Nghiên cứu công cụ Marketing
Trong hoạt động thương mại, doanh nghiệp tiếp cận và chinh phục khác hàng thông qua các hoạt động và công cụ cụ thể. Marketing hỗn hợp là một hệ thống đồng bộ các công cụ có thể kiểm soát được và chinh phục khách hàng. Theo E.J.Mc Carthy, Mar hỗn hợp ...
Trong hoạt động thương mại, doanh nghiệp tiếp cận và chinh phục khác hàng thông qua các hoạt động và công cụ cụ thể. Marketing hỗn hợp là một hệ thống đồng bộ các công cụ có thể kiểm soát được và chinh phục khách hàng.
Theo E.J.Mc Carthy, Mar hỗn hợp gồm 4 tham số cơ bản :
Sản phẩm
Xúc tiến
Giá cả
Phân phối
Hiểu và mô tả đúng sản phẩm của doanh nghiệp đưa ra bán trên thị trường là một trong những nhiệm vụ quan trọng của hệ thống marketing hỗn hợp ở doanh nghiệp. Xác định đúng sản phẩm có ảnh hưởng lớn đến khả năng tiêu thụ bán hàng và khai thác cơ hội kinh doanh của doanh nghiệp.Nhưng việc mô tả sản phẩm một cách chính xác và đầy đủ thường bị xem nhẹ hoặc do thói quen hoặc do chưa hiểu rõ về tầm quan trọng của nó trong hoạt động tiêu thụ và kinh doanh. Điều này đã dẫn đến những hạn chế về khả năng tiêu thụ cũng như hạn chế khả năng phát triển kinh doanh của doanh nghiệp.
Để mô tả sản phẩm của mình, doanh nghiệp có thể lựa chọn các cách tiếp cận khác nhau:tiếp cận và mô tả sản phẩm theo truyền thống
Tiếp cận và mô tả sản phẩm theo quan niệm marketing.
Việc lựa chọn cách tiếp cận nào là tuỳ thuộc vào từng doanh nghiệp. Nhưng đồng thời, nó sẽ có ảnh hưởng lớn tới kinh doanh vì vậy cần cân nhắc.
Sản phẩm mới và định hướng phát triển sản phẩm mới.
- Khái niệm sản phẩm mới :
Yêu cầu của kinh doanh trong nền kinh tế thị trường luôn đòi hỏi các doanh nghiệp phải thường xuyên đổi mới.Thông thường doanh nghiệp vẫn quan niệm một sản phẩm mới phải là một sản phẩm hoàn toàn mới theo công năng hoặc giá trị sử dụng của nó. Từ góc độ khác hàng ,các doanh nghiệp có thể đưa ra các sản phẩm mới của mình một cách hiệu quả và đa dạng hơn .Từ cách nhìn của khách hàng, một sản phẩm mới không có nghĩa là một sản phẩm hoàn toàn mới .Một sản phẩm cải tiến cũng có thể được coi là sản phẩm mới
- Định hướng phát triển sản phẩm:
Phát triển sản phẩm của doanh nghiệp theo quan niệm của khách hàng rất có ích cho doanh nghiệp. Trong trường hợp này nên chú ý đến các đặc điểm của doanh nghiệp sản xuất và doanh nghiệp thương mại khi hoạch định chiến lược phát triển sản phẩm.
- Đối với doanh nghiệp sản xuất :phát triển sản phẩm còn có nghĩa là việc đưa vào và hoàn thiện cấu trúc tổng thể của sản phẩm bằng các yếu tố tạo ra khả năng thoả mãn đồng bộ nhu cầu của khách hàng bên cạnh công năng cơ bản của sản phẩm.
- Đối với doanh nghiệp thương mại: Để hoạch định chiến lược và chính sách phát triển sản phẩm của doanh nghiệp thương mại cần hiểu rõ các yếu tố cấu thành nên sản phẩm mà doanh nghiệp thương mại đưa ra cung ứng cho khách hàng của họ
Sản phẩm người tiêu dùng nhận được từ nhà thương mại = ( sản phẩm được chế tạo từ nhà sản xuất ) + ( sản phẩm được thực hiện bởi nhà thương mại )
Triển khai sản phẩm mới và chu kì sống của sản phẩm:
- Sáu giai đoạn phát triển của sản phẩm mới:
Để đảm bảo có hiệu quả trong kinh doanh khi đưa sản phẩm mới ra thị trường, doanh nghiệp phải thực hiện một cách có hệ thống các bước triể n khai cơ bản và theo dõi, điều chỉnh có phương pháp các hoạt động của mình theo đà phát triển chung của sản phẩm trên thị trường. Quá trình đưa sản phẩm mới ra thị trường gồm 6 giai đoạn:
Nghiên cứu và đề xuất ý tưởng
Nghiên cứu tiền khả thi ý tưởng về sản phẩm mới
Nghiên cứu khả thi (tiên lượng về kinh tế)
Phát triển sản phẩm mới (chế thử)
Thử nghiệm sản phẩm mới trên thị trường
Thương mại hoá sản phẩm
- Chu kì sống của sản phẩm:
Kết thúc giai đoạn thử nghiệm và thực hiện giai đoạn thương mại hoá, sản phẩm mới đi vào thị trường và giảm dần đặc điểm mới để đi đến suy thoái qua các phân kì kế tiếp nhau của một “chu kì sống của sản phẩm”.Về cơ bản sản phẩm mới thường là sự chuyển đổi liên tục qua 4 phân kì:
Giới thiệu sản phẩm (xâm nhập thị trường)Với sản phẩm mới tính độc quyền là rất cao ,doanh nghiệp hoàn toàn có khả năng định giá.
Thị trường phát triển :ở giai đoạn này khách hàng đã quen thuộc và ưa chuộng sản phẩm.Doanh số bán tăng nhanh và có thể đạt đến điểm cực đại, chi phí xúc tiến giảm .
Thị trường chín muồi (bão hoà )Là giai đoạn kém hấp dẫn nhất trong kinh doanh. Sau thời kì để tăng trưởng mạnh ,doanh số bán tăng chậm và giảm dần.Thường có nhiều đối thủ cạnh tranh với những sản phẩm tương tự. Để tiếp duy trì ở mức bán hoặc không làm giảm sút quá nhanh, bắt buộc phải đưa ra những đòi hỏi chi phí cao.
Thị trường suy giảm:đây là giai đoạn cuối cùng của chu kì sống của sản phẩm.Tuy kinh doanh trong giai đoạn này vẫn có thể có hiệu quả, song đòi hỏi những nỗ lực rất lớn cho việc lựa chọn đúng các tham số giá, xúc tiến và phân phối.
- Phân lớp hàng hoá:
Triển khai sản phẩm mới và đưa sản phẩm vào kinh doanh cần hiểu được đầy đủ công dụng của sản phẩm.Dựa trên cách thức mua sắm của khách hàng, có thể phân hàng tiêu dùng và hàng công nghiệp vào các lớp sau:
Phân lớp hàng tiêu dùng:chia thành 4 nhóm:hàng thông dụng ,hàng lâu bền (hàng khảo giá),hàng đặc biệt ,hàng ít được biết đến
Phân lớp hàng công nghiệp :đấtđai ,nhà xưởng văn phòng ,thiết bị, phụ tùng linh kiện và bán thành phẩm ,nguyên liệu ,vật liệu chính,vật liệu phụ và hàng bổ xung.
- Nhãn hiệu hàng hoá:
-Khái niệm: Nhãn hiệu hàng hoá là việc sử dụng một cái tên, một thuật ngữ, một biểu tượng hay bản vẽ hoặc kết hợp các yếu tố trên với nhau để nhận biết một sản phẩm. Nhãn hiệu hàng hoá có thể ở 2 mức độ: đặt tên cho nhãn hiệu và thiết lập đăng kí nhãn hiệu thương mại.
-Năm mức độ quen thuộc cuả nhãn hiệu hàng hoá :
Nhãn hiệu bị loại bỏ
Nhãn hiệu không được công nhận
Nhãn hiệu được công nhận
Nhãn hiệu được ưa thích
Nhãn hiệu được tín nhiệm
- Những vấn đề cơ bản của chiến lược hàng hoá :
Xác định một tên nhãn đúng với các đặc điểm
Bảo vệ nhãn hiệu và nhãn hiệu thương mại
Xây dựng chương trình khai thác uy tín nhãn hiệu trong kinh doanh
Đảm bảo các điều kiện thuận lợi cho việc phát triển nhãn hiệu và hiệu quả khi đưa ra nhãn hiệu mới
- Bao bì hàng hoá:
Trong thế giới hiện đại, bao bì ngày càng có vai trò quan trọng trong tiêu thụ. Dưới con mắt khác hàng bao bì gắn chặt với sản phẩm và là một bộ phận không thể thiếu được của sản phẩm mà nhu cầu đồng bộ của họ đòi hỏi phải thoả mãn.Bao bì có rất nhiều công dụng chứ không đơn thuần chỉ là cái cần thiết để bảo vệ sản phẩm: bao bì có thể làm cho sản phẩm thích hợp hơn với tiêu dùng và đáp ứng tốt hơn nhu cầu của khác hàng, bao bì tạo khả năng vận chuyển sản phẩm có hiệu quả hơn, bao bì còn để quảng bá nhãn hiệu sản phẩm của doanh nghiệp. Nên hiểu bao bì là một bộ phận quan trọng của sản phẩm được đưa ra bán và khách hàng sẵn sàng trả tiền để có nó.
Giá cả là một trong 4 tham số cơ bản của marketing hỗn hợp.Trong kinh doanh ,giá là một trong các công cụ có thể kiểm soát mà doanh nghiệp có thể và cần sử dụng một cách khoa học để thực hiên các mục tiêu chiến lược, kế hoạch kinh doanh.
Các quyết định về giá có ảnh hưởng lớn đến toàn bộ quá trình kinh doanh của doanh nghiệp, từ việc đặt kế hoạch sản xuất kinh doanh đến mua sắm, bán hàng và chi phí lợi nhuận.
Hoạch định chiến lược, chính sách và kiểm soát giá cả trong kinh doanh cần nghiên cứu và nắm vững:
Khái niệm giá:
Trong nghiên cứu kinh tế, giá được hiểu là “sự biểu hiện bằng tiền của giá trị hàng hoá”.Trong kinh doanh và quản trị giá, giá cả được mô tả một cách cụ thể hơn: “giá là khoản tiền phải bỏ ra để đổi lấy một món hàng hay một dịch vụ”hoặc giá là khoản tiền phải trả cho một thứ nào đó.
Mục tiêu định giá:
Mức giá phải được định ra trên cơ sở các mục tiêu đã được xác định rõ ràng, tuỳ vào mục tiêu kinh doanh của từng doanh nghiệp mức giá phải đảm bảo giải quyết tốt mối quan hệ hữu cơ giữa các yêu cầu:
Phát triển doanh nghiệp
Khả năng bán hàng
Thu nhập(lợi nhuận).
Trong thực tế ,doanh nghiệp có thể lựa chọn mục tiêu định giá của mình từ các mục tiêu sau:
- Định giá nhằm đảm bảo mức thu nhập được xác định trước
- Định giá nhằm mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận
- Định giá nhằm mục tiêu doanh số bán hàng
- Định giá nhằm mục tiêu phát triển các sản phẩm đoạn thị trường.
- Định giá nhằm mục tiêu cạnh tranh đối đầu
- Định giá nhằm mục tiêu cạnh tranh không mang tính giá cả
Các chính sách định giá:
Nhằm đạt được mục tiêu đã xác định cho giá ,doanh nghiệp cần đưa ra các quyết định rõ ràng về chính sách giá của mình.Các chính sách giá đúng cho phép doanh nghiệp có thể định giá và quản lý giá có hiệu quả trong kinh doanh.Chính sách giá thể hiện sự đúng đắn các tình huống cần giải quyết khi đặt mức giá giúp cho việc chấp nhận giá và ra quyết định mua ám của khách hàng được dễ dàng hơn.
- Các chính sách giá chính thường được áp dụng gồm:
- Chính sách về sự linh hoạt của giá: Chính sách linh hoạt của giá phản ánh cách thức sử dụng mức giá như thế nào đối với các đối tượng khách hàng. Doanh nghiệp phải lựa chọn giữa chính sách giá hay chính sách giá linh hoạt.
- Chính sách về mức giá theo chu kì sống của sản phẩm: Chính sách này thường được đưa ra để lựa chọn mức giá cho các sản phẩm mới. Mức giá cụ thể (cao hay thấp) có ảnh hưởng lơns đến thời gian cần thiết để vượt qua chu kì “xâm nhập thị trường”và khả năng bán hàng ở các phân kì tiếp theo do mức độ hấp dẫn của cạnh tranh và sản phẩm thay thế.Tuỳ theo điều kiện cụ thể có thể lựa chọn mức giá khác nhau:-chính sách về mức giá theo chu kì sống của sản phẩm:
+ Chính sách giá hớt váng
+ Chính sách giá “xâm nhập”
+ Chính sách giá “giới thiệu “
+ Chính sách giá “theo thị trường”
- Chính sách giá theo chi phí vận chuyển: Để thoả mãn nhu cầu của khách hàng, sản phẩm phải được vận chuyển đến địa điểm sử dụng theo yêu cầu của họ. Việc tính toán chi phí vận chuyển vào giá công bố một cách linh hoạt và đúng đắn có thể tạo ra cơ hội tốt hơn cho bán hàng và cạnh tranh cuả doanh nghiệp trên một số khu vực thị trường.Cần có chính sách đúng đắn để lựa chọn phương án định giá hợp lí bởi trong thực tế kinh doanh có rất nhiều khả năng lựa chọn các biến thái khác nhau về chi phí vận chuyển khi hình thành nên các mức giá.
Các mức giá dựa trên chi phí vận chuyển thường được dựa trên ba loại chính sách chính:
+ Giá giao hàng theo địa điểm.
+ Giá giao hàng theo vùng.
+ Giá giao hàng đồng loạt.
+ Giá vận chuyển hấp dẫn.
- Chính sách hạ giá và chiếu cố giá :Các mức giá thường được hình thành theo các điều kiện xác định trước.Trong kinh doanh, các điều kiện này có thể thay đổi tuỳ theo các trường hợp cụ thể thực tế,không thể luôn luôn bán hàng theo điều kiện đã tính trước.Bởi vậy, xuất hiện các yêu cầu điều chỉnh giá.Nếu điều kiện ban đầu thay đổi một cách cơ bản có thể dẫn đến việc phải tính toán lại mức giá.Nhưng trong các trường hợp chỉ có sự thay đổi ở một số khía cạnh nào đó thì giá dẽ được điều chỉnh lại theo chính sách hạ giá và chiếu cố giá.
Hạ giá là sự giảm giá công bố - giá mà người bán thông báo cho người mua. Việc giảm giá không chỉ nhằm để bán được hàng mà còn phải đáp ứng các mục tiêu đặt ra cho việc kinh doanh và bán hàng.Có nhiều trường hợp khác nhau cần xem xét để quyết định giảm giá:
+ Hạ giá theo khối lượng nhằm khuyến khích mua nhiều.
+ Hạ giá theo thời vụ.
+ Hạ giá theo thời hạn thanh toán.
+ Hạ giá theo đơn đặt hàng trước
+ Hạ giá ưu đãi.
+ Hạ giá tiêu thụ hàng tồn kho.
+ Hạ giá theo truyền thống.
+ Các chính sách chiếu cố giá
- Các phương pháp tính giá:
- Các yếu tố chính cần nghiên cứu khi tính giá: Khi xác định nức giá cụ thể, cần nghiên cứu và phân tích các yếu tố cần được phản ánh trong giá sao cho mức giá được quyết định có thể là mức giá tốt nhất mà doanh nghiệp có thể đưa ra.Các yếu tố chính cần được nghiên cứu là:
+ Nhu cầu của khách hàng
+ Các yếu tố làm giảm tác động ảnh hưởng của gía đến khách hàng
+ Chi phí.
+ Đối thủ và trạng thái cạnh tranh trên thị trường.
+ Các yếu tố về luật pháp xã hội.
- Phương pháp tính giá theo chi phí: Xác định mức giá công bố theo chi phí là một trong các phương pháp giá chính thường được áp dụng trong kinh doanh. Định giá theo chi phí là phương pháp tính giá dễ bỏ qua nhu cầu và các yếu tố khác ngoài chi phí. Phương pháp tính giá này được thực hiện trên hai yếu tố cơ bản: Chi phí bình quân trên một sản phẩm và lợi nhuận dự kiến của doanh nghiệp. Giá sẽ cao khi chi phí bình quân và lợi nhuận dự kiến được xác định cao và ngược lại. Sự phụ thuộc và các yếu tố này củ mức giá đòi hỏi phải được tính toán các yếu tố một cách hợp lí nếu không sẽ dẫn đến sai lầm về mức giá.
- Phương pháp tính giá theo định hướng nhu cầu: Các mức giá được tính theo định hướng chi phí thường nhấn mạnh các yếu tố chủ quan của người làm gốc. Có nhiều trường hợp khác nhau để xác định mức giá theo định hướng nhu cầu:
+ Tính theo giá trị sử dụng của sản phẩm
+ Tính giá theo “mức độ chấp nhận giá” của khách hàng :
+ Qua các phân tích ở trên, có thêr nhận thấy mối liên hệ sâu sắc giữa tham số giá cả còn lại của Marketing hỗn hợp. Để sử dụng giá có hiệu quả, một mặt cần có chính sách và chiến lược giá phù hợp với các tham số khác cũng như có khả năng hỗ trợ tốt cho các tham số trong một chiến lược Marketing hoàn hảo.
Để bán tốt, doanh nghiệp cần phải thoả mãn rất nhiều yêu cầu đặt ra từ phía khách hàng. Khách hàng cần không chỉ sản phẩm tốt và giá cả đúng mà còn cần đáp ứng được nội dung rất quan trọng mà hệ thống marketing của doanh nghiệp cần phải giải quyết tốt trong chiến lược marketing của mình. Địa điểm rất quan trọng vì nó liên quan đến quyết định về phân phối hàng hoá và khả năng bán hàng của doanh nghiệp. Địa điểm và phân phối cần được giải quyết tốt vì nó giúp cho: Xác định đúng điạ chỉ, thời gian và chi phí vận chuyển hợp lí chuyên môn hoá và sử dụng hợp lí lực lượng bán hàng, tiết kiệm chi phí bán hàng.
Lựa chọn địa điểm:
Để có được chiến lược marketing thành công, các tham số sản phẩm, giá cả và xúc tiến phải được xây dựng trên cơ sở lựa chọn đúng địa điểm.Danh mục sản phẩm kinh doanh , chính sách giá cả, chính sách xúc tiến chỉ có thể có hiệu quả cao khi được tiến hành xây dựng dưạ trên các đặc điểm của các tham số địa điểm(phân phối) và các tham số còn lại của marketing hỗn hợp được giải quyết trên hai mức độ:
- Ở mức độ khái quát: Quyết định bán cho ai, bán ở đâu và các chỉ dẫn cơ bản vế địa điểm là cơ sở để ra các quyết định về chính sách sản phẩm, xúc tiến, giá cả.
- Ở mức độ chi tiết: Các quyết định về chính sách sản phẩm, xúc tiến ,giá cả là cơ sở để tổ chức quá trình phân phối có hiệu quả :lựa chọn kênh bán hàng và phân phối hiện vật.
Lựa chọn địa điểm được tiến hành theo hai tiêu thức cơ bản :
- Lựa chọn theo yếu tố địa lí ở đâu?
Lựa chọn địa điểm theo yếu tố địa lí thực chất là xác định thị trường thích hợp của doanh nghiệp theo tiêu thức địa lí và phân chia thị trường thích hợp thành các khu vực kiểm soát tương ứng với các đơn vị thành viên của doanh nghiệp.
Giới hạn địa lí - độ rộng (kích thước ) của thị trường và khoảng cách từ nguồn cung cấp đến người mua là vấn đề đầu tiên cần được xem xét khi lựa chọn địa điểm.Về cơ bản, có 3 giới hạn địa lí cần được xác định:
+ Giới hạn tổng quát: Xác định cho toàn doanh nghiệp.
+ Giới hạn khu vực: Xác định cho đơn vị thành viên.
+ Giới hạn điểm: Xác định cho điểm bán hàng.
- Lựa chọn địa điểm theo yếu tố khách hàng - cho ai?
Lựa chọn địa điểm theo yếu tố địa lí có thể được nghiên cứu và phân tích một cách độc lập để làm rõ các vấn đề về khoảng cách vận chuyển và chi phí bán hàng.Nhưng trong chiến lược phân phối có hiệu quả,cần được hoàn thiện bằng các quyết định lựa chọn điạ điểm theo yếu tố khách hàng. Một thị trường cần được xác định theo tiêu thức địa lí nào đó luôn bao gồm số lượng và các loại khách hàng khác nhau (với nhu cầu của họ) đang sinh sống và hoạt động trong khu vực đó. Chính khách hàng với nhu cầu mua sắm của họ mới là nguồn hấp dẫn chủ yếu khiến cho doanh nghiệp phải quan tâm đến nó :số lượng khách hàng tiềm năng (ảnh hưởng đến doanh số bán), nhu cầu đa dạng của khách hàng (ảnh hưởng đến danh mục mặt hàng) và nhu cầu của họ (ảnh hưởng cả đến số lượng và chất lượng hàng hoá có thể bán được). Đặc điểm của khách hàng giữa các khu vực và ngay cả trong một khu vực thị trường được xác định theo tiêu thức địa lí có thể và thường rất khác nhau, như: dân cư, thu nhập và phân bố thu nhập , nghề nghiệp , nền văn hoá … Sự khác biệt này có ảnh hưởng rất lớn đến khả năng bán hàng và cách thức vận chuyển, cách thức bán hàng cho khách hàng. Bởi vậy, để quyết định đúng vế địa điểm doanh nghiệp còn phải trả lời được câu hỏi “bán cho ai” một cách chính xác. Điều này có nghĩa là phải xác định được các nhóm khách hàng trọng điểm để quyết định phương thức chuyển đưa hàng hoá đến khách hàng một cách có hiệu quả.Lựa chọn và thiết kế kênh phân phối: Khái niệm kênh phân phối: Trong hoạt động bán hàng của doanh nghiệp luôn tồn tại dòng vận động của các yếu tố, nghiệp vụ liên quan đến nó như :dòng vật chất, dòng dịch vụ, dòng thông tin, dòng khuyến mãi… Kênh phân phối chủ yếu trình bày dòng vận động của hàng hoá vật chất ,dịch vụ trong quá trình bán hàng của doanh nghiệp - hàng hoá dịch vụ được chuyển từ nhà sản xuất (đầu nguồn) đến người sử dụng (khách hàng công nghiệp hoặc người tiêu thụ cuối cùng) như thế nào? Một kênh phân phối có thể được hiểu là một tập hợp có hệ thống các phần tử tham gia vào quá trình chuyển đưa hàng hoá từ nhà sản xuất (hoặc tổ chức đầu nguồn ) đến người sử dụng.Các dạng kênh phân phối : Các dạng kênh phân phối mà doanh nghiệp có thể sử dụng thường được phân loại và dựa vào tiêu thức trực tiếp, gián tiếp dài hay ngắn. Kênh phân phối trực tiếp: trong dạng kênh này doanh nghiệp không được sử dụng ngưòi mua trung gian để phân phối hàng hoá. Lực lượng bán hàng của doanh nghiệp chịu trách nhiệm trực tiếp bán hàng đến tận tay người sử dụng hàng hoá. Kênh phân phối gián tiếp : Là dạng kênh phân phối mà trong đó doanh nghiệp “bán” hàng của mình cho người sử dụng thông qua người mua trung gian .Tuỳ theo từng trường hợp, khách hàng trực tiếp của doanh nghiệplà nhà buôn hoặc nhà bán lẻ. Doanh nghiệp không trực tiếp bán hàng cho người sử dụng sản phẩm hàng hoá. Kênh phân phối hỗn hợp: đây là một phương án lựa chọn kênh phân phối trên cơ sở sử dụng đồng thời cả hai dạng kênh phân phối trực tiếp và kênh phân phối gián tiếp. Để thiết kế kênh phân phối hàng hoá doanh nghiệp có thể lựa chọn dạng kênh dài hoặc kênh ngắn và cũng có thể phối hợp cả hai dạng trên để có phương án kênh hỗn hợp.Thiết kế hệ thống kênh phân phối: Thiết kế kênh phân phối là quá trình kết hợp các quyết định về địa điểm theo yếu tố địa lí và khách hàng để xác định và xây dựng phương án kênh phân phối của doanh nghiệp. Để thiết kế được kênh phân phối cần thực hiện tốt các vấn đề sau:
- Nghiên cứu phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến sự lựa chọn kênh phân phối
- Xác định mục tiêu và tiêu chuẩn của hệ thống kênh phân phối
- Xác định dạng kênh và phương án kênh phân phối .
Lựa chọn và phát triển các phần tử trong kênh phân phối: - Lực lượng bán hàng của doanh nghiệp: Trong bất cứ một dạng kênh nào lực lượng bán hàng của doanh nghiệp cũng đều đóng một vị trí quan trọng có ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu suất hoạt động của kênh phân phối lực lượng bán hàng của doanh nghiệp bao gồm: lực lượng bán hàng cơ hữu, các đại lí có hợp đồng. - Người mua trung gian trong kênh phân phối: Người mua trung gian gồm tất cả những ngưòi mua hàng của doanh nghiệp để bán lại cho người khác kiếm lời. Khi xây dựng kênh phân phối, doanh nghiệp phải tiến hành nghiên cứu để đưa ra quyết định về hai vấn đề : Sử dụng người mua trung gian như thế nào? Lựa chọn người mua trung gian nào trong các dạng ngưòi mua trung gian trên các phân đoạn thị trường cụ thể để đưa và kênh phân phối của mình. Ngoài ra còn phải xác định dạng người mua trung gian, lựa chọn người mua trung gian cho kênh phân phối, điều chỉnh hệ thống kênh phân phối.Tổ chức và điều khiển quá trình phân phối hiện vật:Hệ thống kênh phân phối xác định các luồng dịch chuyển hàng hoá trong lưu thông. Nhưng sự hoạt động của hệ thống kênh phân phối còn phụ thuộc vào vấn đề hàng hoá được phân phối như thế nào trên các kênh phân phối và vì vậy, để đảm bảo cho quá trình dịch chuyển của hàng hoá hiện vật một cách thuận lợi, hợp lí và có hiệu quả còn cần phải giải quyết các vấn đề liên quan đến nội dung của phân phối hiện vật.
Phân phối hiện vật là quá trình điều phối, vận chuyển và dự trữ hàng hoá dưới dạng hiện vật vào ở các kênh phân phối của doanh nghiệp. Điều phối hàng hoá vào kênh phân phối :là quá trình xác định các kế hoạch và tổ chức thực hiện kế hoạch đảm bảo nguồn cung cấp hàng hoá cho các kênh phân phối của doanh nghiệp. Điều phối hàng hoá là quá trình xác định các kế hoạch đảm bảo nguồn cung cấp hàng hoá cho các kênh phân phối của doanh nghiệp. Dù trong trường hợp nào, kế hoạch phân phối hiện vật đúng cũng là cơ sở quan trọng để thoả mãn yêu cầu: đúng hàng đúng địa điểm, đúng thời gian của các loại khách hàng. Lựa chọn phương án vận chuyển hàng hoá trong các kênh: Chức năng vận chuyển hàng hoá của hệ thống marketing doanh nghiệp có thể thực hiện được hay không phụ thuộc phần lớn vào việc giải quyết các nội dung của nhiệm vụ này. Lựa chọn đúng phương án vận chuyển cho phép đáp ứng tốt các yêu cầu về thời gian, địa điểm có ích và giảm chi phí trong bán hàng. Lựa chọn dự trữ trong các kênh phân phối: Dự trữ trong kênh phân phối ảnh hưởng đến khả năng đáp ứng nhu cầu về thời gian có ích của khách hàng và chi phí của doanh nghiệp. Dự trữ không hợp lí có thể làm mất khách hàng hoặc làm tăng chi phí bán hàng của doanh nghiệp. Phương án dự trữ phải được xác định đúng về:địa điểm, danh mục, khối lượng. Nên cố gắng thoả mãn tốt nhu cầu thời gian của khác hàng trên cơ sở giảm bớt chi phí dự trữ tối đa, tăng vòng quay của vốn (tối ưu hoá dự trữ).