Nai Ngọc
Trên đỉnh một ngọn núi cao vùng Chư Bô Ða có một mỏm đá xanh giống hệt như hình một em bé kháu khỉnh, xinh xắn cưỡi trên một con voi. Mỏm đá đứng ở chỗ ấy tự bao giờ, không một ai biết cả. Chỉ biết từ trước, đời ông, đời cha, lâu lắm, mỏm đá ấy đã có rồi... Ở trên cao, những tia nắng vàng rất dịu, ...
Trên đỉnh một ngọn núi cao vùng Chư Bô Ða có một mỏm đá xanh giống hệt như hình một em bé kháu khỉnh, xinh xắn cưỡi trên một con voi. Mỏm đá đứng ở chỗ ấy tự bao giờ, không một ai biết cả. Chỉ biết từ trước, đời ông, đời cha, lâu lắm, mỏm đá ấy đã có rồi...
Ở trên cao, những tia nắng vàng rất dịu, những hạt mưa trong vắt, sáng như ngọc, thay nhau tắm gội cho mỏm đá. Và gió từ biển khơi phía đông, từ núi cao phía tây, rì rào nhè nhẹ thổi về, kể cho mỏm đá nghe thật nhiều chuyện lạ của những miền đất nước xa xăm. Chỉ có những con chim bay cao nhất, xa nhất, mới đặt chân được tới đây. Trước cảnh mây núi đẹp tuyệt vời, chim chớp mắt, nghiêng đầu nhìn ngắm. Rồi chim vươn cổ, cất giọng hay nhất của mình mà hát cho mỏm đá nghe những bài ca thần tiên, những điệu hát đẹp nhất, quý nhất của loài chim. Cứ thế, tháng này qua tháng khác, năm này qua năm khác, giọng nỉ non của gió, tiếng hát của chim, như từ từ quyện vào từng thớ đá, thấm sâu vào mỏm đá hình em nhỏ đỉnh núi cao.
Một buổi sáng, trời trong suốt, gió thoảng nhẹ, núi rừng trải rộng ra và im lặng. Mỏm đá hình người bỗng nhiên rùng mình nhẹ, khẽ cựa quậy, rồi từ từ biến thành một em bé bằng thịt bằng xương, xinh đẹp chưa từng thấy. Em bé đứng yên lặng, mở to mắt nhìn núi, nhìn mây, mỉm cười vui thích, rồi thong thả bước xuống núi.
Sáng hôm ấy, dưới chân núi, dân làng, từng toán, từng đoàn, vai mang gùi, tay cắp rổ, đang tấp nập suốt lúa, bẻ ngô.
Bỗng nhiên, từ phía rừng xa, nai, mang, công, trĩ, chim phí, lợn rừng, từng đàn kéo về đông nghịt.
Ðộng rừng rồi! Chưa năm nào động rừng dữ dội như năm ấy. Dân làng hoảng hốt cầm gậy chạy đuổi đằng đông, chạy dồn đằng tây, rướn cổ, gào thét đứt cả hơi để đuổi thú, đánh chim mà vẫn chẳng ăn thua gì. Mọi người lại ào vô rừng, hối hả dứt hàng vác mây song, về giăng chằng chịt, buộc bù nhìn, rồi gõ thanh la, khua mõ, nhưng vẫn vô hiệu. Cuối cùng, họ phải bỏ cả nương rẫy mùa màng, chạy như bay về làng, tìm lao, kiếm nỏ...
Vắng bóng người, chim lông vàng lông đỏ chắp cánh bay, xa trông như một đám mây ngũ sắc. Hươu sao, nai vàng, hàng đàn kéo thẳng tới, xông vào nương rẫy. Giữa lúc ấy, em bé từ trên núi cao cũng vừa xuống tới nơi. Thấy cảnh hỗn độn ấy, em bé đứng nhìn đám muông thú mà cười, vẫy tay đùa giỡn với chúng.
Thấy chuyện lạ, chim sà xuống bìa nương, ngẩng đầu lấm lét nhìn, hươu sao, nai vàng cũng lùi lại bãi tranh rộng, vẻ ngờ vực, mắt giương tròn lơ láo. Bỗng nhiên, em bé từ từ mở miệng, cất giọng hát. Tiếng hát của em vang khắp nương rẫy, núi rừng. Tiếng hát mới hay làm sao, lôi cuốn như hoa thơm quyến rũ ong vàng bướm trắng.
Nghe tiếng hát lạ lùng ấy, từng đàn chim công, chim sẻ, từng đàn hươu nai, lợn lòi..., tất cả đều quên lửng mất chuyện phá lúa. Chúng gật đầu, xòe cánh, đập đập móng... và bắt đầu nhảy múa nhịp nhàng. Tiếng hát khoan thai, chúng nhảy chậm, tiếng hát dồn dập chúng nhảy nhanh; tiếng hát dặt dìu, chúng lim dim mắt, gật đầu như người chếnh choáng hơi men.
Khi dân làng cầm lao và ná chạy ra đến nương, nghe tiếng hát, thấy cảnh ấy, mọi người đều sửng sốt, kinh lạ. Lũ muông thú vẫn cứ mê say nhảy múa, mãi cho đến khi nhận ra dân làng đang cầm lao, ná, ập tới, chúng mới giật mình đánh thót, đập cánh bay vù, chen nhau chạy đi mất.
Dân làng đành vây quanh em bé, mừng rỡ như gặp được tiên. Họ tranh nhau hỏi em bé từ đâu tới, học ở đâu mà có tiếng hát thần tiên như vậy. Nhưng em bé chỉ cười, dân làng lại hỏi em tên là gì, em cũng chỉ cười. Tiếng cười giòn giã làm rộn lòng dân làng, và nụ cười tươi tắn làm rạng rỡ khuôn mặt xinh xắn của em. Dân làng liền mời em bé về làng. Họ sửa soạn đốt lửa, dựng chòi (Ngày xưa ở Tây Nguyên, dân làng thường dựng chòi cho nghệ nhân đứng hát để tỏ lòng kính trọng, hâm mộ) cho em bé hát. Một cô gái xinh đẹp nhất làng thấy em bé đáng yêu quá, liền đặt tên cho em là . Nghe tên ấy, em gật đầu, rồi lại cười, dân làng cũng cười theo, vui thích vì đã chọn được một cái tên đẹp cho em bé đẹp kỳ lạ.
Tối hôm ấy, trăng sáng lắm, ngồi giữa dân làng cất tiếng ca. Em hát những bài anh hùng ca cho bà con nghe. Trăng lặn, sao mờ, nhưng không một ai chịu về ngủ cả. Họ ngồi như vậy cho tới lúc nắng vàng chiếu rọi trên nương.
Từ đó, sống chung với dân làng. Tiếng hát của em khiến mọi người làm việc không biết mệt mỏi, tiêu tan mọi sự buồn nản, khiến cho nương đầy lúa, rẫy đầy bông, rừng núi nở đầy hoa.
Nhưng một ngày kia, khi đang cùng dân làng làm việc trên nương, thì bỗng thấy bốn phương lửa cháy rừng rực rồi tiếng chiêng, tiếng trống rầm rập nổi lên, có những người đội khăn đỏ, ngồi trần trên lưng ngựa, phi như gió, vải đỏ của họ thắt chéo trước ngực, một tay họ cầm đuốc, một tay họ cầm ớt chín, cầm vòng đồng (Thời xưa, những người đi báo tin chiến tranh cầm đuốc và ớt tượng trưng cho sự khẩn cấp, cầm vòng tượng trưng cho lời kêu gọi đoàn kết). Ðoàn người ngựa phi như bay hết làng này sang làng khác. Lệnh truyền của Mơ Tao (Mơ Tao: Tù trưởng cai quản một miền) dân tộc vang khắp nơi:
- Bọn cướp tới. Ai thương mẹ, thương cha, hãy mau ra đánh!
Nghe tin, dân làng liền bỏ cả công việc, chạy ào về làng. Thanh niên trai tráng đều cầm chặt tên nỏ, giáo mác, sẵn sàng đi giúp Mơ Tao.
Hai bên giao chiến. mở to mắt nhìn cảnh ấy. Em từ từ lùi lại, trèo lên một mỏm núi. Và bỗng nhiên, có tiếng hát ngân nga, trầm bổng cất lên. Lúc đầu, tiếng hát còn chìm trong tiếng sắt thép chạm nhau. Nhưng dần dà, tiếng sắt thép lắng đi hết, nhường chỗ cho tiếng hát. Tiếng hát của kêu gọi chớ đi ăp cướp, hãy cùng với vợ con đi hái rau ngọt, rồi tối ngủ bên lửa ấm, sáng thức dậy theo mặt trời...
Nghe giọng hát phơi phới như gió mát, bọn cướp ngừng lại, đứng sững sờ như pho tượng, đứng đờ người ra, như nuốt lấy từng lời ca, vũ khí tuột khỏi tay, rơi xuống đất lúc nào không biết. Rồi từ từ, chúng ngã xuống, ngủ say như chết.
Mơ Tao hết lời khen ngợi , Mơ Tao thưởng cho một trăm con voi ngà vàng, một trăm chiếc chóe ba (Bình cổ bằng đất nung) thật quý và một trăm người hầu hạ. Nhưng chỉ cười và lắc đầu. Em lại cùng dân làng trở về nương rẫy, sớm chiều cất cao tiếng hát của mình cho bà con thân thích nghe.
Ðược vài ngày thì dân làng bỗng không thấy đâu nữa. Em đã đi khỏi làng, một mình theo đường cũ trở lên núi. Dân làng vội vã đổ đi tìm, nhưng không thấy. Họ chờ đợi từ lúc mặt trời mọc đến lúc mặt trời lặn, từ mùa xuân sang mùa hạ, từ năm này qua năm khác, nhưng vẫn không thấy trở về.
Dân làng bảo với nhau rằng, đã trở lên núi, biến thành đá như trước. Từ đó, tới mùa hoa tăng bi nở vàng, hoa tâm doan nở tím, hoa ê pang nở trắng, hoa guôn nở hồng (Tên các loại hoa đẹp hay nở bên suối, trên rẫy của nhân dân Tây Nguyên) các cô gái làng thường chỉ vào những loại hoa đó mà hát:
"Hoa rừng nở bên suối,
Những cánh hoa hình trái tim hồng.
Ðua nhau đua nở...
Ðể ca ngợi tiếng hát của thân yêu".
Mọi người đều tin rằng sẽ trở lại làm người, về với dân làng, cất tiếng hát kỳ diệu giữa cảnh núi rừng thanh bình, tươi đẹp.