Ngày xuân bàn về Minh Triết
Hoàng Ngọc Hiến Định nghĩa minh triết là gì? - việc này rất khó. Một câu nói hóm của một học giả: "Tìm cách định nghĩa minh triết, đó là bằng chứng của sự thiếu minh triết". Đại học tổng hợp Chicago (Hoa Kỳ) vừa đưa ra Dự án đề tài Định nghĩa Minh triết với kinh phí trợ cấp 2.000.000 ...
Hoàng Ngọc Hiến
Định nghĩa minh triết là gì? - việc này rất khó. Một câu nói hóm của một học giả: "Tìm cách định nghĩa minh triết, đó là bằng chứng của sự thiếu minh triết".
Đại học tổng hợp Chicago (Hoa Kỳ) vừa đưa ra Dự án đề tài Định nghĩa Minh triết với kinh phí trợ cấp 2.000.000 USD, học giả bất cứ nước nào đều có thể tham gia. Đây là nội dung tham luận trong buổi sinh hoạt học thuật đầu tiên của Trung tâm nghiên cứu Minh triết Việt được thành lập cuối quý II năm 2008...
Những biểu hiện của minh triết có tính chất tổng thể: là chân, là
mỹ, là thiện, là nhận thức, là hành vi và đạo đức, là kinh nghiệm sống
và lối sống... Không có tham vọng đưa ra một định nghĩa thấu đáo và đầy
đủ về minh triết, tôi thử đưa ra mấy nét đặc biệt của minh triết như là
nhận thức và lối sống:
- Minh triết gắn với nghiệm sinh
- Minh triết quan tâm đến sự cân bằng, hài hòa
- Minh triết thể hiện trong lối sống.
"Minh triết gắn với nghiệm sinh - Jerry Ortiz y Pino đã nêu đặc điểm này thành một yêu cầu tất yếu. - Minh triết không phải là cái gì đó bẩm sinh. Thông minh là bẩm sinh. Linh lợi là bẩm sinh. Năng động cũng vậy. Nhưng minh triết thì không. Nó chỉ đến từ sự sống, từ sự phạm sai lầm. - hoặc giả từ sự nghe những người khác đã phạm sai lầm và học hỏi được ở họ"... Yêu cầu này được tuyệt đối hóa trong một câu kinh Phật nổi tiếng: "Chớ có tin vào đức tin của những truyền thống, dù cho chúng đã được vinh danh lâu đời nhiều thế hệ và ở nhiều nơi. Chớ có tin vào một điều nào chỉ vì có nhiều người nói đến nó. Chớ có tin vào đức tin của những bậc hiền minh trong quá khứ. Chớ có tin vào những gì mà anh tưởng tượng rằng Thượng đế truyền gợi cho anh. Không tin gì hết nếu như chỉ có uy tín của những bậc thầy của anh hoặc của những nhà sư của anh. Sau khi xem xét hãy tin vào những gì chính anh đã thể nghiệm hoặc nhìn nhận là hợp lẽ, những gì phù hợp với phúc lợi của anh và của những người khác" (Siddârtha, Kâlâma sutta).
Bàn về cách tư duy của minh triết, nhiều học giả nói đến nhu cầu cân bằng. Robert Sternberg nói đến nhu cầu cân bằng giữa những lợi ích trong bản thân một cá nhân, giữa cá nhân này và cá nhân kia, giữa cá nhân và tập thể, cộng đồng: "giữa sự thích nghi với môi trường và sự cải tạo môi trường, sự lựa chọn những môi trường mới"... Joseph W. Meeker nói đến nhu cầu đồng bộ: "có ý thức về chỉnh thể nhưng không quên những cái cụ thể, những cái đặc biệt; bán cầu phải thống nhất với bán cầu trái cũng như tư duy logic thống nhất với tư duy thơ, ý thức về mình không lủng củng với ý thức về những người khác..." Từ nhu cầu cân bằng tự nhiên có nhu cầu hài hòa: cá nhân hài hòa với xã hội, với thế giới... Đương nhiên không thể quên sự hài hòa với bản thân mình mà biểu hiện quan trọng nhất là hài hòa giữa trí óc (mind) và tâm hồn (soul).
Aristote có phân biệt "minh triết lý thuyết" và "minh triết thực tiễn". Minh triết thực tiễn thể hiện ở chỗ biết "suy tính những gì là tốt, là thiết thực cho mình để có được một cuộc sống tốt, nói chung" (ở đây cần hiểu "cuộc sống tốt" một cách toàn diện: cả về vật chất và tinh thần, không chỉ có tư duy, ứng xử tốt mà ăn, ở, mặc cũng "tốt", không những tốt trong việc công mà tốt trong cuộc sống riêng, với gia đình, bạn bè và... với cả bản thân mình). "Cuộc sống tốt" được hiểu một cách toàn diện như vậy, thì cái đầu "minh triết" của Aristote quả là vĩ đại! Chỉ có "minh triết lý thuyết" thì người minh triết dễ biến thành một kẻ hão huyền, gàn dở, ba hoa, nhảm nhí. Trong tiếng Việt có một từ hết sức đích đáng để diễn đạt ý niệm "cuộc sống tốt" của Aristote, đó là từ "hẳn hoi". Với từ này chúng ta có thể tóm gọn "minh triết" trong một câu: "Minh triết là biết làm thế nào sống hẳn hoi".
"Hẳn hoi" không phải là một tiêu chuẩn quá cao: không phải thật giỏi mới hẳn hoi, không phải thật đàng hoàng, thật dũng cảm, thật "đạo cao, đức trọng" mới hẳn hoi. "Hẳn hoi" là một phẩm chất có thể đạt được trong mọi lĩnh vực, ở mọi bình diện.
Ăn mặc hẳn hoi, nhà cửa hẳn hoi, lời lẽ hẳn hoi, một người thầy hẳn hoi, một người cha hẳn hoi, một người lãnh đạo hẳn hoi, học vấn hẳn hoi, làm ăn hẳn hoi... Xã hội nào cũng có kỷ cương và lễ nghi, người hẳn hoi tiếp nhận tinh thần của kỷ cương và lễ nghi với/ do lòng tự trọng chứ không bị lệ thuộc một cách mù quáng vào những quy ước của kỷ cương và lễ nghi. Xã hội nào cũng có tôn ty trật tự, người hẳn hoi không gò mình vào trật tự này nhưng rất có ý thức về lẽ phải của thứ bực. Vài mươi năm trước đây với bộ phim nổi tiếng về người Hà Nội Trần Văn Thủy đã làm sống lại phẩm chất "tử tế" trong ý thức đạo đức của xã hội. Tuy nhiên, phẩm chất này dường như vẫn chưa được chính thức công nhận, đạo đức và hành vi được kiểm điểm theo nhiều chuẩn mực, trừ chuẩn mực "người tử tế". Phẩm chất "hẳn hoi: cũng có số phận tương tự. Một hiện tượng quan trọng trong đời sống tinh thần của nhân loại là những gì không được người ta nhớ đến thì dần dà sẽ biến mất. Xã hội không quan tâm đến "sự tử tế", "sự hẳn hoi" thì dần dà những người tử tế, hẳn hoi sẽ biến mất; ngược lại, xã hội còn nhớ đến những phẩm hạnh này, thì những người hẳn hoi, tử tế xuất đầu, lộ diện khắp nơi. Ở xã hội ta, chính họ (những người hẳn hoi, tử tế trong Đảng và ngoài Đảng) là nền tảng đạo đức của xã hội.
Sau khi định nghĩa minh triết bằng cách nêu lên những đặc trưng của minh triết, phân biệt nó với triết lý, xin cố gắng trình bày thật ngắn gọn một định nghĩa phổ thông về minh triết. Theo cách hiểu thông thường nhất, minh triết là khôn ngoan, nhưng khôn ngoan chưa phải là minh triết, chẳng hạn khôn ngoan để "ăn người" thì chưa phải minh triết. Minh triết là biết sống khôn ngoan và hẳn hoi, nói một cách khác sự khôn ngoan của minh triết thường gắn với những giá trị hướng thượng, hướng thiện. "Hẳn hoi" là một từ rất Việt (chúng tôi chưa tìm được ở những ngôn ngữ khác từ tương ứng).
Trong xã hội Việt Nam, ở mọi nơi mọi thời, người hẳn hoi bao giờ
cũng được nể trọng. Hẳn hoi có gốc rễ ở những đức tính phổ quát: đó là
sự hướng thiện, sự liêm chính, nhìn chung sự hẳn hoi của con người
không ở ngoài bốn chữ "cần, kiệm, liêm, chính" của Cụ Hồ. Sự hẳn hoi có
tính phổ quát, tính "liêm chính: ở người hẳn hoi thể hiện ở việc to và
việc nhỏ. Bị vu oan là "làm hư hỏng thanh niên", Socrate bị bức tử, sắp
sửa uống cốc "cần độc" thì sực nhớ có mua chịu một con gà. Phải nhờ một
người bạn trả tiền giùm cho mình - và đây là một trong những lời trăn
trối cuối cùng của ông: "Socrate là người hẳn hoi trong việc nhỏ. Cũng
như trong việc lớn". Được tin Socrate bị án bức tử, mấy người bạn của
ông lập mưu kế cho ông chạy trốn, nhưng nhà hiền triết đã từ chối, lấy
cớ bỏ trốn là chống lại pháp luật mà tín niệm công dân của ông là tôn
trọng luật pháp bằng mọi giá, Socrate đã coi trọng tư cách công dân hẳn
hoi của ông hơn cả tính mạng của ông. Có một sự việc, nhỏ
thôi, nhưng qua đó có thể thấy được sự hẳn hoi của Hồ Chí Minh. Họa sĩ
Dương Bích Liên được cấp trên điều động đến sống với Hồ Chủ tịch để vẽ
chân dung. Họa sĩ vẽ rất nhiều ký họa về Bác Hồ. Một vị lãnh đạo xem
những ký họa của Dương Bích Liên không hài lòng và quyết định đưa họa
sĩ trở về cơ quan chủ quản. Dương Bích Liên ra đi mà Hồ Chủ tịch không
hay, đến lúc biết việc ra đi đột ngột của họa sĩ, Bác liền cho người
đuổi theo và đưa họa sĩ trở về. Bác mời Dương Bích Liên dùng cơm thân
mật rồi sau đó hai bác cháu mới chia tay (thuật theo lời của Hào Hải,
một bạn vong niên gần gũi với Dương Bích Liên). Sự việc sau đây là một
sự kiện lớn. Sau Hiệp định Geneve, trong một chuyến
Hồ Chủ tịch đi thăm Ấn Độ, được phóng viên nước noài nêu một câu hỏi về
Ngô Đình Diệm, Người đã trả lời đại ý như sau; Tôi đến đây không phải
để nói xấu ông Ngô Đình Diệm, ông Ngô Đình Diệm yêu nước nhưng theo
cách của ông ấy… Trong cách trả lời phỏng vấn của Hồ Chủ tịch, có sự
khôn ngoan, nhưng nổi lên vẫn là sự hẳn hoi của một chính khách lớn.
Qua sự đối lập minh triết với triết lý một số đặc điểm của minh triết đã được xác định: không có lịch sử, gắn với nghiệm sinh, quan tâm đến sự cân bằng, hài hòa, thể hiện trong lối sống… Còn có một cách đối lập khác, đối lập minh triết với tri thức.
T. S. Eliot (1888-1965, giải thưởng Nobel 1948) có lời than vãn về tình
trang suy thoái của tri thức con người trong thế giới hiện đại (t.k.
XX): “… minh triết chúng ta mất rồi, chỉ còn lại tri thức, minh
triết ấy đâu rồi; tri thức chúng ta cũng mất rồi. Chỉ còn lại thông
tin, nhưng trí thức ấy đâu rồi?”… Minh triết cao hơn tri thức. Tri
thức chỉ là tri thức. Minh triết vượt siêu tri thức, gắn với những giá
trị tâm linh và nhân văn bằng cả trí tuệ và tâm hồn.
Platon,
Epicure, Epictete, Boece… là những triết gia lớn nhưng nhiều trích dẫn
trong tác phẩm của họ được đưa vào Kinh Thánh Minh triết, vì những tri
thức và tư tưởng của họ thực sự là minh triết, chúng được gắn với những
giá trị lớn không chỉ bằng trí tuệ mà bằng cả tâm hồn. Xét đến cùng, sự
phân biệt minh triết và triết học là hết sức tương đối.
Minh
triết do xu hướng cân bằng, hài hòa gắn với lương tri, gần với sự biết
điều. Lương tri giúp những thức giả kịp thời thoát khỏi sự cuốn hút của
những mê sảng lý thuyết. Sự biết điều giúp ta biết thế nào là “đủ”, đến
đâu thì “dừng lại”. Tuy nhiên, cũng không nên tuyệt đối hóa vai trò của
lương tri và sự biết điều. Minh triết cũng không hẳn là hoàn toàn đối
lập với sự “điên rồ” (“Vẫn có một góc điên rồ trong đầu óc của người minh triết nhất” – Aristote). Bậc hiền dầu sao cũng là một con người, mà người nào chả có một góc điên rồ trong đầu: “Kẻ sống không điên rồ đâu có minh triết như y tưởng” (Francois De La Rochefouauld); “Minh triết là điên tiết khi gặp hoàn cảnh đáng điên tiết” (Jean Cocteau); “Hãy trộn một chút điên rồ vào minh triết, quên minh triết đi đôi khi lại là hay” (Horace)… Tôi lấy câu trích dẫn sau cùng để kết luận mục này có bổ sung đôi chút: … quên minh triết đi, quên triết lý đi đôi khi lại là hay…
Không
thể khác được, nghiên cứu minh triết Việt Nam bắt đầu bằng sự tổng kiểm
kê và sưu tầm bổ sung những viên ngọc quý của minh triết Việt Nam hiện
đương rải rác khắp nơi. Chỉ có những viên ngọc quý trong ca dao tục ngữ
là được sưu tầm tương đối đầy đủ, tuy vậy chưa được nghiên cứu sâu sắc
ở “mặt cắt” minh triết, vả chăng vẫn còn sót ca dao tục ngữ của những
dân tộc anh em? Còn minh triết của Đạo Phật (trong tâm tưởng những tín
hữu Phật giáo xưa và nay), minh triết của Thiên chúa giáo (trong tâm
tưởng những tín hữu công giáo và đạo Tin lành Việt Nam), minh triết của
đạo Hồi (trong văn hóa và lối sống của người Chăm), minh triết của đạo
thờ tổ tiên… Nho giáo đã được nghiên cứu khá sâu nhưng chưa được chắt
lọc ở bình diện minh triết. “Đem đạo thánh hiền để quở trách thói đời không bằng đem đạo thường để cảm hóa lòng người”,
viên ngọc minh triết đáng quý này của nho gia Ngô Thời Sĩ rất tiếc là
không được mấy người Việt biết đến, những người hiện nay đương làm công
tác tư tưởng. Minh triết của Đạo giáo đã được những học giả nghiên cứu
khá sâu nhưng chưa được phổ cập. Một vấn đề nữa rất đáng được quan tâm
là: những viên ngọc quý trong văn hóa và lối sống các dân tộc anh em
hầu như chưa được khai thác và quảng bá.
Cuối cùng có một vốn
minh triết nữa rất quan trọng: đó là những suy nghĩ, những bài học minh
triết được rút ra từ hoạt động của những người hoạt động chính trị và
xã hội, những người làm công tác lãnh đạo, quản lý, những người hoạt
động tôn giáo – họ là những người bình thường trong sĩ, công, nông,
công, thương và từ những suy ngẫm những kinh nghiệm làm ăn, nghề
nghiệp, kinh doanh của họ có thể rút ra những viên ngọc minh triết quý.
Làm tốt công việc sưu tầm và tổng kiểm kê này, lần đầu tiên
chúng ta có thể hình dung được đầy đặn vốn minh triết phong phú và đa
dạng của dân tộc Việt Nam. Lịch sử tư tưởng Việt Nam, lịch sử văn hóa
Việt Nam có thêm một căn cứ tham chiếu. Đây là đóng góp về mặt học
thuật.
Công việc sưu tầm và tổng kiểm kê còn có tác dụng về mặt thực
tiễn. Đứng trước cái vốn tinh thần to lớn này, như soi vào một tấm
gương lớn và sáng, người theo đạo Phật cũng như người theo đạo Thiên
chúa, người Êđê cũng như người Tày, người Chăm cũng như người Thái… đều
thấy minh triết của mình trong đó, sự góp phần của họ vào cái vốn trí
tuệ và đạo đức chung của toàn dân tộc. Minh triết Việt Nam là một cơ sở
tinh thần quan trọng để thực hiện sự đoàn kết tôn giáo, sự đoàn kết các
dân tộc anh em, sự đoàn kết toàn dân sĩ, nông, công, thương trong cả
nước. Ngoài ra, vốn minh triết to lớn này mới có đủ sức mạnh để gây ở
chúng ta ý thức về minh triết. Ý thức này khiến
chúng ta nhạy cảm hơn với minh triết ở cuộc sống xung quanh ta và bản
thân ta. Một tác động quan trọng nâng cao sự tự giác trong đời sống
tinh thần.
Minh triết Việt Nam là một bộ phận của minh triết
nhân loại. Có thể tìm thấy ngay trong bản thân minh triết Việt Nam
nhiều vết tích vang vọng của minh triết những nền văn hóa, văn minh
khác. Người Việt không thể không tìm hiểu minh triết của những nền văn
hóa khác. Công việc này giúp chúng ta thấy được rõ hơn, tinh tế hơn bản
sắc minh triết, thấy được cái chung giữa ta và người. Cũng có thể xem
đây là một sự chuẩn bị tinh thần đi vào con đường hội nhập.