Muốn có nền kinh tế mạnh, cần có nền khoa học công nghệ mạnh
Nền kinh tế của thế giới ngày nay phát triển theo 3 xu hướng: toàn cầu
hóa, môi trường hóa (bảo vệ môi trường và phát triển bền vững trở thành
đề tài trọng tâm của thế kỷ 21), và hiểu biết hóa. Trong nền kinh tế
này, vai trò của tri thức và khoa học công nghệ ngày càng quan trọng.
Những nước có sức cạnh tranh lớn nhất cũng chính là những nước mạnh
nhất về khoa học và công nghệ.
Nước Mỹ có nền khoa học mạnh nhất thế giới trong suốt thế kỷ qua, một
phần lớn chính là vì họ trả lương cao và tạo điều kiện làm việc tốt để
thu hút các nhà khoa học giỏi từ tất cả các nơi khác trên thế giới đến
Mỹ. Tất nhiên, người Mỹ không dại gì trả lương cao cho các nhà khoa
học, nếu như điều này không làm lợi cho họ. Họ càng đầu tư nhiều cho
khoa học, càng tạo điều kiện tốt cho các nhà khoa học, thì càng có lợi
về kinh tế. Các nước khác, từ châu Âu, châu Á cho đến Nam Mỹ, cũng đã
nhận thấy động lực này, và ngày nay đang cạnh tranh lại với Mỹ về lương
và điều kiện làm việc cho khoa học để thu hút chất xám.
Để đuổi kịp thế giới, Việt Nam cũng phải tuân theo những qui luật trên.
Tức là phải chú trọng phát triển khoa học công nghệ để lấy nó làm động
lực thúc đẩy phát triển kinh tế. Muốn phát triển khoa học, phải đầu tư,
tạo điều kiện làm việc tốt và trả lương xứng đáng cho khoa học. Muốn
đạt tầm quốc tế về khoa học, thì phải đầu tư thích đáng, tạo một môi
trường sống và làm việc tầm quốc tế cho khoa học.
Trong những năm vừa qua, Chính phủ Việt Nam đã có những cố gắng nhất
định trong việc phát triển khoa học. Ví dụ như chương trình “322” cấp
học bổng cho sinh viên đi học ở nước ngoài, việc thành lập “Quĩ nghiên
cứu khoa học cơ bản”, và quyết định của Thủ tướng về việc thành lập
trường Đại học quốc tế “Hanoi University of Sience and Technology”. Tuy
nhiên, việc phát triển khoa học ở Việt Nam còn gặp nhiều vướng mắc lớn.
Một trong những vướng mắc đó là vấn đề lương cho khoa học.
Lương cho khoa học đang quá thấp
|
Hiện
tại lương cho giới khoa học Việt Nam đang quá thấp. Hệ quả là khoa học
kém phát triển, lãng phí tiềm năng, và các viện nghiên cứu cũng như các
trường đại học rất khó khăn trong việc tuyển người có đủ trình độ vào
làm việc. |
Hiện tại lương cho giới khoa học Việt Nam đang
quá thấp. Hệ quả là khoa học kém phát triển, lãng phí tiềm năng, và các
viện nghiên cứu cũng như các trường đại học rất khó khăn trong việc
tuyển người có đủ trình độ vào làm việc.
Lương của các giáo sư hàng đầu có trình độ quốc tế ở Việt Nam, kể cả
phụ cấp, hiện tại chỉ được khoảng 500-700 USD một tháng, không bằng học
phí hằng tháng của một đứa trẻ học trường quốc tế ở Việt Nam. Với trình
độ tương đương, ở phần lớn các nước khác (kể cả các nước còn nghèo như
Brazil, Malaysia, Pakistan, v.v.) sẽ được 5-10 nghìn USD một tháng hoặc
cao hơn, gấp hơn 10 lần so với ở Việt Nam. Ở Senegal, một nước ở châu
Phi còn kém Việt Nam về nhiều mặt kể cả kinh tế lẫn khoa học, các giáo
sư (chưa đạt trình độ quốc tế) cũng được hơn 2000 USD một tháng, gấp
4-5 lần ở Việt Nam. Những sinh viên giỏi của Việt Nam có thể được nhận
làm nghiên cứu sinh ở phương Tây, với mức học bổng gần 2000 USD một
tháng, gấp 3 lần lương của giáo sư hàng đầu Việt Nam, là một hiện thực
tuy nghe rất vô lý.
Để thấy rõ chúng ta đang bị tụt hậu ra sao, có thể so sánh với Trung
Quốc. Việt Nam và Trung Quốc rất gần nhau, kể cả về địa lý, văn hóa, và
tổ chức xã hội. Nhưng trong những thập kỷ qua, họ luôn luôn phát triển
nhanh hơn Việt Nam. Các trường đại học lớn ở Trung Quốc hiện tại có thể
trả 10-20 nghìn USD một tháng cho một số nhà khoa học lớn của họ, gấp
mấy chục lần Việt Nam. Ngày nay, phần lớn các nhà khoa học Trung Quốc
có một cuộc sống vật chất đàng hoàng, không phải lo nghĩ về kinh tế, có
thể tập trung sức lực cho khoa học.
Nếu so sánh với các ngành khác ở Việt Nam, lương của giới khoa học cũng
rất thấp. Hiện tại, những người có trình độ cao ở Việt Nam trong các
lĩnh vực kinh tế khác nhau có thể đạt thu nhập vài nghìn USD một tháng
không quá khó khăn (một điều đáng mừng), trong khi các giáo sư đầu
ngành, là những người được coi là có trình độ cao vào loại bậc nhất đất
nước, lại có thu nhập dưới 1 nghìn USD (một điều đáng buồn). Lương của
giảng viên đại học trẻ mới ra trường, kể cả phụ cấp, chỉ khoảng 2 triệu
VND một tháng, trong khi nếu đi làm bên ngoài có thể được lương khởi
điểm gấp 2-3 lần như vậy.
Vì sao như vậy? Một lý do mấu chốt có lẽ là, tuy nền kinh tế Việt Nam
đã chuyển hướng sang cơ chế thị trường từ nhiều năm nay, lương của hệ
thống khoa học vẫn đang chịu “sự kìm kẹp” của chế độ quan liêu bao cấp
lạc hậu còn tồn đọng lại từ trước. Một số nước Đông Âu cũ, trong những
năm cuối thế kỷ trước, khi mới chuyển sang kinh tế thị trường, có mức
lương trả cho khoa học khá thấp (tương tự Việt Nam hiện tại), và đó
cũng chính là giai đoạn mà rất nhiều các nhà khoa học Đông Âu bỏ đi
nước ngoài làm việc, nhưng trong thập kỷ vừa qua họ đã tiến bộ rất
nhiều. Việt Nam cũng cần thay đổi như họ trong việc đối xử với khoa học.
Cần thực sự coi trọng khoa học
Cách đây không lâu, để phản đối kiến nghị tăng lương cho giáo sư ở Việt
Nam, một quan chức Chính phủ có nói “lương của các lãnh đạo cao cấp
nhất của Việt Nam chỉ quãng hơn 10 triệu VND một tháng, sao các giáo sư
lại đòi cao hơn?” Nói như vậy là chưa thực sự coi trọng khoa học. Các
lãnh đạo cao cấp của Việt Nam được hưởng những quyền lợi đặc biệt tính
ra giá trị kinh tế gấp nhiều lần tiền lương chính thức, nên thu nhập
thực của họ rất cao. Hơn nữa, một điều đã được khẳng định trên thế giới
là, giá trị và ảnh hưởng lâu dài của các nhà khoa học lớn không thua
kém gì các nhà chính trị lớn, hay các “đại gia” trong bất cứ một lĩnh
vực nào khác. Người được hậu thế bầu là “con người vĩ đại nhất của thế
kỷ 20” chính là nhà vật lý Einstein, đứng trên Ghandi và Roosevelt.
|
Nếu
chúng ta muốn có một nhà khoa học tầm cỡ giải thưởng Nobel trong tương
lai, tức là muốn người đó phải có các công trình khoa học có ảnh hưởng
rất lớn đối với thế giới (có thể đến hàng tỷ con người), nhưng đồng
thời lại chỉ muốn “đãi ngộ” người đó theo kiểu hiện tại, không chấp
nhận rằng người đó có thể có giá trị cao hơn một quan chức cao cấp
Chính phủ, thì là một chuyện không tưởng. |
Bởi vậy, việc qui định chặn trên mức lương của các nhà khoa học phải
thấp hơn các nhà chính trị là bất hợp lý. Trên thực tế, ở nhiều nước
lớn trên thế giới như Anh, Mỹ, không có chặn trên về mức lương cho giáo
sư, và các giáo sư lớn nhất có thể có lương cao hơn Thủ tướng hay Tổng
thống. Nước Hàn Quốc, vào thời điểm 1950 chỉ ngang bằng với Việt Nam
thời đó về kinh tế và khoa học, nhưng ngày nay đã đứng vào hàng các
nước phát triển, bỏ xa Việt Nam. Một trong những yếu tố giúp họ phát
triển nhanh là đầu tư thích đáng cho khoa học công nghệ, trả lương cho
một số giáo sư cao hơn lương Tổng thống từ cách đây hàng chục năm, và
chính Tổng thống Hàn Quốc thời đó là một trong những người ủng hộ nhiệt
tình nhất chuyện này. Việt Nam, nếu muốn phát triển khoa học, thì cần
học tập Hàn Quốc.
Đánh giá công suất lao động trong khoa học
Khi lương của người làm khoa học ở Việt Nam quá thấp so với thế giới và
so với các lĩnh vực kinh tế khác, thì có nghĩa là có ít nhất một trong
hai điều sau xảy ra, hoặc là cả hai: công suất lao động của họ quá thấp
(nếu như vậy có nghĩa là tiềm năng đang rất bị lãng phí, cần tìm các
biện pháp nâng cao công suất lao động), và lương của họ quá thấp so với
công suất lao động của họ (nếu như vậy cần tăng lương cho xứng đáng).
Một vấn đề quan trọng là đánh giá công suất lao động của người làm khoa
học ở Việt Nam, dựa vào đó đánh giá mức thu nhập hợp lý. Bởi vì, trong
một xã hội công bằng, “hưởng theo lao động”, lương phải tỷ lệ thuận với
công suất lao động.
Để hình dung một cách đơn giản, ta có thể dùng công thức tính xấp xỉ
sau: công suất lao động thô bằng khoảng 3 lần thu nhập thực. Ví dụ, một
người có công suất lao động 150 nghìn USD một năm, thì thu nhập thực
khoảng 50 nghìn USD một năm là “vừa phải”. Phần còn lại là để chi cho
tất cả các khoản như: quĩ lương hưu, bảo hiểm xã hội, phúc lợi công
cộng, chi phí quản lý, hao mòn, lợi nhuận doanh nghiệp, v.v. Theo công
thức này, công suất lao động trung bình của giới khoa học trên thế giới
hiện nay vào khoảng 200-300 nghìn USD một năm. Còn những nhà khoa học
hàng đầu thế giới (tầm cỡ giải thưởng Nobel) thì công suất lao động có
thể tính theo đơn vị triệu USD, hoặc thậm chí đơn vị tỷ USD đối với một
số người, khi mà các công trình của họ ảnh hưởng đến hàng tỷ con người.
Giá trị kinh tế của công việc đào tạo
Học phí phải tỷ lệ thuận với chênh lệch thu nhập giữa người có đi học
và người không đi học, vì nếu học phí quá cao thì việc đi học không còn
hấp dẫn về kinh tế, ngược lại nếu quá thấp, thì tức là thu học phí quá
ít, không đúng mức so với giá trị của việc đào tạo. Trên thế giới, học
phí cho giáo dục (không kể chi phí sinh hoạt) trung bình cho một sinh
viên là vào khoảng 20-30 nghìn USD một năm. Ở Việt Nam, đối với những
người có học đại học, ước tính trung bình có lương khoảng 5 nghìn USD
một năm, bằng hơn 1/10 so với người có trình độ đại học trên thế giới.
Khi đó ta có thể coi rằng, giá trị đào tạo của trường đại học ở Việt
Nam, tính trên một đầu sinh viên, cũng bằng 1/10 so với ở nước ngoài,
tức là bằng khoảng 2-3 nghìn USD một đầu sinh viên một năm. Lượng sinh
viên ở Việt Nam, tính trên đầu mỗi giảng viên đại học, đông gấp hơn 2
lần so với ở nước ngoài. Như vậy, công suất lao động trong đào tạo,
tính trên đầu giảng viên ở Việt Nam, lớn hơn 2/10 = 1/5 so với thế
giới. Nếu tính trung bình công suất lao động trong giảng dạy của một
giảng viên đại học trên thế giới là 125 nghìn USD một năm, ta được con
số ước lượng sau: Công suất lao động trung bình trong giảng dạy của một
giảng viên ở Việt Nam là hơn 25 nghìn USD một năm. |
Ở Việt Nam, các nhà khoa học bị mất quá nhiều thời gian cho giảng dạy
hoặc làm những công việc kiếm sống khác (do lương chính thức quá thấp),
nên thời gian dành cho nghiên cứu khoa học quá ít. Hệ quả là, số kết
quả nghiên cứu “vượt được ngưỡng” để đạt tầm quốc tế tính trên đầu
người còn rất ít. Theo một thống kê của GS Nguyễn Văn Tuấn, năm 2008 cả
nước Việt Nam ,với khoảng 15 nghìn tiến sĩ, chỉ có 910 bài báo khoa học
công bố quốc tế, tức là 16 tiến sĩ mới có được 1 bài báo công bố quốc
tế trong một năm, không bằng 1/10 thế giới, chưa kể chất lượng.
Việc xác định chính xác giá trị của một công trình khoa học là việc vô
cùng khó. Tuy nhiên có thể ước lượng giá trị kỳ vòng bằng một số phương
pháp thống kê, nhằm đo độ ảnh hưởng của công trình đó. Ví dụ trong
ngành toán, theo một cách tính ước lượng nội suy, giá trị kỳ vọng của
một công trình lý thuyết tỷ lệ thuận với hệ số ảnh hưởng của nó theo hệ
số 5 nghìn USD, trong đó hệ số ảnh hưởng là kỳ vọng về tổng số lần mà
công trình sẽ được giới khoa học quốc tế trích dẫn. Chẳng hạn, một bài
báo trong một tạp chí toán học hàng đầu thế giới “Inventiones” có hệ số
ảnh hưởng trung bình khoảng 60, thì giá trị trung bình của nó khoảng
300 nghìn USD. Trong khi đó, chỉ số ảnh hưởng trung bình của một bài
báo đăng trong tạp chí “Vietnam Journal of Mathematics” là dưới 1, tức
là giá trị trung bình của nó dưới 5 nghìn USD.
Các công trình của Việt Nam công bố quốc tế có ảnh hưởng trung bình
tương đối khiêm tốn. (Phần lớn là đăng trên các tạp chí trung bình, chứ
không phải các tạp chí uy tín nhất). Tạm coi là một công trình công bố
quốc tế của Việt Nam có giá trị trung bình gấp 4 lần một bài báo đăng
tạp chí “Vietnam Journal of Mathematics”, ta được con số ước lượng về
giá trị là 20 nghìn USD. Chia cho khoảng 16 người, ta được con số rất
khiêm tốn sau: giá trị trung bình của các công trình công bố quốc tế
của giới khoa học Việt Nam là trên 1 nghìn USD một năm (so với trung
bình trên 100 nghìn USD một năm của thế giới). Ở đây tôi chưa tính đến
các công trình có tính chất ứng dụng, theo đơn đặt hàng, không công bố
quốc tế.
Nếu tính cả ứng dụng vào, thì hiệu quả lao động trong nghiên cứu của
giới khoa học Việt Nam có lẽ vẫn rất thấp, chỉ khoảng vài nghìn USD một
năm. Đối với những người làm việc ở các viện nghiên cứu của Việt Nam,
con số này có lẽ lớn hơn, nhưng vẫn rất khiêm tốn so với thế giới.
Điều này chứng tỏ một sự lãng phí tiềm năng ghê gớm: một tiến sĩ ở nước
ngoài nghiên cứu ra kết quả giá trị trên 100 nghìn USD một năm, trong
khi tiến sĩ ở Việt Nam chỉ ra kết quả nghiên cứu 2-3 nghìn USD một
năm?! (Trong một mục sau, tôi sẽ bàn đến một số biện pháp nâng cao chất
lượng nghiên cứu, để giảm sự lãng phí này).
Ngoài công việc nghiên cứu, giới khoa học còn có công việc rất quan
trọng khác là đào tạo. Trên thế giới, có thể coi tỷ lệ trung bình giữa
nghiên cứu và đào tạo là 50/50, bằng 1/2 năng suất lao động là từ phần
đào tạo, và 1/2 từ phần nghiên cứu. Nếu tính năng suất lao động trung
bình của một nhà khoa học ở nước ngoài là 250 nghìn USD một năm, thì
phần nghiên cứu trung bình là 125 nghìn USD một năm. Ở Việt Nam đang
rất thiếu giảng viên đại học, và các giảng viên phải dạy rất nhiều, có
thể đến gấp 2-3 lần số giờ dạy học của các giảng viên ở nước ngoài.
Theo cách tính giá trị kinh tế của đào tạo (xem ở box) cho thấy công
suất lao động trung bình trong đào tạo của các giảng viên đại học hiện
tại vào cỡ 25 nghìn USD một năm. Nếu cộng với phần nghiên cứu, ta sẽ
được ước lượng là công suất lao động trung bình của một giảng viên đại
học ở Việt Nam vào cỡ 27 nghìn USD một năm. Điều đó có nghĩa là, lương
trung bình cho họ phải vào khoảng 9 nghìn USD một năm, hay 750 USD một
tháng, thay vì chỉ khoảng 2-300 USD như hiên nay, mới xứng đáng. Đó là
mức trung bình. Các giáo sư Việt Nam có công suất lao động bằng 2-3 lần
trung bình trở lên, và như vậy lương cho họ cũng phải 2 nghìn USD một
tháng trở lên mới là công bằng.
Kể cả khi một giáo sư trình độ quốc tế ở Việt Nam có công suất lao động
là 100 nghìn USD một năm, gấp 3 lần so với mức trung bình 30 nghìn USD
ước lượng phía trên (và một giáo sư như vậy phải được trả lương 3 nghìn
USD một tháng ở Việt Nam mới là công bằng), thì họ vẫn đang bị lãng phí
tiềm năng rất nhiều, bởi vẫn vị giáo sư đấy, nếu làm việc ở nước ngoài,
có thể đạt công suất lao động 200-300 nghìn USD một năm, cao gấp mấy
lần ở Việt Nam, và được hưởng lương cao gấp hơn chục lần ở Việt Nam.
Tất nhiên, giá cả sinh hoạt ở nước ngoài đắt hơn ở Việt Nam (ứng với
chất lượng hàng hóa và dịch vụ cũng cao hơn), nhưng kể cả sau khi đã
trừ đi chi phí sinh hoạt ở nước ngoài, họ vẫn có thể tiết kiệm được một
vài nghìn USD một tháng, gấp mấy lần lương ở Việt Nam.
Không chỉ các giáo sư trình độ quốc tế, mà nhiều người khác trong giới
khoa học ở Việt Nam, đặc biệt là các tiến sĩ trẻ nhiều tiềm năng, cũng
đang bị lãng phí hiệu quả lao động một cách tương tự.
Điều này dẫn tới những hệ quả như, khoa học phát triển chậm, rất ít
người Việt Nam làm khoa học ở nước ngoài muốn về nước làm việc tại thời
điểm hiện tại, và một số người có trình độ bỏ đi nước ngoài. Đặc biệt
là các nhà khoa học nước ngoài, thì hiếm ai muốn sống và làm việc ở
Việt Nam (họ chỉ đến thăm quan, giảng bài mấy hôm rồi về, chứ ít ai ở
lâu, trừ khi là họ nhận lương của nước ngoài nhưng làm tại Việt Nam).
Nói tóm lại, có hai vấn đề về công suất lao động:
- Năng suất lao động trung bình trong giới khoa học ở Việt Nam là vào
khoảng 27 nghìn USD một năm, và với công suất lao động như vậy, họ phải
được thu nhập trung bình khoảng 750 USD một tháng (thay vì chỉ 2-300
USD như hiện tại) mới xứng đáng. Các giáo sư trình độ quốc tế phải được
hưởng lương trên 2-3000 USD một tháng mới xứng đáng với công suất lao
động hiện tại của họ.
- Giới khoa học Việt Nam đang lãng phí rất nhiều về tiềm năng hiệu quả
lao động, đặc biệt là trong lĩnh vực nghiên cứu, và cần có các biện
pháp để tăng hiệu quả làm việc, giảm sự lãng phí đó.
Vấn đề học phí
Hiện tại, các trường đại học lớn ở Việt Nam chỉ khoảng 5 triệu VND một
năm trên mỗi đầu sinh viên, (tiền thu học phí cộng với tiền Nhà nước
rót), thấp hơn hẳn con số ước lượng về giá trị đào tạo của trường phía
trên (khoảng 40-50 triệu VND một năm). Tất nhiên, với mức thu như vậy,
nhà trường không có tiền để trả lương xứng đáng cho giảng viên và cho
các giờ dạy, và đó là một lý do lớn vì sao thu nhập của giảng viên quá
thấp (nếu không “xoay sở” thêm, nhưng nếu xoay sở thêm, thì chất lượng
của công việc chính thức bị ảnh hưởng). Một giờ dạy đại học ở Việt Nam
hiện nay chỉ được trả 50 nghìn VND, chưa đến 3 USD, trong khi theo ước
lượng về công suất lao động, phải được trả trung bình khoảng 10 USD mới
hợp lý (so với trung bình 50-100 USD ở nước ngoài). Một điều nổi cộm
lên là: Chúng ta cần cải cách một cách cơ bản chính sách về học phí,
cho thể hiện đúng hơn chi phí đào tạo, giá trị đào tạo của các trường,
và công suất lao động của giảng viên.
Mục tiêu là các trường đại học lớn cần thu được ít ra 30 triệu VND một
năm trên mỗi đầu sinh viên. Nhưng hầu hết sinh viên của Việt Nam xuất
thân từ gia đình nghèo, không có khả năng trả mức học phí như vậy. Nếu
Nhà nước phải gánh phần lớn số đó, thì cũng là gánh nặng không kham nổi
ở thời điểm hiện tại (1 triệu sinh viên, chỉ cần thêm 1 nghìn USD học
phí 1 năm, cũng đã thành 1 tỷ USD, trong khi tổng ngân sách Nhà nước
chỉ vài chục tỷ USD).
Giải pháp ở đây, như Phó Thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân đã từng đề cập, là
phải tính học phí phản ánh thực sự chi phí học tập (hay là giá trị của
đào tạo, trung bình quãng 40 triệu VND một năm một sinh viên).
Trong hầu hết các trường hợp, thì không cho, nhưng mà cho vay.
Vì sao phải tính học phí phản ánh đúng giá trị của đào tạo? Vì nếu
không thì là bất công cho hệ thống đại học, bất công cho các giảng
viên, không được tính công suất lao động và hưởng lương đúng đắn. Và
như vậy thì cũng khó thu hút người vào ngành đại học trong khi đang rất
thiếu giảng viên, hệ thống đại học khó phát triển về chất để đuổi kịp
thế giới nếu không được tính toán “sòng phẳng”.
Mức tính 40 triệu VND một năm có hợp lý không? Mức này chỉ bằng 1/10 so
với thế giới. Khi mà những người tốt nghiệp đại học ở Việt Nam có thu
nhập bằng 1/10 so với ở thế giới, và có thể coi là hiệu quả đào tạo ở
Việt Nam bằng 1/10 ở thế giới, thì mức tính như vậy hoàn toàn hợp lý.
Ai trả 40 triệu VND/ năm đó? Nhà nước chỉ có thể trả một phần, chủ yếu
là sinh viên sẽ phải trả phần lớn, trừ những ai có học bổng. Các doanh
nghiệp có thể tài trợ học phí trực tiếp cho những sinh viên mà họ muốn
tuyển việc. Đồng thời, Nhà nước cũng có thể đánh thuế các doanh nghiệp
(là những nơi sẽ tuyển các sinh viên này vào làm việc) để lấy tiền trả
một phần học phí này.
Sinh viên lấy đâu ra tiền mà trả? Không bắt họ trả ngay, nhưng Nhà nước
làm hợp đồng cho họ vay, đến khi ra trường đi làm trả dần, theo mô hình
của một số nước khác. Thế đối với những người không tốt nghiệp hoặc sau
khi tốt nghiệp không có việc làm, không trả được, thì sao? Các khoản nợ
đi kèm bảo hiểm, để trong những tình huống xấu có thể xóa nợ. Tất
nhiên, cũng chỉ nên cho những sinh viên có học lực ở mức nào đó vay, để
giảm rủi ro. Những ai học quá kém, mà vẫn đòi đi học, thì có thể bỏ
tiền túi ra mà đi học.
Theo tôi, đây là một giải pháp tốt, giúp cho các đại học phát triển, và
khiến cho sinh viên có ý thức hơn về chi phí của việc học tập.
Ở Pháp, hầu hết các sinh viên đi học không phải đóng học phí. Tất
nhiên, vì nước Pháp khá giàu, Chính phủ có ngân sách lớn (và thu thuế
của dân cũng rất cao) nên mới làm được như vậy. Ở Việt Nam Chính phủ
hiện không có tiền để làm vậy. Mà tiền của Chính phủ thì cuối cùng cũng
là tiền của dân. Hệ thống bao cấp giáo dục đại học ở Pháp có những điểm
hay, nhưng cũng có những điểm dở (như quan liêu, khó cải tiến, dễ bị
lạm dụng), và không thích hợp với Việt Nam trong điều kiện hiện tại.
Chính phủ nên bao cấp học phí cho giáo dục phổ thông càng nhiều càng
tốt, để đảm bảo trẻ em nào cũng được đến trường. Bởi vì học phổ thông
là học để trở thành công dân, đi học phổ thông không những là quyền
lợi, mà còn là nghĩa vụ. Ở Nhật ngày xưa, người ta thậm chí còn cho trẻ
em uống sữa miễn phí ở trường, để đảm bảo sức khỏe của các công dân
Nhật sau này. Đại học hoàn toàn khác. Học đại học không phải là nghĩa
vụ, chỉ là quyền lợi, một hình thức đầu tư để đạt trình độ và thu nhập
cao hơn về sau. Những ai muốn hưởng quyền lợi đó, thì phải trả chi phí
cho nó, là công bằng. Tất nhiên, đối với các sinh viên giỏi, lực lượng
trí tuệ ưu tú của đất nước, thì cấp học bổng cho họ, tạo điều kiện học
tập tốt nhất cho họ cũng là hợp lý, vì về sau họ sẽ đóng góp được cho
đất nước lớn hơn nhiều lần số học bổng đó.
Nâng cao chất lượng đào tạo và nghiên cứu
Các sản phẩm đào tạo và nghiên cứu là các sản phẩm trí tuệ. Đối với các
sản phẩm trí tuệ, thì giá trị có thể thay đổi rất lớn, tùy theo chất
lượng. Cùng là kỹ sư ra trường, nhưng kỹ sư này có thể có công suất lao
động gấp 10 lần kỹ sư khác nếu được đào tạo tốt hơn. Cùng là công trình
khoa học, công trình này có thể có giá trị gấp hàng trăm lần hay thậm
chí hàng nghìn lần công trình khác. Trong nhiều lĩnh vực khác cũng vậy.
Ví dụ như, cùng là tranh nghệ thuật, nhưng có những bức được mua với
giá hàng chục triệu USD, còn những bức khác có khi 1 nghìn USD cũng
không ai mua.
Chất lượng trong nghiên cứu khoa học của Việt Nam còn thấp, và đó chính
là lý do vì sao hiệu quả lao động trong nghiên cứu thấp. Muốn nâng chất
lượng nghiên cứu, thì trước hết phải thực sự coi trọng chất lượng, có
những biện pháp để đánh giá phân biệt chất lượng, và những chính sách
đãi ngộ tương xứng với chất lượng.
Những chính sách bình quân chủ nghĩa, coi hay dở cái nào cũng như nhau,
làm tốt làm tồi ai cũng được hưởng như nhau, là chính sách không công
bằng, và rất tai hại, vì nó khiến cho người ta không muốn làm tốt lên
(mất công mà không được hưởng gì hơn kẻ làm tồi), và kết quả là kéo
nhau xuống thành ai cũng làm tồi. Bởi vậy chúng ta cần tránh và loại bỏ
những chính sách kiểu như vậy.
Một ví dụ về bình quân chủ nghĩa là việc tính điểm công trình khoa học
khi xét phong học vị giáo sư. Chỉ “đếm bài ăn tiền” mà không tính đến
chất lượng. Theo cách tính như hiện tại, người nào mà “chỉ có” 3 bài
bào đăng ở “Annals of Mathematics” thì không đủ tiêu chuẩn thành giáo
sư Việt Nam, trong khi thừa sức trở thành giáo sư ở nước ngoài, và
ngược lại nếu viết một đống thứ “vớ vẩn” đăng “báo vườn” không ai đọc
thì thừa tiêu chuẩn giáo sư ở Việt Nam, trong khi ở nước ngoài mà làm
vậy thì không nơi nào muốn tuyển việc. Đợt cải cách về qui định phong
học vị giáo sư gần đây nhất đã có chuyển biến theo hướng tích cực về
chất lượng (tăng điểm lên cho các công trình công bố quốc tế), nhưng
vẫn còn mang nặng tính hình thức và bình quân chủ nghĩa.
Cùng mang danh giáo sư, nhưng cũng có nhiều loại giáo sư. Có người có
trình độ quốc tế, nhiều công bố quốc tế chất lượng cao, hiệu quả lao
động không kém gì giáo sư nước ngoài. Những người như vậy phải được
hưởng lương rất cao. Trong khi có những giáo sư chỉ “tầm cỡ Việt Nam”
thôi, không có những công trình tầm cỡ quốc tế, thì cũng chỉ cần trả
lương vừa phải thôi. Ở Trung Quốc người ta cũng làm như vậy.
Làm sao để tạo chế độ đãi ngộ “đặc biệt” cho những người có chất lượng
cao và hiệu quả làm việc cao? Trên thế giới người ta đã áp dụng nhiều
phương pháp khác nhau, mà Việt Nam có thể học tập. Đơn cử một số ví dụ:
- Tuy cùng là đại học công, nhưng các trường đại học khác nhau có thể
trả lương khác nhau. Muốn thế, tất nhiên, các trường cần có tự chủ về
tài chính. Trường nào có uy tín hơn, giá trị đào tạo và nghiên cứu cao
hơn, thì cũng có thể trả lương cao hơn cho giáo sư của mình.
- Lập ra những đại học mới, chất lượng cao ngay từ đầu, với tổ chức
quản lý hiện đại ngay từ đầu, chỉ tuyển người có trình độ quốc tế, và
trả lương cũng tương xứng tầm quốc tế. Trường “Hanoi University of
Science and Technology” mới được quyết định thành lập, hy vọng sẽ đi
theo hướng đó.
- Lập ra các “ghế” đặc biệt ở các đại học, với các mức lương đặc biệt,
tuyển những người xuất sắc vào các ghế đó. Ở nhiều nước có các “ghế”
như vậy. Ở Pháp hiện nay người ta cũng đang muốn lập ra các ghế như vậy
trong các đại học.
- Trả “tiền thưởng” trực tiếp và xứng đáng cho các kết quả nghiên cứu
khoa học. Theo tôi hiểu, hiện nay ở Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam
đã có thưởng tiền cho các công trình công bố quốc tế, nhưng ở mức tượng
trưng (1-200 USD một công trình), hoàn toàn không phản ảnh giá trị của
công trình và công lao của người làm ra nó (nếu là công trình chất
lượng tốt, thì giá trị ít ra hàng chục nghìn USD). Để cho việc thưởng
này thực sự đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy nâng cao chất
lượng, cần thưởng ở mức cao hơn nhiều, và phân biệt hơn nhiều giữa các
mức công trình. Chẳng hạn trong toán, nếu ai đó đăng được một bài ở tạp
chí “Journal of AMS” (một trong 5 tạp chí hàng đầu thế giới), thì
thưởng 10 nghìn USD cho bài báo đó cũng không có gì là quá đáng. Cần
phải có quĩ thưởng lớn.
- Cần triệt để ngăn chặn khoa học rởm, hàng rởm trong khoa học, vì nếu
không thì sẽ gánh chịu hậu quả của việc “hàng rởm bóp chết hàng thật”.
Một ví dụ về hàng rởm nổi tiếng thế giới là nhân vật Elena Ceausescu
của Rumani. Bà này không học hết lớp 4, nhưng đi lên theo con đường
chính trị, rồi nhờ thế lực mà kiếm bằng tiến sĩ về hóa, rồi thành viện
sĩ, Chủ tịch Ủy ban khoa học của Rumani, rồi được gắn cho hơn 100 danh
hiệu tiến sĩ hay giáo sư hay viện sĩ danh dự của khắp các nơi trên thế
giới. Các “công trình khoa học vĩ đại” của bà ta tất nhiên đều do người
khác viết. Những nhà khoa học chân chính của Rumani lên tiếng về bà ta
có thể bị bỏ tù. Đỉnh cao của bà ta là làm chức Phó Thủ tưởng thứ nhất
của Rumani, nhưng kết cục là bà ta bị xử tử hình vào cuối năm 1989.
Tự chủ tài chính, không có nghĩa là tư nhân hóa
Như một ý tôi viết phía trên, các trường đại học cần có quyền tự chủ
cao, đặc biệt là về tài chính. Có như vậy họ mới đánh giá được đúng mức
giá trị đào tạo và nghiên cứu của họ, trả thù lao đúng mức cho nhân
viên của họ, hướng tới chất lượng cao hơn. Có tự chủ, mới có cạnh tranh
mạnh giữa các trường, và việc cạnh tranh này khiến ai cũng phải làm tốt
lên, và như vậy thì có lợi cho xã hội.
Thế nhưng, tự chủ tài chính không có nghĩa là tư nhân hóa, theo ý tưởng
một số người đưa ra. Hiện nay, Việt Nam đã có rất nhiều đại học tư, tỷ
lệ có khi cao hơn nhiều so với nước ngoài. Phần lớn đại học tư ở Việt
Nam là doanh nghiệp cổ phần vì lợi nhuận. Các đại học tư vì lợi nhuận
đóng một vai trò nhất định trong nền kinh tế. Nhưng không phải vô cớ mà
các trường đại học uy tín nhất trên thế giới, dù là công hay tư, đều là
các trường phi lợi nhuận. Những trường đại học tư lớn nhất ở Mỹ, là do
các triệu phú hảo tâm lập ra, bỏ tiền túi của mình xây dựng, để đem lại
đóng góp và gây ảnh hưởng đến xã hội, chứ không phải là nhằm kiếm tiền
từ đó. Các trường đó chỉ “tư” theo nghĩa tự chủ tài chính và có tính
độc lập rất cao, chứ mục đích hoạt động của chúng cũng gần như các đại
học công. Và bên cạnh các trường đại học tư lớn, nước Mỹ cũng có hệ
thống đại học công rất lớn, với nhiều đại học công đứng hàng đầu thế
giới, ví dụ như Đại học California Berkeley.
Nếu đem các đại học công lớn của Việt Nam ra tư hữu hóa, thì sẽ là một
sai lầm lớn không sửa lại được, vì khi đó, thay vì múc đích là đem lại
lợi ích cho xã hội, nó sẽ chuyển thành chủ yếu đem lại lợi ích cho một
số tư nhân. Các đại học công Việt Nam, dù có rất nhiều vấn đề vướng
mắc, vẫn là những tài sản công rất lớn của đất nước. Nếu tư hữu hóa, sẽ
có nguy cơ tài sản công chuyển vào túi của tư nhân, tức là làm cho một
số tư nhân giàu lên bằng cách chiếm đoạt hợp pháp tài sản công.
Đẩy mạnh nghiên cứu ứng dụng
Các nghiên cứu khoa học có thể phân thành lý thuyết và ứng dụng. Các kế
quả lý thuyết thường thuộc phạm vi “công”, tức là sau khi công bố, ai
cũng có quyền dùng mà không phải thuê hoặc mua bản quyền. Vì nó là của
công, nên người trả tiền cho nó cũng phải là các tổ chức vì lợi ích
công, ví dụ như các Nhà nước hay các tổ chức phi lợi nhuận, v.v. Cũng
vì nó là của công, nên người trả tiền cho nó thường chỉ phải trả giá
thành (chi phí làm ra) chứ không phải trả theo giá trị (có thể lớn hơn
nhiều lần giá thành). Các nghiên cứu ứng dụng hoạt động theo mô hình
kinh tế