Bản sắc và con người là nền tảng của thành trì giữ nước
"Chúng ta giữ nước bằng tất cả những gì mình có, từ địa hình đến khí hậu nhưng quan trọng nhất là người dân", Nhà nghiên cứu lịch sử Dương Trung Quốc chia sẻ. - Thưa ông, "trọng dân" đã trở thành tư tưởng gắn liền với sự thịnh suy của các chế độ ...
"Chúng ta giữ nước bằng tất cả những gì mình có, từ địa hình đến khí hậu nhưng quan trọng nhất là người dân", Nhà nghiên cứu lịch sử Dương Trung Quốc chia sẻ.
- Thưa ông, "trọng dân" đã trở thành tư tưởng gắn liền với sự thịnh suy của các chế độ phong kiến. Vậy trong lịch sử Việt Nam, tư tưởng này có đặc sắc gì? - Nhà nghiên cứu Dương Trung Quốc:
Đứng về góc độ triết lý mà nói không có nhà nước nào không trọng dân
cả. Nhưng mỗi thời kỳ có một dấu ấn có thể là hệ tư tưởng, hệ triết
học… Cho nên nếu chúng ta thấy phân tích từ thời Lý Trần trở về trước
mặc dù chúng ta có rất ít tư liệu nhưng có thể thấy là họ rất gần gũi
với dân theo quan niệm hiện đại. Khi đó chúng ta chưa bị ảnh hưởng bởi
triết lý cai trị của người phương Bắc dù đã bị người phương Bắc cai trị
hàng ngàn năm. Nhưng sự cai trị ấy tạo ra phản ứng rất tự nhiên là
người ta không tiếp thu. Sau này nhà Lê khác vì nhà Lê có cả một bề dày
của tự chủ thì nó mới cảm nhận sự vươn lên để tiếp thu tư tưởng mà nó
cho là tiên tiến hơn.
Có một phần nào khi ta phân
tích ở đây ta cứ phân tích là dập khuôn của Trung Quốc. Tuy nhiên dập
khuôn này có ý thức là gì? Trung Quốc có cái gì chúng ta cũng có cái
đó. Chúng ta không thua kém họ. Trung Quốc có hoàng đế chúng ta cũng có
hoàng đế, Trung Quốc có triều chính như thế nào chúng ta cũng có triều
chính như thế. Thậm chí trong lịch sử họ có "dịch bào thế tướng" chúng
ta cũng có "dịch bào thế tướng" là ông Lê Lai cứu chúa. Cái thứ hai là
thời Lý Trần chúng ta tiếp thu tư tưởng Phật giáo. Mà tư tưởng Phật
giáo rất gần với đời thường. Nó bỏ rất nhiều lễ nghi, nghi thức mà tạo
ra được con người có tâm tính gắn bó với cộng đồng. Những ông vua theo
Phật giáo, thậm chí nhiều triều đại trở thành quốc đạo, đương nhiên
cũng hành xử như thế thì nó tạo ra được phương vị. - Vậy bắt nguồn từ quan hệ với nhân dân, yếu tố nào trong tổ chức xã hội Việt Nam truyền thống là cốt lõi để gìn giữ bản sắc dân tộc và liên kết người dân? - Nhà nghiên cứu Dương Trung Quốc: Theo tôi, yếu tố quan trọng nhất mang tính chất lâu bền nhất chính là làng xã Việt Nam. Mà ở đây có thể nói làng xã Việt Nam tồn tại lâu bền như vậy bắt nguồn từ một lựa chọn của người Việt Nam
khi anh phải tồn tại bên cạnh nước Trung Hoa khổng lồ vừa là một nền
văn minh rất lớn vừa là một thế lực bành trướng rất mạnh. Nếu không anh
sẽ rơi vào số phận như một nghìn năm đô hộ hoặc những quốc gia bị đồng
hóa. Thì anh phải lựa chọn một lối sống, một phương thức sống thích hợp
nhất. Nếu đọc văn kiện lịch sử thì thấy trong biểu tấu dâng châu của
thiên tử cũng đầy đủ thủ tục của một thuộc quốc, một chư hầu. Nhưng
trong lịch sử chưa có một ông vua Việt Nam nào bước qua Trung Quốc trong khi các quốc gia chư hầu khác coi đó là chuyện bình thường. Bài học từ nghìn năm Bắc thuộc
là người phương Bắc có thể cai trị một quốc gia nhưng không thể thâm
nhập vào tế bào làng xã Việt Nam.
Vì thế các triều đại sau này luôn luôn quan tâm đến việc giữ gìn làng
xã. Anh giữ tính tự chủ của làng xã tức là phương hại đến tính tập
quyền của nhà nước trung ương nhưng vẫn chấp nhận. Nhà nước đúng như
Marx nói là chỉ đóng vai trò của lợi ích công cộng thôi. Thế nên ở Việt Nam
lịch sử rất ít nói về việc xây thành đắp lũy. Trồng lúa đắp đê là ưu
tiên đầu tiên và sau đó là những công trình dân dụng mà chủ yếu là đình
chùa, tứ trấn lấy sức mạnh về tinh thần, sức mạnh về tâm linh chứ không
phải thành cao hào sâu. Và trong lịch sử chúng ta thấy là không bao giờ
chúng ta giữ thành cả. Giặc đến là chúng ta bỏ thành đi. Ba lần giặc
Nguyên Mông đến là vua Trần về quê tập hợp lực lượng từ sức mạnh làng
xã. Trong lịch sử chỉ có hai bài
học lớn. Đi sai truyền thống là thất bại. Như Hồ Quý Ly từ bỏ Thăng
Long và định xây một Đông Đô rất hoành tráng, lực lượng Quân đội chính
quy hùng mạnh. Ông chưa kịp làm xong thì ông đã chết, mất cả triều đại
mất cả nước. Rồi cụ Nguyễn Tri Phương và cụ Hoàng Diệu rất anh hùng
nhưng giữ thành thì không giữ nổi. Pháp đến đánh là tuẫn tiết. Như thế
có nghĩa là gì? Là sức mạnh của toàn bộ lực lượng nằm ở làng xã. Những
làng xã không chỉ là những pháo đài mà quan trọng hơn nó là vỏ bọc, là
mạng lưới để giữ gìn bản sắc văn hóa. - Trong tổ chức và quan hệ của làng xã, tư tưởng trọng dân đã được thể hiện như thế nào? - Nhà nghiên cứu Dương Trung Quốc:
Quan sát kỹ cơ cấu làng xã ngay cả chợ cũng không bao giờ để ở trung
tâm. Một công trình dịch vụ để ở trung tâm là lợi nhất nhưng lại để ở
rìa làng để sự giao lưu ấy anh có thể chắt lọc, có thể chọn lựa và loại
bỏ được những yếu tố phương hại đến văn hóa. Chính sự bền vững ấy nó
giúp cho Việt Nam
tồn tại được bên cạnh Trung Hoa. Chúng ta giữ nước bằng tất cả những gì
mình có, từ địa hình đến khí hậu nhưng quan trọng nhất là người dân.
Cho nên người dân có vai trò hết sức quan trọng vì người dân không bị
ràng buộc nhiều với nhà nước cho dù đó là thần dân. Tất cả quan hệ của nhà nước
với trung ương, với làng xã đó là gì? Một là lý trưởng mà lý trưởng là
dân bầu theo tập quán. Lý trưởng được nhà nước công nhận và là người
duy nhất có quan hệ với nhà nước. Dấu ấn của nhà nước với địa phương
đặc biệt chỉ là tấm sắc phong thành hoàng làng do vua phong. Đây là
quyền lực nhà nước thể hiện sự công nhận mối liên hệ và sự thần phục
một triều đình của làng xã. Còn đối với người dân ông vua chỉ là một
khái niệm. Qua đó chúng ta thấy rất rõ khái niệm trọng dân. Đó là
phương thức tốt nhất để bảo tồn và gìn giữ bản sắc riêng về văn hóa. Mà
bản sắc riêng về văn hóa chính là một sức mạnh trong việc giữ gìn nền
tự chủ. Còn sức mạnh quân sự chỉ là một thời kỳ nào đó thôi. Còn các
quốc gia phong kiến khác thì cơ cấu làng xã khác nhiều, quyền lực nhà
nước trực tiếp hơn. - Giờ đây trong thế giới hiện đại tất yếu làng xã Việt Nam cũng buộc phải thay đổi. Vậy mối liên kết của những con người trong làng xã cần dựa trên cơ sở nào? - Nhà nghiên cứu Dương Trung Quốc:
Con người không chỉ có những lợi ích vật chất mà còn có những lợi ích
về mặt tinh thần, có những lợi ích liên quan đến bản sắc văn hóa, liên
quan đến truyền thống lịch sử dân tộc. Cách đây mấy hôm tôi lên Mường
Tè. Ở đấy có một cộng đồng người dân tộc La Hủ có 6.000 dân. Chúng tôi
lên đấy làm một việc nhỏ thôi là tặng bà con con bê. Nhưng nếu đưa bà
con con bê thì bà con chỉ ngả ra mà ăn thôi. Thế nên cuối cùng là anh
em Biên phòng phải cùng bà con nuôi con bê, hướng dẫn họ nuôi bê để nó
thành con bò rồi đẻ ra thành đàn. Sau đó mới chia cho bà con tự nuôi,
sinh lãi rồi tìm nguồn ra, tức là dạy họ tự nuôi sống. Khi anh tạo ra
được một lối sống cho người ta thì người ta gắn bó với anh. Nếu anh
mang cơm mang gạo đến cho họ chưa chắc họ đã gắn bó với anh nếu nơi
khác mang đến gói cơm to hơn gạo ngon hơn. Khi lối sống đó thành một
văn hóa thì họ gắn bó với mảnh đất của mình, với những con người đồng
cam cộng khổ với họ. - Ngày trước những
người dân trong làng không bao giờ đi quá khỏi lũy tre. Người ta nói
giữ làng, giữ nước. Tuy nhiên giờ đây người dân cần có một ý thức lớn
hơn về không gian sống của mình? - Nhà nghiên cứu Dương Trung Quốc:
Cũng như với biển đảo, chúng ta phải để toàn bộ người dân hiểu được thế
nào là biên giới, thế nào là hải đảo. Nếu chúng ta lên biên giới không
chỉ là đóng góp mà còn là hiểu về biên giới. Điều đó là cực kỳ quan
trọng. Như giới trẻ liệu có biết thế nào là sóng gió, là khơi xa hay
biết nhìn Tổ quốc từ phía biển nhìn vào? Vinashin có thể vận hành không
tốt khi làm con tàu Bắc Nam
nhưng chủ trương là rất đúng. Thiết lập tuyến đường biển không chỉ là
giải quyết vấn đề giao thông vận tải mà còn là thiết lập ý thức con
người về một quốc gia biển. Chúng ta chưa quan tâm đúng mức trong việc
giáo dục tư duy về lãnh thổ quốc gia cho các thế hệ. Phải thiết lập
tình yêu đất nước là đến với từng mảnh đất của đất nước. Khi tôi đứng
bên này biên giới hỏi anh bộ đội biên phòng là tại sao bên kia cứ có
người dẫn một lũ trẻ con rồi đứng chỉ chỉ trỏ trỏ? Từ lâu người ta đã
giáo dục học sinh về lãnh thổ rồi. Biên giới của mình thì vắng tanh
chẳng có ai lên. - Trong thời đại hiện nay chúng ta cần chú ý yếu tố lịch sử gì trong việc phát huy nhân tố con người? - Nhà nghiên cứu Dương Trung Quốc:
Trong thời đại này chúng ta không thể chỉ một chiều. Chúng ta có thể có
hàng rào lửa nếu chúng ta thấy cần thiết, chúng ta có thể có chế độ
kiểm duyệt nếu thấy cần thiết. Nhưng về căn bản chúng ta phải tăng sức
đề kháng của chính con người. Chúng ta không thể quản lý con người theo
kiểu cũ, nhất là trong thế giới hiện đại này. Khái niệm mà chúng ta gọi
là độc lập thì bây giờ đã được hiểu theo nghĩa rộng hơn và đúng hơn. Đó
là sự liên-lập với nhau. Độc lập của một yếu tố dựa trên mối quan hệ
với những yếu tố khác. Như vậy chưa bao giờ
trong lịch sử chúng ta có một vị thế, một cơ hội như bây giờ. Vậy chúng
ta lựa chọn như thế nào? Nhưng có lựa chọn thế nào thì cũng không được
quên những truyền thống lịch sử, trong đó có trọng dân. Trọng dân bây
giờ phải hiểu theo nghĩa hiện đại tức là xây dựng một nền dân chủ thật
sự. Dân là một khái niệm hết sức
chung chung. Dân nào? Nó rất dễ rơi vào chủ nghĩa dân túy. Như thế cần
lưu ý một tư tưởng của Cụ Hồ phát biểu từ rất sớm nhưng rất ít được chú
ý. Đó là ngày 3/9/1945, tại phiên họp đầu tiên của Chính phủ, Cụ có đưa
ra những nhiệm vụ cấp bách sau Tuyên ngôn độc lập. Ai cũng nhớ là chống
giặc đói, chống giặc dốt và chống giặc ngoại xâm. Nhưng trong đó có một
chi tiết ít người chú ý là phải giáo dục lại nhân dân. Vì Cụ Hồ là
người rất biện chứng. Vẫn nhân dân ấy ngày hôm qua là thần dân của chế
độ phong kiến, là thuộc dân của chế độ thuộc địa. Đứng trước sự kiện
lịch sử năm 1945, chúng ta không chỉ chấm dứt thời đại này thay bằng
thời đại khác mà chúng ta chấm dứt cả chế độ phong kiến và thuộc địa để
xây dựng xã hội mới của công dân. Biến cố lịch sử nó chỉ xảy ra trong
khoảnh khắc thôi. Một bên là thần dân, một bên là công dân làm sao tự
nhiên mà có được. Phải giáo dục
Theo: cand.com