía Tống thấy điều ước quá khắc nghiệt, lại nhân quân Kim đã rút, nên tự ý huỷ ước.
Năm 1126 Kim Thái Tông lấy lý do Tống huỷ ước, lại sai Hoàn Nhan Tông Vọng, Hoàn Nhan Tông Hàn chia quân làm 2 lộ đến đánh Khai Phong, chiếm thành, bắt sống các vua Tống Huy Tông, Tống Khâm Tông và các Tôn thất nhà Tống mang về bắc; sự việc xãy ra vào năm Tĩnh Khang thứ nhất [1126], nên sử xưng là “Tĩnh Khang chi hoạ”, nhà Bắc Tống diệt vong.
Tuy nhiên Hoàng thân Khang vương Triệu Cấu may mắn thoát nạn, bèn lập nhà Nam Tống tại phủ Qui Đức [Thương Khâu, Hà Nam], lên ngôi xưng là Tống Cao Tông; đối đầu với nước Kim. Vua Kim nhiều lần sai Hoàn Nhan Tông Bật mang quân đánh dẹp Tống Cao Tông; nhưng nhờ các tướng Tống như Nhạc Phi, Hàn Thế Trung nỗ lực cần vương, nên tình thế chuyển nguy thành yên. Cuối cùng Kim triều chỉ làm được việc bắt nhà Tống xưng là bề tôi, cùng bắt các nước Tây Hạ, Cao Ly thần phục, xưng Bá vùng Đông Á.
Năm 1135 Kim Thái Tông mất, cháu nội Kim Thái Tổ là Hoàn Nhan Đản lên ngôi, tức Kim Hi Tông. Lúc bấy giờ phụ tá có hai phe chủ hoà và chủ chiến; năm 1137 Kim Hi Tông nghe theo phe chủ hoà Hoàn Nhan Thát Lại hoà đàm với Tần Cối, phái chủ hoà Nam Tống. Kết quả cắt nhượng cho Nam Tống phần đất Hà Nam, Thiểm Tây; khiến phe chủ chiến Hoàn Nhan Tông Bật bất mãn. Năm 1140, vua Kim cho Hoàn Nhan Tông Bật đánh Hà Nam, Thiểm Tây; năm sau lại một lần nữa xua quân xuống phương nam, bị Nhạc Phi cùng Lưu Kỳ đánh bại. Sau chiến thắng tại Yển Thành [Hà Nam], quân Nhạc Phi có lúc tiến gần đến kinh đô cũ Bắc Tống tại Khai Phong. Sau cùng Hoàn Nhan Bật cùng phái chủ hoà của Nam Tống hội đàm, cùng lúc Nhạc Phi bị nhà Tống giết, Tống Kim hoàn thành “Thiệu Hưng hoà nghị” (4). Nội dung hoà nghị xác định biên giới Kim Tống; vị trí Kim bắc, Tống nam; giới tuyến đại thể phía đông lấy sông Hoài làm mốc, phía tây tại Đại Tán Quan [nam Tây An, Thiểm Tây]. Tống phụng biểu xưng thần với Kim; vào ngày sinh nhật vua Kim và tết Nguyên Đán, Tống phải sai sứ đến mừng; hàng năm nạp cống Kim 25 vạn lượng bạc, 25 vạn tấm quyên.
Kim Hi Tông từ nhỏ học văn hoá Hán, lúc lên ngôi trọng dụng người Hán; triều đình Kim lúc này bị Hán hoá, theo chế độ Thượng Thư tỉnh, tức 3 tỉnh 6 bộ [tam tỉnh lục bộ] để cai trị quốc gia; sau đó lại giết những người vô tội, bị Hữu Thừa tướng Hoàng Nhan Lượng giết; Nhan Lượng lên làm vua, sử gọi là Hải Lăng vương.
Vua Kim Hải Lăng vương dời kinh đô xuống Yên Kinh [Bắc Kinh], chủ trương trung ương tập quyền, chia nước thành 14 lộ trực thuộc trung ương; đối với tôn thất nghi kỵ rất nặng, con cháu Kim Thái Tông bị giết sạch. Về việc bang giao với nhà Tống, không chịu nghe những lời khuyên ngăn của các quan Đại thần, quyết ý nam chinh. Tháng 5 năm 1161, vua Kim sai Sứ đến Tống đòi hoạch định lại biên giới, ý muốn gây hấn, khiến Nam Tống tích cực chuẩn bị chiến tranh. Năm sau vua Kim Hoàng Nhan Lượng xuất quân từ Khai Phong, chia làm 4 đạo tiến đánh. Đông lộ chia làm 2 đạo thuỷ và bộ; đường bộ do Hoàng Nhan Lượng đích thân chỉ huy, từ Túc Châu [Túc Châu thị, An Huy] vượt sông Hoài đánh vào Hoà Châu [huyện Hoà, An Huy]; đường biển thuỷ quân trực tiếp đánh Lâm An [Hàng Châu, Chiết Giang]. Tây lộ cũng chia làm 2 đạo; từ Quan Trung đánh Tứ Xuyên, từ Hà Nam đánh Hồ Bắc. Đạo quân bộ phía đông sau khi vượt sông Hoài, đánh chiếm Hoà Châu, chuẩn bị vượt sông Dương Tử thì tình thế khó khăn xãy ra. Thuỷ quân lộ phía đông bị tướng Tống là Lý Bảo tiêu diệt tại Giao Tây [Giao Châu thị, Sơn Đông]. Đồng thời Khiết Đan phản biến tại miền tây bắc, Trấn thủ Đông kinh [Liêu Ninh] Hoàn Nhan Bảo tự lập làm vua, rồi kéo về Yên Kinh [Bắc Kinh], tức Kim Thế Tông. Vua Kim Hoàng Nhan Lượng gặp tình hình như vậy, vẫn cố chấp vượt sông, bị quân Tống đánh bại tại Thái Thạch, thuyền hạm bị thiêu huỷ. Hoàn Nhan Lượng mưu vượt sông Dương Tử tại Dương Châu [Giang Tô], bị bộ hạ cực lực phải đối, cuối cùng xãy ra cuộc binh biến giết Hoàn Nhan Lượng. Quân Tống chớp thời cơ, chiếm vùng phía nam sông Hoài.
Năm 1161, Kim Thế Tông mang quân thống nhất Hoa Bắc; rồi nhân việc Nam Tống không chịu xưng thần, bèn sai tướng Hột Thạch Liệt Sĩ Ninh chuẩn bị đánh chiếm phía nam sông Hoài. Lúc bấy giờ Tống Hiếu Tông cũng muốn thu phục đất bị mất, sai chủ tướng Trương Tuấn bắc phạt. Quân Tống lần lượt thu phục vùng đất phía bắc sông Hoài, nhưng rồi bị thua tại trận Phù Ly nên đành dừng lại; rồi hai bên ký hiệp ước, phía Nam Tống phải nạp tiền hàng năm. Năm 1189 sau khi Kim Thế Tông mất, do Thái Tử Hoàn Nhan Duẫn Cung mất sớm, bèn lập con Duẫn Cung là Hoàn Nhan Cảnh lên ngôi, tức vua Kim Chương Tông.
Kim Chương Tông chính trị Hán hoá tương đối sâu, bản thân vua cũng viết chữ Hán rất đẹp. Vua sủng ái Lý Sư Nhi, sau phong làm Nguyên phi, tin dùng ngoại thích họ Lý nên việc chính trị không được suôn sẽ. Lúc này về mặt quân sự vua Chương Tông để suy thoái, các bộ lạc Mông Cổ phương bắc hưng khởi; triều đình Kim cố gắng chia rẽ các bộ lạc này, nhưng thu hiệu quả không lớn, cuối cùng Thành Cát Tư Hãn thống nhất được. Về phía Nam Tống, quyền thần Hàn Sá Trụ thấy Kim triều ở thế suy thoái, năm 1206 phát động bắc phạt. Quân Tống có lúc thu phục được phía bắc sông Hoài, nhưng Ngô Hy trấn thủ đất Thục đầu hàng quân Kim. Tháng 8 quân Kim chia làm 9 đạo tiến xuống phương nam, đến cuối năm làm áp lực tại sông Dương Tử, vây thành Tương Dương [Hồ Bắc]. Nhưng đến năm sau Ngô Hy bị giết, đất Tứ Xuyên lại trở về Nam Tống; lúc này hai bên muốn bàn hoà. Hàn Sá Trụ sau đó bị giết do yêu cầu phía Kim, hai bên Kim Tống nghị hoà, sử gọi là “Gia Định hoà nghị”. Hoà ước này ký vào thời Tống Ninh Tông năm Gia Định thứ nhất [1208]; nội dung Kim Tống được coi như hai nước bác cháu, Kim xưng bác, Tống xưng cháu; mỗi năm Tống nạp cho Kim từ 20 vạn lượng bạc tăng lên 30 vạn lượng; quyên từ 20 vạn tấm tăng lên 30 vạn tấm; Tống phải cấp riêng tiền khao quân 300 vạn lượng; riêng về biên giới vẫn như hoà ước cũ đời Thiệu Hưng. Năm 1208 Kim Chương Tông mất, nhân 6 đứa con 3 tuổi đều chết yểu, nên người chú là Vệ Thiệu vương Hoàn Nhan Vĩnh Tế lên thay.
c. Nước Kim trên đường suy thoái.
Sau khi Hoàn Nhan Vĩnh Tế nối ngôi, bèn thanh trừ Lý Nguyên phi và thế lực ngoại thích; tuy nhiên bản thân nhà vua hôn nhược, lại đối diện với xâm lăng của Mông Cổ không có sức phản kháng, nên triều đình suy thoái hỗn loạn. Năm 1206, Thành Cát Tư Hãn thống nhất vùng nam bắc đại sa mạc, thành lập nước Đại Mông Cổ. Trước tiên Thành Cát Tư Hãn đánh Tây Hạ để cắt đứt đồng minh của Kim; Tây Hạ bèn hướng triều đình Kim cầu viện, nhưng vua Kim để mặc lân bang Tây Hạ gặp nguy không cứu, cuối cùng Tây Hạ quay sang thần phục Mông, lại còn phụ giúp Mông Cổ đánh Kim. Năm 1210, Thành Cát Tư Hãn tuyệt giao với Kim, năm sau phát động chiến tranh Mông Kim, đại phá 40 vạn quân Kim tại Giả Hồ Lãnh [huyện Vạn Toàn, tỉnh Hà Bắc]. Sau đó quân Mông Cổ càn quét vùng Hoa Bắc, vây Trung Đô [Bắc Kinh], nhân vì Trung Đô kiên cố nên rút lui. Năm 1212, Thành Cát Tư Hãn nam chinh lần thứ hai, bao vây quân Kim tại Tây kinh [Đại Đồng, Sơn Tây]; đồng thời Khiết Đan tại miền đông bắc phản Kim theo Mông, khiến quân Mông Cổ tiến gần đến Trung đô [Bắc Kinh]. Năm 1213, tướng Hồ Sa Hổ giết vua Kim Hoàn Nhan Vĩnh Tế, lập anh của Kim Chương Tông lên ngôi, tức Kim Tuyên Tông.
Năm 1213, khi Kim Tuyên Tông mới lên ngôi, quyền lực vào trong tay Hồ Sa Hổ; Sa Hổ đàn hạch Trấn thủ Trung đô Truật Hổ Cao Kỳ kém khả năng chiến đấu, nên sau đó bị Cao Kỳ giết. Vào mùa thu cùng năm, quân Mông Cổ chia làm 3 đạo đánh Kim, triều đình Kim chỉ còn giữ được 11 thành, như Trung Đô, Chân Định [Hà Bắc]. Năm sau Kim Tuyên Tông xin hoà, hiến vàng cùng Công chúa Kỳ Quốc cho Thành Cát Tư Hãn. Sau khi quân Mông Cổ triệt thoái, Kim Tuyên Tông không nghe lời khuyên của các công thần, bèn dời đô về Khai Phong [Hà Nam]; chỉ sai Thái tử ở lại giữ Trung Đô, khiến quân dân vùng Hà Bắc không yên tâm. Năm 1215, Mông Cổ thấy vua Kim dời đô về phương nam, lại mang quân đánh chiếm Trung Đô và chiếm luôn cả vùng Hà Bắc. Lúc bấy giờ tại vùng Liêu Đông, một tướng lãnh của Kim là Bồ Tiên Vạn Nô tách riêng tự lập nước Đông Chân; nên triều đình Kim chỉ thực sự khống chế vùng Hà Nam, Hoài Bắc, và Quan Trung mà thôi.
KimTuyên Tông sau khi dời đô, thế lực càng yếu; nhưng gặp lúc Thành Cát Tư Hãn mang đại quân tây chinh, nên còn tạm tồn tại được. Thành Cát Tư Hãn giao cho Mộc Hoa Lê ở lại đương đầu với quân Kim, năm 1219 quân Mông Cổ chiếm Thái Nguyên [tỉnh Sơn Tây]. Năm 1224 vua Kim Tuyên Tông mất, người con trưởng mất sớm, nên con thứ lên làm vua tức Kim Ai Tông.
D.Kim diệt vong.
Kim Ai Tông lên ngôi, chủ trương hoà hoãn với Nam Tống và Tây Hạ; lập đạo quân Trung Hiếu trực thuộc trung ương, năm 1228 đánh bại quân Mông Cổ tại Đại Xương Nguyên [huyện Ninh, Cam Túc]. Sau đó thu phục được một số đất đai, khiến Kim triều cải tử hồi sinh. Tuy nhiên nước đồng minh Tây Hạ trải qua mấy lần chiến tranh quốc lực tiêu hao; rồi gặp quân Thành Cát Tư Hãn từ phương tây trở về, bị tiêu diệt. Cùng năm Thành Cát Tư Hãn mất, năm 1229 con thứ 3 là Oa Khoát Đài lên ngôi, tức vua Nguyên Thái Tông. Từ đó Mông Cổ lại gây hấn với Kim; năm 1230 Nguyên Thái Tông phát động 3 đạo quân đánh Kim, Thái Tông trực tiếp mang đại quân vượt sông Hoàng Hà đánh vào kinh đô Khai Phong, một đạo phía đông đánh Tế Nam [Sơn Đông]; một đạo do người em thứ 4 là Đà Lôi mượn đường Nam Tống từ Hán Trung [Hồ Bắc] theo dòng Hán Thuỷ đánh ngược lên Khai Phong. Năm 1232 Đà Lôi thành công trong chiến thuật đi vòng đến Khai Phong, Kim Ai Tông bèn sai bọn Hoàn Nhan Hợp Đạt mang quân đánh chặn tại Đăng Châu. Lúc bấy giờ Nguyên Thái Tông đã vượt sông Hoàng Hà, sai bộ tướng đến đánh Khai Phong, Hoàng Nhan Hợp Đạt bèn mang quân về cứu, gặp quân Đà Lôi tao ngộ chiến tại Tam Phong Sơn; quân tinh nhuệ của Kim bị thua bại, các tướng lãnh nỗi tiếng lần lượt chết. Quân Mông Cổ vây thành Khai Phong, khiến Kim triều phải cầu hoà. Sau đó Kim giết Sứ giả Mông Cổ; khiến Mông một lần nữa vây đánh kinh đô Khai Phong. Kim Ai Tông giữ được đến cuối năm rồi rút lui về Qui Đức [Thương Khâu thị, Hà Nam], tướng trấn thủ Khai Phong đầu hàng. Quân Mông Cổ đánh đuổi không tha, vua Kim Ai Tông phải chạy đến Thái Châu. Quân Mông liên kết quân Tống cùng đánh; vua Ai Tông không muốn làm vua mất nước, bèn trao chức cho Thống soái Nguyên Nhan Thừa Lân, tức Kim Mạt đế. Lúc thành Thái Châu mất, Kim Ai Tông tự sát,Kim Mạt đế cũng chết trong đám loạn quân, nước Kim mất.
Chú thích:
1.Nước Bột Hải: lập quốc từ năm 698 đến năm 926, buổi thịnh trị lãnh thổ tại phía nam Hắc Long Giang, phần lớn các tỉnh Liêu Ninh và Cát Lâm và phía bắc bán đảo Triều Tiên.
2.Hải thượng chi minh: Ý nói minh ước do hai bên qua lại ngoại giao trên biển, rồi hoàn thành.
3.16 châu Yên Vân tức Yên Vân Thập Lục Châu: vùng đất bao quát toàn bộ Bắc Kinh, Thiên Tânvà miền bắc Sơn Tây, Hà Bắc hiện nay.
4.Thiệu Hưng hoà nghị: hoà nghị Kim Tống ký vào năm Tống Cao Tông Thiệu Hưng 11 [1141]