Thông tin

Số điện thoại

Email

Website

Địa chỉ

Matsuo Basho 松尾笆焦, Tùng Vĩ Ba Tiêu

Matsuo Basho 松尾笆焦 (Tùng Vĩ Ba Tiêu, 1644-1694), thiền sư thi sĩ lỗi lạc của thời Edo 江戶 tại Nhật Bản, tên thật là Matsuo Munefusa, con trai út thứ bảy của một samurai cấp thấp phục vụ cho lãnh chúa thành Ueno, một ngôi thành nằm giữa con đường đi từ Kyoto đến Ise. Basho được thừa nhận là người phát triển những câu đầu (発句, phát cú) của thể renga (連歌, liên ca) thành một thể thơ độc lập mang âm hưởng sâu thẳm của Thiền đạo. Masaoka Shiki (1867-1902) hoàn thiện sự tách biệt này thêm nữa và chuyển sang gọi nó là thể haiku (俳句, bài cú). Lối lên miền Oku Xuân nhật - 春の日 Bụt hiện từ bi Đăng bởi MaiHoa vào 22/02/2008 08:39 Đã sửa 1 lần, lần cuối bởi Vanachi vào 22/02/2008 10:45 Bụt hiện ở nơi nào? thì cũng như: vầng trăng hiện ở nơi nào, cũng như gió thổi qua nơi nào và mây bay nơi nào. Trong thơ của Huyền Quang tôn giả, Bụt hiện ra như gió như mây: Nương am vắng, Bụt hiện từ bi, Gió hiu hiu, Mây nhè nhẹ. Khi tâm là gió, là mây thì Bụt hiện. Khi tâm là am vắng thì Bụt hiện. Thế thôi mà. Bụt còn biết hiện vào đâu ngoài nơi chốn của niềm êm dịu từ tâm? Khi lên chùa Vân Yên (xứ Khói Mây), Huyền Quang tôn giả hẳn đã muôn lần chiêm quan cảnh Bụt hiện từ bi. Thì cũng như khi Bashô hành hương đến một ngôi chùa hoang phế ở Awa: Nền đá hoang tàn lung linh bóng nắng Bụt hiện dung nhan Bashô (Jôroku ni kagerô takashi ishi no ue) Đấy là một ngôi chùa thực sự hoang phế. Nền đá trống trải, trơ trọi không còn dấu vết một pho tượng Phật nào. Chỉ còn ánh nắng toả chiếu như sóng gợn. Và trong ánh nắng mùa Xuân ấm áp ấy, Bashô chiêm ngưỡng dung nhan của Bụt. Với Bashô, nắng Xuân tự hoá thân thành Bụt. Đấy là cách mà Huyền Quang ở Việt Nam thế kỷ XIV và Bashô ở Nhật Bản thế kỷ XVII đã nhìn thấy Bụt. Nhìn thấy Bụt trong nắng, trong mây, trong gió, trong ánh trăng. Như Thiền sư Như Mãn đời Đường. Vua Đường Thuận Tông hỏi Thiền sư: - Phật đản sinh phương nào, nhập diệt về nơi nào? Phật thường trụ ở đời nhưng bây giờ thì ở đâu? Thiền sư đáp: - Phật từ vô vi đến, khi diệt về vô vi. Pháp thân đồng hư không, thường trụ chốn vô tâm, có niệm về vô niệm, có trụ về vô trụ, đến vì chúng sinh đến, đi vì chúng sinh đi... Có duyên Phật ra đời, hết duyên Phật nhập diệt, mỗi nơi giáo hoá chúng sinh như bóng trăng hiện dưới nước... (Ngũ đăng hội nguyên tiết dẫn, Thích Phước Hảo dịch) Như vầng trăng thu, Bụt theo duyên mà hiện mà tan. Vầng trăng tan nhanh trong giọt mưa đọng đó đây trên cành. Bashô (Tsuki hayashi kozue wa ame wo mochinagara). Chung quanh bài thơ, Bashô còn nói rõ: “Bầu trời đã rạng đông một chút... Trong ánh trăng, âm thanh của những giọt mưa đầy niềm bi cảm; tâm hồn tôi như thể dâng tràn, nhưng lời thì bất khả”. Bụt ra đi trong những giọt mưa trăng ấy, trong muôn nghìn giọt sương. Bụt là Như Lai, là Đến, là Đi như thế, từ vô lượng thời gian đến nay. Đến và Đi như tiếng gõ trên cánh cổng chùa xưa: Cổng mờ phai chùa Mii tôi gõ dưới trăng đêm nay. Bashô (Miidera no mon tatakaba ya kyô no tsuki) Bụt ở đâu khi ta gõ cửa chùa? Đó tựa như là một công án. Nhưng vầng trăng thu viên mãn sáng ngời kia không phải là hào quang của Bụt sao? Và đó cũng chính là ánh sáng của tâm. Như cái nhìn của Thiền sư Myoe từ thế kỷ XIII: Tâm tôi rạng ngời ánh sáng tinh khôi mà trăng cứ ngỡ đấy là ánh sáng của mình trăng thôi. (Kuma no naku sumeru kokoro no kagayakeba waga hikari to ya tsuki omou kana) Điều đó có nghĩa là ánh sáng trong trái tim ta “đồng chất” với ánh sáng của vũ trụ. Chính là Bụt ở trong tim ta được phóng chiếu vào vũ trụ này. Ta mang trái tim đi là mang cả vũ trụ đi. Ta mang trái tim đi, đi về cõi vô tâm. Như Huyền Quang tôn giả đã nói: Bao nhiêu phong nguyệt, về cõi vô tâm. Trong cõi vô tâm ấy, Huyền Quang trở thành Bồ tát của cuộc tiêu dao vũ trụ: Ta nay: ngồi đỉnh Vân Tiêu cỡi chơi Cánh Diều. Cũng như cuộc tiêu dao đêm thu của Bashô: Trăng thu cùng tôi phiêu lãng suốt đêm quanh hồ. (Meigetsu ya ike wo megurite yomosugara) Cả hai đều là trẻ thơ vô tâm, đùa chơi với trăng, với núi, với hồ. Đùa chơi với cỏ, với mưa với gió. Chỉ cần cỏ chiều lả lướt trong gió, đỉnh non tắm gội mưa chiều cũng đủ là pháp vui cho Huyền Quang, một thiền sư xem cái đẹp của vũ trụ này là hiện thân của Bụt: Cái Đẹp chính là Bụt hiện từ bi. Cỏ chiều gió lướt dợm vui vui Non tạnh mưa dầm màu thúc thúc. (Huyền Quang) Ta có cảm tưởng như thiền sư thi sĩ kỳ tài này trú thân trong gió thổi qua cỏ và mưa bay qua núi, cái trú thân kỳ lạ mà Bashô có nhắc tới: Ngồi đây tôi xây gió mát mà trú thân này (Suzushisa wo waga yado ni shite nemaru nari) Trú thân trong gió mát. Nhưng gió từ đâu vậy? Ngọn gió mát thực sự chỉ thổi trong trái tim con người. Đó là cái êm dịu từ tâm mà Huyền Quang và Bashô luôn mang theo trong mình, trong những cuộc phiêu lãng hành cước mênh mông của họ. Vài thế kỷ ngăn cách họ (Huyền Quang sinh năm 1254 và Bashô sinh năm 1644) nhưng tâm hồn của hai nhà thơ Thiền vĩ đại này lại rất gần nhau. Cách mà họ an trú giữa cõi đời bụi: Buông niềm trần tục náu tới Vân Yên. (Huyền Quang) Muốn náu thân tôi trong rừng mùa hạ dưới bóng cây sồi. (Bashô) (Mazu tanomu shii no ki mo ari natsu – kodachi) Núi Yên Tử của Huyền Quang hay khu rừng mùa hạ của Bashô không phải là những nơi xa đời. Đó chỉ là biểu tượng của nơi an trú tâm linh của mỗi người. Bởi vì Huyền Quang tôn giả không chỉ náu mình ở chùa Vân Yên, Yên Tử. Ông còn là "Con thuyền nhỏ lướt gió mà chơi trên dòng sông mênh mang" (Tiểu đỉnh thừa phong phiếm diểu mang – Huyền Quang). Và tất nhiên Bashô không chỉ trú thân trong khu rừng mùa hạ. Ông luôn luôn tự gọi mình là “từ nhân” (Tabibito). Tên tôi trên đời: một người lữ khách mưa mùa thu ơi! (Tabibito to waga na yobaren hatsushigure) Từ bỏ một chức quan trị thuỷ, Bashô rong chơi khắp xứ, làm thơ, làm bạn với hoa đào. Huyền Quang cũng rời bỏ quan trường, lang thang khắp Kinh Bắc, mang theo mình pháp vui, làm bạn với hoa mai hoa cúc. Nhìn ngắm hoa mai, Huyền Quang không giấu nổi niềm cảm phục vô bờ. Hoa đứng một mình trên núi tuyết, cao nhã vô song. Dường như có oai nghi của Bụt, thanh cao của Bụt trong cành mai trắng mùa xuân đó: Dục hướng thương thương vấn sở tòng Lẫm nhiên cô trĩ tuyết sơn trung? (Vọng hỏi trời xanh – tự chốn nào Một mình dẫm tuyết giữa non cao?) Mai sống một mình trên núi, trở thành trang kinh của Người biết sống một mình. Một mình Huyền Quang tôn giả trên đỉnh Vân Yên đó chăng? Hoa mai của Bashô cũng thế, đứng một mình trên con đường núi, ngát hương một mình. Ấy thế mà, làn hương của nó đã thức dậy một mặt trời: Hương hoa mơ ơi con đường núi mọc bỗng nhiên mặt trời (Ume ga ka ni notto hi no deru yamaji kana) Hoa mơ xông hương bởi vì mặt trời hay mặt trời mọc lên bởi vì mùi hương hoa mơ. Mặt trời cũng lẫm liệt đứng một mình trên cao, cũng là một bông hoa lạ. Và một mình Bashô trên đường núi, làm thơ một mình. Với hoa cúc, Huyền Quang tôn giả càng ưu ái hơn: Hoa tại trung đình, nhân tại lâu Phần hương độc toạ tự vong ưu Chủ nhân dữ vật hồn vô cạnh Hoa hướng quần phương xuất nhất đầu. (Hoa ở trong sân, người tại lầu Ngồi im, hương đốt, tự quên sầu Ta cùng với vật không tranh cạnh Đi giữa muôn hoa, cúc dẫn đầu) Vẫn là một Huyền Quang ấy, ngồi một mình trên núi, ngồi một mình đốt hương. Hoa và người cùng xông hương. Cùng xông hương, chứ không cạnh tranh hơn thua, không phân biệt người vật, không định ngôi chủ khách. Vì người là hoa. Vì hoa là người. Vì vũ trụ là hồn nhiên. Và đây là cái nhìn của Bashô đối với hoa cúc: Dẫu thân hao gầy cành hoa cúc ấy nụ đang căng đầy (Yase nagara wari naki kiku no tsubomi kana) Mai gầy, cúc yếu... cành hoa nào cũng gầy yếu. Nhưng có thật là yếu ớt không, những bông hoa ấy? Hãy nhìn vào nụ đi, nhựa đang căng trong ấy. Hãy nhìn vào nhuỵ đi, phấn đang bay trong ấy. Hãy nhìn những bước đi dịu dàng, những nụ cười dịu dàng, những ánh mắt dịu dàng. Trong mỗi cái dịu dàng đều có một sức mạnh lớn lao, lớn hơn mọi quyền uy. Đây là uy lực của mùi hương hoa đào trong thơ Bashô: Chuông chùa tàn dần hương hoa đào buổi tối vẫn còn vang ngân. (Kane kiete hana no ka wa tsuku yùbe kana) Mùi hương có âm vang ư? Có thể nghe âm vang của một mùi hương? Bashô đã nghe như thế. Ông đã nghe hoa đào thì thầm với ông biết bao nhiêu điều khi ông trở về Ueno sau hai mươi năm xa cách: Hoa đào ta ơi, xui hồn ta nhớ, bao điều xa trôi. Bashô nghe hoa, ăn hoa và ngủ với hoa: Tôi muốn ngà say ngủ mơ trên đá hoa cẩm chướng đầy. (Youte nemu nadeshiko sakeru ishi no ue) Bài thơ cũng gợi đến giấc ngủ trưa (ngọ thuỵ) của Huyền Quang tôn giả: Vũ quá khê sơn tịnh Phong lâm nhất mộng lương Phản quan trần thế giới Khai nhãn tuý mang mang. (Mưa qua, khe núi trong Rừng phong say giấc mộng Ngoảnh nhìn đời bụi bặm Mắt mở mà say mòng) Đó là giấc mộng và cơn say của những hiền nhân. Họ ngủ với hoa, với rừng, với sự thanh tịnh của đá và cái trong trẻo của khe núi. Họ say mòng với mùi hương cẩm chướng và hơi mát của mưa. Họ thực sự sống dẫu đang mộng và say. Có thể nói họ tỉnh giác bằng cơn say và giấc mộng. Cho nên, đừng ngạc nhiên khi Huyền Quang tôn giả hết ngủ trưa (ngọ thuỵ) lại ngủ ngày (trú miên): Mộc tê song ngoại thiên cưu tịch Nhất chẩm thanh phong trú mộng dư (Chim cưu vắng tiếng ngoài song quế Gối mát còn dư giấcmộng ngày) Hoặc là trong giấc đêm thu, ông và mái nhà đìu hiu cùng gối đầu vào lùm dây leo xanh biếc, cùng gối đầu vào tiếng dế kêu thiết tha: Thu phong ngọ dạ phất thiềm nha Sơn vũ tiêu nhiên chẩm lục la Dĩ hĩ thành thiền tâm nhất phiến Cùng thanh tức tức vị thuỳ đa! (Gió thu đêm vắng phấtqua mành Nhà núi đìu hiu dựanhánh xanh Có kẻ thành thiền tâmnhất phiến Vì ai tiếng dế vọng vang thanh!) Gió thu và tiếng dế cứ xao động, cứ vang vọng. Tâm thiền vẫn trong suốt và tịch liêu, gối vào những nhành xanh biếc của dây leo, của thiên nhiên, của đêm thanh. Như một bài haiku về tiếng ve của Bashô: Tịch liêu thấu xuyên vào đá tiếng ve kêu. (Shizukasa ya iwa ni shimi iru semi no koe) Tiếng dế của Huyền Quang vẫn vang vọng qua nghìn đêm mùa thu. Tiếng ve của Bashô vẫn xuyên thấu muôn trùng vách đá. Để làm gì vậy? Để tạo dựng thế giới của tâm thiền, của an nhiên và tịch liêu, nơi mọi âm thanh có thể vang ngân mà vẫn không gây một chút vọng động nào, nơi Huyền Quang và Bashô nằm ngủ dưới hoa rơi, nơi Bụt hiện trong hoa đào, hoa mơ, hoa cúc. Và Bụt hiện trong một làn hương vô danh: Từ cây hoa nào mà ta không biết một làn hương trao! Bashô (Nan no ki no hana towa shirazu nioi kana) Làn hương vô danh đó chính là bụt hiện từ bi. Nhật Chiêu ☆ ☆ ☆ ☆ ☆ Chưa có đánh giá nào Chia sẻ trên Facebook Lệ và sương Đăng bởi MaiHoa vào 22/02/2008 11:28 Tác giả: Nhật Chiêu Trong những hình ảnh thiên nhiên và cuộc đời của thơ Haiku, có hình ảnh Mẹ, như ta có thể thấy qua thơ Bashô và Issa. Một kỷ niệm về mẹ được Bashô kể lại rất xúc động trong cuốn nhật ký du hành viết vào năm 1684 (Nozarashi Kiko) như sau: "Cuối cùng tôi đến quê nhà vào đầu tháng Chín. Cây hoa hiên mà mẹ thường trồng trước phòng bà giờ không còn nữa, có lẽ đã chết vì sương giá. Tất cả mọi thứ khác cũng đã đổi thay. Gương mặt anh tôi đã hiện nếp nhăn trên trán và tóc bạc nơi thái dương. Chúng ta vẫn còn sống, anh chỉ nói thế. Rồi, không lời nào nữa, anh mở một chiếc túi kỷ niệm mà nói: Hãy nhìn mớ tóc sương của mẹ đây này. Đây là chiếc hộp linh thiêng của Urashima đấy, ta cũng sẽ bạc đầu". Urashima là chàng ngư phủ huyền thoại, đã lấy công chúa Thuỷ cung mà còn nhớ nhà. Chàng về quê, mang theo chiếc hộp của công chúa cho, dặn đừng mở ra, nhưng chàng đã mở. Tuổi già ập xuống, tức thì tóc bạc và da nhăn. Nhưng Bashô, cũng như Urashima, không thể không mở chiếc hộp của thời gian. Để thấy lại quê hương, ngày xưa và mẹ. Bashô đã khóc khi nhìn mớ tóc sương còn lại của mẹ hiền. Sau đó, ông viết bài Haiku này: Te ni toraba kien Namida zo atsuki Aki no shimo Tóc mẹ còn đây Tan trong lệ nóng Sương mùa Thu bay Nhà thơ muốn cầm món tóc của mẹ trên tay, nhưng e rằng nó sẽ tan trong lệ nóng của mình như sương mùa Thu vậy. Hay là sương mùa thu kia cũng có thể tan rã vì những giọt lệ nhớ thương mẹ của mình. Tóc sương và sương mùa Thu như hoà lẫn vào nhau. Không còn mẹ là một nỗi đau. Bashô đã chuyển hoá nỗi đau đó vào nghệ thuật, vào thiên nhiên. Và vượt lên nỗi đau. Để vượt lên nỗi đau, Thiền sư thi sĩ ấy đã chuyển hoá nó vào cõi vô ngã là thiên nhiên. Tóc mẹ trở về với sương mùa Thu. Nhưng vẫn còn lại đoạn văn và bài thơ bất hủ về mẹ của Bashô. Nhắc nhở ta rằng mỗi người là một Urashima, một Từ Thức, nghĩa là một kẻ nhớ cố hương, muốn đi ngược thời gian tìm lại mẹ. Tóc mẹ còn đây, nó gợi lên hạnh phúc khi ta còn ngồi bên mẹ, hoặc trong lòng mẹ. Đó là những ngày nắng đẹp khi còn mẹ. Còn bây giờ, ta là người của những dòng lệ nóng, lạc lõng giữa trần gian. Là người của những mùa Thu cuộc đời, đi trong sương mù. Sương mùa Thu, sương mùa Thu... là những tiếng kêu của nhà thơ khi nhớ về mẹ. Cây hoa hiên của mẹ đã chết vì sương mùa Thu, mái tóc của mẹ đã bạc trắng vì sương mùa Thu. Lệ Bashô rơi cũng vì sương mùa Thu. Nhưng sương mùa Thu có thể tan vì nước mắt con người rất nóng. Bên cạnh Bashô, Issa là nhà thơ vĩ đại khác của thế giới Haiku. Issa là kẻ bất hạnh, mất mẹ từ năm lên ba. Hơn ai hết, Issa hiểu mẹ quan trọng như thế nào trong cuộc đời mỗi con người. Nhà thơ đó vào thời ấu thơ chỉ biết chia sẻ nỗi đau của mình với một con chim mồ côi lạc loài: Ore to kite Asobe yo oya no Nai suzume. Đến đây nào, với tôi Cùng chơi đùa, chim sẻ Không còn mẹ trên đời. Và lớn lên, Issa lại chia sẻ nỗi đau đó với biển: Naki-haha ya Umi miru tabi ni Miru tabi ni Mẹ yêu ơi! Mỗi khi nhìn thấy biển Khi thấy biển khơi... Vì không có mẹ, mới mười bốn tuổi Issa đã trở thành một kẻ lang thang, kiếm sống bằng đủ mọi nghề trên nước Nhật vào giữa thế kỷ mười tám. Với kiếp sống như vậy, gió mùa Thu cũng trở thành địa ngục, một thứ địa ngục bám theo Issa: Aki no kaze Ware wa nairu wa Dono jigoku Gió mùa Thu Địa ngục nào đấy Cùng tôi giang hồ. Nhưng Issa không còn oán hận cuộc đời. Ông quá yêu thương cuộc đời là khác. Ông yêu thương muôn loài: những con vật nhỏ bé như chim sẻ, con chuột, con ruồi...; yêu trẻ thơ, yêu thiên nhiên. Trái tim ông có quá nhiều yêu thương, còn chỗ đâu thù ghét. Nhìn biển, Issa nhớ mẹ Nhìn trăng, Issa nhớ Quan Thế Âm, cũng là một mẹ hiền khác: Meigetsu ya Taka Kannon no O hiza moto Ôi ánh trăng Đời ta đặt dưới Chân người, Quan Âm. Quan Âm là vị Bồ tát lắng nghe tiếng kêu đau khổ của trần gian, cho nên chân đã đặt lên ngưỡng cửa Niết Bàn, Ngài vẫn sẵn sàng quay lại với tiếng kêu ấy, như mẹ quay về với con. Ánh trăng, cũng như biển khơi, là biểu tượng của Mẹ. Cả hai đều đẹp, mênh mông, huyền diệu, sâu thẳm, bao dung, mầu nhiệm. Không có mẹ, Issa đã chọn vầng trăng - Quan Âm làm mẹ của mình. Chính vì thế mà, dẫu hứng chịu đủ mọi loại bất hạnh của cuộc đời (mẹ chết, vợ chết, các đứa con lần lượt chết trước mình), Issa vẫn còn lại một trái tim nhân hậu: Mata muda ni Kuchi aku tori no Mamako kana. Há mỏ chờ mồi Sao mà vô vọng Con chim mồ côi. Issa thường đồng hoá mình với những con vật nhỏ bé, nhất là với con chim non mồ côi. Chẳng hạn như, dưới bài thơ trên, nhà thơ đã ghi "Tsubane no Issa" (Con chim én này - cũng có cả Issa. Tuy xem mình như một cánh én lạc loài, vô vọng bay giữa cuộc đời, nhưng điều kỳ diệu là Issa vẫn nhìn thấy ánh trăng là Mẹ, sông Ngân là Niết Bàn. Utsukushi ya Shoji no ana no Ama no gawa. Đẹp vô cùng Nhìn qua cửa giấy rách Ô kìa sông Ngân. Và mỗi giọt sương, mỗi giọt sương trên đời đều là trân châu. Trong từng hạt trân châu đó, có mẹ hiền là cố hương. Tsuyu no tama Hitotsu hitotsu ni Furusato ari Ôi những hạt sương Trân châu từng hạt Hiện hình cố hương. Thơ Issa là thơ của người con tưởng nhớ mẹ. Và nhà thơ đem theo tình mẹ đi vào đời, để đồng hoá mình với những gì bé nhỏ nhất, như hạt sương. Nhưng mẹ thì vĩ đại Và Issa là người con vĩ đại. Nguồn: http://www.quangduc.com/VuLan/082levasuong-nc.html ☆ ☆ ☆ ☆ ☆ Chưa có đánh giá nào Chia sẻ trên Facebook Tìm hiểu giá trị thẩm mỹ của thiên nhiên trong thơ Basho (2) Đăng bởi hoalucbinh vào 25/05/2008 03:21 Đã sửa 2 lần, lần cuối bởi hoalucbinh vào 25/05/2008 03:57 Tác giả: Nguyễn Thị Bích Duyên CHƯƠNG I: THỜI ĐẠI 1. Khái quát văn học Nhật Bản từ khởi thủy đến nay: văn học Nhật Bản có thể chia ra 3 thời kỳ như sau: 1.1. Thời cổ đại Khởi đầu là thời Nara (Nại lương) thế kỉ thứ VIII chấm dứt thời kì “di đô” của Hoàng gia, mở đầu thời kì định đô của Nhật Bản (vì trước kia mỗi lần thiên hoàng mất đi, triều đình lại bỏ cung điện cũ chuyển đến nơi khác xây dựng cung điện mới). Trước thời Nara tính đã có hơn 60 kinh đô trên đất nước. Từ nay, Nara được chọn làm nơi đóng đô, gọi là kinh đô Nara hay HeijoKyo (Bình thành kinh) được xây dựng vào năm 710 theo lệnh nữ thiên hoàng Genmei và theo khôn mẫu là kinh đô Trường An của nhà Đường ở Trung Quốc. Người Nhật đã tiến những bước dài trong cuộc kiến tạo văn minh trên xứ sở của mình từ sau khi thống nhất và định đô tại Nara. Vào khoảng đầu công nguyên, Nhật Bản có trên 100 xứ nhỏ (theo xử liệu Trung Quốc Hậu Hán Thư), thực ra đó chỉ là những bộ tộc tranh giành quyền lực với nhau. Trong đó Yamato (Đại hòa) là xứ hùng mạnh nhất và là nơi khởi nghiệp của các thiên hoàng. Nên “Yamato” cũng được dùng để chỉ nước Nhật xưa. Theo bộ sử thi Nihonsoki (Nhật Bản thư kỉ) thì vào năm 552 Phật giáo đã theo người Triều Tiên du nhập vào xứ đảo quốc này và ít lâu sau được tôn làm Quốc giáo. Cùng với Phật giáo là Thần đạo truyền thống vẫn tồn tại bên cạnh. Cả hai đã liên kết dung hòa để phát triển bên nhau. Đồng thời, Nhật Bản còn tiếp thu các nền văn hóa Trung Quốc, Ấn Độ, Triều Tiên… để xây dựng nền văn hóa của dân tộc mình. Vào thời kì này, nền văn học viết bắt đầu xuất hiện như: thơ, tùy bút, nhật ký, tiểu thuyết viết bằng chữ Hán, cũng ưa dùng điển tích Hán nhưng mang đậm chất Nhật Bản, bởi nó chứa đựng trong đấy là thiên nhiên và tâm hồn người Nhật. Những tác phẩm như Kojiki (Cổ kí sự) có nghiã là “ghi chép chuyện xưa” viết bằng tiếng Nhật qua dạng chữ Hán do Yasumaro – một học giả ưu tú đương thời biên soạn. Hay Nihonsoki (Nhật Bản thư kỉ) gọi tắt là Nihongi (Nhật bản kỉ) do thái tử Toneri và Yasumaro biên soạn. Hay Fudoki (Phong thổ kí), Kogoshui (Cổ ngữ thập di), các Norito (Chúc từ), Nihon Ryoiki (Nhật Bản linh di kí) năm 822, hợp tuyển thơ ca Kaifusso (Hoài phong tảo hay còn gọi là Hoài niệm thơ ca) năm 751 với 126 bài thơ chữ Hán làm theo lối Đường luật. Đặc biệt là tập thơ Manyoshu (Vạn diệp tập) “Nghìn chiếc lá” do thiên hoàng tổ chức và phát hành hoàn thành khoảng năm 771 với 4500 bài thơ trong ngôn ngữ Nhật bản với hầu hết là thể tanka của rất nhiều tác giả hữu danh và vô danh. Có thể nói Manyoshu là nơi quy tụ mọi tâm hồn trên toàn cõi Nhật. Đó là khúc hát giao mùa của thiên nhiên và cả tâm hồn con người Đàn nhạn bay về Cây phong của ta ơi Đến lượt em rồi đó Đã sang mùa Em hãy đổi màu đi. ( bài 2183 – vô danh) Tóm lại, nền văn học Nhật Bản thời Nara là “buổi bình minh văn học Phù Tang” [6, trang 11] nên chưa định hình rõ phong cách. Thời Heain (Bình an) từ 794-1185: Vào năm 794, thiên hoàng Kanmu dời đô về Heian (Kyoto) chấm dứt những rối ren ở Nara mở đầu cho thời đại thái bình kéo dài ngót bốn thế kỉ. Heian nghĩa là Bình an là một trong những kinh đô có cuộc sống kéo dài từ thời cổ đại đến cận đại tức năm 1868. Thời kì này văn hóa Nhật Bản phát triển trong một tinh thần độc lập và tự tin. Với phong trào tân hưng Phật giáo như: chủ trương đọc kinh, không phân biệt nam nữ, đề cao nghệ thuật. Sau đó là hệ thống văn tự Kana thay thế cho cách mượn chữ Hán để phiên âm tiếng Nhật. Thời Heian, gia tộc Fujiwara chiếm một địa vị quan trọng trong cung đình cũng như lịch sử Nhật Bản và thật sự thống trị triều đình. Giới quý tộc vui hưởng cuộc sống xa hoa, ngắm trăng, đốt hương… Đó là sự tôn thờ cái đẹp trong nghệ thuật lẫn thiên nhiên. Cái đẹp trở thành tiêu chí của văn hóa. Cái đẹp được tôn thờ như là một tôn giáo. Chính nhờ xã hội quý tộc này những kiệt tác văn chương thể hiện một phong cách diễm lệ và tao nhã gọi là Miyabi của sự giao hòa êm ái giữa con người với nhau và với thiên nhiên. Văn chương thời Heian “nở rộ như hoa cỏ mùa xuân”. Đặc biệt là sự đăng quang của các cây bút thiên tài nữ quý tộc và tác phẩm của họ trở thành tiêu biểu cho cả nền văn học thời Heian. Đây cũng là thời đại mà yếu tố “dân tộc” và “nữ lưu” đã phát tiết vẻ đẹp huy hoàng chưa từng có cho văn chương. Đến nỗi bước vào thế giới văn chương Heian là ta cảm nhận lập tức sự thoát ra một không khí diễm tình, đa cảm đầy mùi hương nữ tính. Văn học giai đọan này đã bắt đầu hình thành phong cách Nhật khá ổn định và mang nét truyền thống sâu sắc chẳng hạn như những xúc cảm tinh tế về thiên nhiên, về nỗi buồn và cái đẹp đã trở thành đặc trưng truyền thống của mỹ cảm Nhật Bản “mononoaware” (bi cảm Nhật Bản). Về thể loại thì phong phú đa dạng: thơ ca, tiểu thuyết, nhật ký, tùy bút… với các tác phẩm: Các tập cổ kim tập, Thần nhặt bụi trần, Tiểu thư ánh trăng, Tiểu thư yêu sâu bọ, Sách gối đầu, Phù du ký và đặc biệt là tiểu thuyết truyện Genji Monogatari của nữ sĩ Murasaki. Đấy là quyển tiểu thuyết vĩ đại nhất của năn học Nhật Bản là một trong những kiệt tác vào bậc nhất của thế giới. Tiểu thuyết Genji Monogatari dài khoảng 1000 trang kể về chuyện tình của thái tử Genji hào hoa phong nhã. Qua cuộc đời Genji, Murasaki đã miêu tả lại hiện thực xã hội cung đình và đời sống người Nhật thế kỉ XI. Ngoài ra còn có sân khấu Noh với những gương “mặt nạ” người bất động ra đời. Có thể nói thời Heian là thời của cái đẹp là thời rực rỡ nhất của văn học Nhật Bản từ trước đến nay. 1.2. Thời trung đại (“Thời khói lửa”) từ thế kỉ XIII – XV Mạc phủ Kamakura (Liêm thương): Đây là thời kì mà sự vinh quang của tầng lớp quý tộc bị rơi xuống thì ngọn sóng lịch sử lại đẩy lên một quyền lực mới thuộc về giới võ sĩ gọi là Bushido hay Samurai. Năm 1192 Yoritomo trở thành tướng quân và thiết lập chế độ Mạc phủ (Bakufu) ở Kamakura. Đến năm 1333 Ashikaga đảo chính lật đổ tướng Kamakura và sau đó chiếm luôn Kyoto, lập thiên hoàng mới là Komyo. Thiên hoàng Godaigo về núi Yoshino lập triều đình mới. Từ đó diễn ra tranh chấp Nam Bắc và kết thúc 1392 chỉ còn lại thên hoàng Kyoto. Sau đó nữa là cuộc chiến tranh giữa các lãnh chúa địa phương kéo dài hơn một thế kỉ, 60 xứ “bốc mùi khói lửa” [6, trang 143]. Năm 1542 Nhật Bản được người Bồ Đào Nha phát hiện và từ đấy súng đạn phương Tây cũng xen vào khói lửa. Văn hóa thời Mạc Phủ chịu sự ảnh hưởng của khói lửa chiến tranh và tư tưởng tôn giáo Thiền tông (Zen). Các loại hình nghệ thuật gắn liền với Thiền tông cũng phát triển rất mạnh như: Trà đạo, kiếm đạo, hoa đạo, thi đạo… Một nền văn học dịu dàng trong sáng của Heian đã bị “khói lửa” làm nhòa đi thay vào đó là bóng tối bi đát trong từng trang tùy bút, trong lời ca ngâm của nghệ sĩ hát rong và trên sân khấu u huyền của kịch Noh. Có thể nói đây là thời kì võ sĩ và tu sĩ là lực lượng sáng tác chủ yếu của văn học. Cả hai loại thơ ca và văn xuôi đều phát triển với những tác phẩm tiêu biểu như: Nhà trên núi, Mây hoang dại, Ghi chép trong lều, Trầm tư trên cỏ, Những truyện kể theo tiếng đàn tì bà… và một loại hình nghệ thuật mới: sân khấu Noh phát triển mạnh vào thời kì này. Thời Mạc phủ là thời văn chương của võ sĩ và tu sĩ. Thời Edo (“văn chương Phù thế”): Cuộc chiến tranh dai dẳng cũng đã đến hồi kết thúc. Tướng quân Tokugama Iegasa mở ra một thời đại mới gọi là thời Tokugana hay thời Edo (vì Edo được chọn làm Thủ phủ trở thành trung tâm văn hóa mới), với một nền hòa bình kéo dài gần 3 thế kỉ (từ 1600 – 1868). Dưới chế độ Mạc phủ Tokugana, học vấn phát triển mạnh mẽ cả Nho học lẫn Quốc học đến cả việc hình thành văn hóa và đạo lí của tầng lớp võ sĩ trên toàn cõi Nhật Bản. Đó là tinh thần võ sĩ đạo “Bushido”. Ngoài ra văn hóa Edo còn bị chi phối bởi hiện tượng chính trị khép mình theo lệnh tỏa quốc hay “bế quan tỏa cảng”. Nhưng hiện tượng nổi bật của văn hóa Edo lại chính là tầng lớp thị dân, chính vì vậy mà văn hóa Edo còn gọi là “Văn hóa thị dân” [6, trang 215]. Là thời của thị dân, nghệ sĩ, kĩ nữ… của những “Thành phố không đêm” [6, trang 215], của nhà hát, lữ quán… là nguồn đề tài phong phú cho các nhà soạn kịch, tiểu thuyết gia, họa sĩ và cả nhà thơ. Chính cái thị tứ ấy đã tạo nên một “nền văn hóa Phù thế”. Đời sống thường ngày và con người thường dân bắt đầu xâm nhập vào một thế giới mà mới đây dường như hãy còn là một cõi xa lạ đó là văn chương và nghệ thuật. Nho giáo được xem là chính thống. Đạo Thiên chúa bị cấm đoán. Thời kì đầu của Edo trải dài hơn một thế kỉ rưỡi. Nhật Bản được cai trị bởi mười tướng quân kể từ Ieyasu. Sân khấu, nghệ thuật, điêu khắc, hội họa… phát triển mạnh. Hai loại hình sân khấu nổi trội là múa rối Joruri và Kabuki, trong hội họa là “hình ảnh ngọn sóng chính là biểu tượng của một thời đại đầy khát vọng” [3, trang 203]. Riêng văn học với nhiều thể loại để lại những thành tựu văn học đặc sắc như: tiểu thuyết gia bậc nhất Saikaku và “thế gian gia đình”, hay các tác gia tiểu thuyết khác như: Akinai, Ikku và Bakin… Thơ thời Edo cũng xuất hiện với hình thức mới mẻ và giản dị vào hiện thực đời sống như thơ và văn xuôi vậy. Đó là thể thơ 17 âm tiết hay còn gọi là thơ haiku với bậc thầy của nó là Basho, bên cạnh còn có các tác gia khác như: Buson, Issa, Kikaku, Chiyo, Onitsuro... Có thể nói đây là thời rực rỡ nhất của thơ haiku đã làm cho Basho trở thành thi hào Nhật Bản. Thời Edo là thời tự trị của văn chương Phù thế, vì văn chương Phù thế là văn chương của những ngọn sóng trần gian chỉ biết “con người tại thế” mà quay lưng lại với thần linh xưa cũ. Văn học cổ điển Nhật Bản kết thúc vào cuối thời Edo. 1.3. Thời hiện đại (1868 đến nay) Đến giữa thế kỉ XIX Nhật Bản mới mở cửa giao lưu với các nước ngoại quốc kể từ sau chính sách “tỏa quốc” [3, trang 292] thế kỉ XVI. Rồi các hiệp ước được kí kết với Mĩ, Anh, Pháp, Hà Lan và Nga lần lượt ra đời. Chế độ Mạc phủ tướng quân bị tan rã. Quyền lực thuộc về thiên hoàng được phục hồi. Thiên hoàng mới là Meiji mới 15 tuổi. Từ đây, năm 1868 thời đại Meiji bắt đầu. Kinh đô Edo được đổi thành Tokyo. Nước Nhật lao vào cuộc Duy tân. Nền văn hóa, giáo dục phương Tây được du nhập vào Nhật Bản. Sinh viên Nhật Bản du học sang các nước phương Tây như ở thời Nara, Heian người Nhật từng sang Trung Quốc. Cuộc Duy tân Meiji đã làm bùng nổ sức mạnh của Nhật. Nhật gây chiến tranh với Trung Quốc, Nga rồi ngang nhiên sáp nhập Triều Tiên vào quần đảo của mình. Khi thiên hoàng Meiji qua đời vào năm 1912 và cuối thế chiến thứ nhất Nhật trở thành cường quốc lớn của thế giới. Sau đó, Taisho kế vị. Năm 1926, kỉ nguyên Showa bắt đầu với những rối loạn chính trị và tập đoàn Quân phiệt gây chiến dẫn đến nước Nhật thảm bại trong điêu tàn. Trong sáu năm tiếp theo, nước Nhật chịu sự chiếm đóng của quân Đồng minh là Mĩ. Năm 1947 Nhật Bản thi hành hiến pháp mới xem thiên hoàng “chỉ là biểu tượng của quốc gia” [3, trang 294] từ bỏ vũ lực quân sự… Từ đó, Nhật khôi phục kinh tế. Sau hai thập kỉ, Nhật trở thành quốc gia cường thịnh của thế giới. Trong thời kì này, nền giáo dục Nhật Bản đã thành công rực rỡ với các công trình nghiên cứu khoa học đoạt giải Nobel như: Yukawa, Hideki và Tomogana Shinichiro. Còn về nghệ thuật ngành điện ảnh đã nhanh chóng phát triển. Về phương diện văn học làn sóng văn học phương Tây đã bắt đầu tràn vào Nhật Bản từ những năm 1880 qua các bản dịch. Tác phẩm đầu tiên của văn học Nhật hiện đại là tiểu thuyết Ukigumo (Phù vân) 1887 của Futabotei Shibei. Sau đó hàng loạt các nhà văn lớn thời Meiji là Mori Ogai, Nagaikafu, Natrumei, Soseki… Họ thể hiện những băn khoăn đau khổ của con người trong cuộc sống đầy những giằng xé giữa mới và cũ. Đến thời Taisho xuất hiện truyện ngắn xuất sắc của Akutagwa Ryunosuke. Sang kỉ nguyên Shona lại là thời đại cực kì phong phú của văn học Nhật. Kawabata Yasunari và Oe Kenzaburoo đã vượt lên trên các nhà văn thơ cùng thời vươn ra thế giới nhận giải Nobel mang về vinh quang cho nền văn học xứ sở Phù Tang. Nhìn chung, tác phẩm của nhà văn hiện đại Nhật Bản ngày càng có tính quốc tế hơn trong đề tài và phong cách, nhưng vẫn giữ được nét đẹp riêng độc đáo của Nhật Bản. Hiện nay, Nhật Bản đang đối đầu với những bất ổn của xã hội và kinh tế. Nước Nhật đã hiện đại hóa với một tốc độ chóng mặt và dường như tâm hồn Nhật cũng chịu sự căng thẳng và khủng hoảng nên những giá trị văn hóa là những gì ổn định nhất cần phải bảo tồn và phát triển. Thời hiện đại của Nhật Bản là thời mọi giá trị của Nhật bản được vươn mình, soãi cánh ra thế giới trong đó có cả văn học Nhật Bản cũng đang là đối tượng được thế giới quan tâm. Đây cũng là thời kì đăng quang của các cây bút văn xuôi lỗi lạc. 2. Thơ haiku Dân tộc Nhật Bản có hai thể thơ chính là tanka và haiku. Thơ haiku là một thể thơ rất Nhật Bản, là linh hồn văn hóa xứ Phù Tang. Cho nên, nói đến văn học Nhật Bản người ta không quên nói đến thơ haiku. Ngày nay, thơ haiku không còn là của riêng dân tộc Nhật Bản mà nó trở thành thể thơ của quốc tế - một thể thơ của mọi người cảm nhận và sáng tác. Vậy từ đâu có tên gọi là haiku ? Haiku có nghĩa là gì ? 2.1. Nguồn gốc ra đời Như chúng ta đã biết thể thơ khởi đầu của dân tộc Nhật bản là thể tanka (tức Đoản ca hay còn gọi là Wa-ka hay Hòa ca) với 31 âm tiết, ngắt nhịp theo kiểu: 5-7-5-7-7 và bài thơ tanka sau đây được xem là bài thơ mở đầu cho thơ ca Nhật Bản Tám tầng mây dựng Ở xứ Izumo Ta làm tám tầng mây xa Tám tầng mây ấy Che chở người vợ ta. Là bài thơ mà thần Susanoo làm tặng người vợ yêu quý của mình là nàng Kushinada. Theo H. H. Honda thì một bài thơ tanka tựa như “Hoa anh đào ẩn hiện trong sương mờ mùa xuân”. Còn thơ haiku thì ngắn hơn nữa. Từ haiku theo âm Hán Việt là “hài cú”. Nó không xuất hiện vào thời Basho mà về sau mới có. Thử nhìn vào một bài thơ haiku sau đây sẽ dễ hiểu hơn Dậy đi thôi Cùng ta kết bạn Cánh bướm ngủ say ơi ! Đấy là một bài thơ rất ngắn. Cả bài chỉ có 17 âm tiết (17 onji), đôi khi cũng không nhất thiết phải thế. Một bài thơ như thế, Basho gọi là hokku (phát cú) tức là thơ khởi xướng của một bài renga (liên ca). Thơ renga được giải thích như sau: Thơ renga là thơ xướng họa có từ rất lâu đời trong văn học Nhật. Từ một bài tanka 31 âm tiết, 5 dòng được tách ra hai phần để cho mọi người xướng thơ với nhau (phần ba câu đầu gọi là thượng cú, phần hai câu sau gọi là hạ cú). Renga ra đời là như thế. Ví dụ như một bài thơ trong Shui shu (Thập di tập 997). Qua rồi nửa đêm Chờ nhau chi nữa Cho thêm ưu phiền Một tiểu thư đã gửi cho người tình của mình phần đầu bài tanka với ba câu như trên với ý trách móc người yêu lỗi hẹn. Sau đó, người ấy nhận được và làm tiếp phần còn lại thành một bài tanka trọn vẹn. Muốn gặp em trong mộng Nhưng rồi anh ngủ quên. Một bài tanka được sáng tác như trên gọi là renga. Giới quý tộc thời Heian rất thích lối sáng tác như thế và trở thành cuộc vui xướng thơ của họ. Sang thời Mạc Phủ Kamakura thì thể renga từ một bài tanka như thế được nối dài ra thành một chuỗi thơ vô tận với hàng chục đoạn, hàng trăm đoạn… do các nhà thơ họa nối theo nhau. Đến thế kỷ XIV, lý luận về thơ renga ra đời với quy tắc chặt chẽ do nhà thơ tanka Nijo Yoshimoto nổi tiếng lúc bấy giờ biên soạn. Bước sang thế kỷ XV thì thơ renga đã vươn lên đến đỉnh cao thực sự của mình. Thơ renga trở thành niềm say mê đế mức được tôn thờ như một tín ngưỡng “thiêng liêng hóa”. Người ta mua các bài thơ renga từ các nhà thơ đem đến vườn chùa để cầu phúc trước khi đi chiến đấu hay sinh nở. Cũng trong giai đoạn này các trường phái renga ra đời. Đó là phái Ushin (hữu tâm) theo phong cách tao nhã của thơ ca truyền thống và phái Mushin (vô tâm) của sự dung tục và đùa cợt trong thơ. Ban đầu phái Ushin chiếm ưu thế với đỉnh cao là Sogi. Lúc này, đoạn thơ khởi xướng phần thượng cú gọi là hokku viết với hình thức 17 âm tiết (5-7-5) đã chiếm một vị trí đặc biệt thường do các nhà thơ nổi tiếng soạn trước. Phần còn lại dành cho các đối tác khác thích xướng họa. Về sau đến thời Edo thì phái Mushin lại tạo được danh thế với thể renga trào lộng còn gọi là haikai no renga (bài hài liên ca), gọi tắt là haikai, do tầng lớp thị dân thích đùa cợt phóng túng. Đồng thời thể haikai cũng dễ sa vào sự dung tục chắp nối, gượng ép thiếu tâm hồn thơ. Chính Soin (1605-1682) đã góp phần đưa haikai ra khỏi sự dung tục và giải trí đơn thuần. Rồi định mệnh lại an bài haikai cho Basho. Thiên tài Basho đã đưa haikai thoát khỏi lối chơi tầm thường bằng sự dung hợp cả cái vô tâm lẫn hữu tâm, sự trào lộng đời thường của haikai hiện đại với sự tao nhã tâm linh của renga cổ điển vào trong 17 âm tiết của một bài hokku. Từ đấy, hokku không phụ thuộc vào renga nữa, nó trở thành một thể thơ độc lập và có tên là haikai hay haiku. Tên gọi này có từ thời nhà thơ Shiki (1867-1902) trở đi. Haiku là do cách ghép thu gọn của hai từ haikai và hokku lại thành. Có thể nói renga đã làm nảy sinh một thể thơ độc đáo là haiku. Thơ haiku là một thể thơ độc đáo mang phong vị Thiền. Mỗi bài thơ được ví như một chiếc gương soi rọi thiên nhiên của bốn mùa và tâm hồn của nghìn đời. Từ đấy, thơ haiku phổ biến trên khắp thế giới nên các bài thơ 17 âm tiết như thế của Basho và người cùng thời với ông vẫn gọi tên ấy. Tên gọi haiku rất phổ biến trên sách báo tiếng Anh. Các từ haiku, hokku, haikai vẫn dược dùng lẫn lộn. Khi đến Việt Nam cũng thế, đặc biệt, ở trường Phổ thông gọi là haiku. Thơ haiku khi dịch ra tiếng nước ngoài thường được xếp thành ba dòng trông như ba câu. Còn trong chữ Nhật thì một bài haiku thường nằm gọn trên một dòng. Đây là nét riêng biệt của thơ haiku không thể lẫn với bất cứ thể thơ nào khác. Thơ haiku là khúc ca của bốn mùa. Mỗi bài thơ haiku đều có quí ngữ (kigo hay từ ngữ báo hiệu mùa). Nội dung thơ cô đọng trong cái cực ngắn. Thơ haiku chỉ miêu tả những cái gì ở thực tại và lặng thinh. Khoảng lặng ấy là “khoảng trống” của “chân không”. Ở thực tại là sự vật xuất hiện ngay thời khắc tinh khôi nhất như một đóa hoa triêu nhan A ! Hoa asagao Chiếc gàu vương hoa bên giếng Đành xin nước nhà bên. (Chiyo) Thơ haiku lấy thiên nhiên làm chủ đề và bộc lộ cảm xúc cô tịch (sabi), aware (bi ai), wabi (đà), karumi (khinh). Thơ haiku còn thể hiện triết lí về “thiên nhiên”. Tác giả Nhật Chiêu cảm nhận về thơ haiku như sau: “Một bài thơ haiku có thể chứa ba chiều của vũ trụ. Còn chiều thứ tư để dành cho người đọc” [5, trang 22]. Hay nhà thơ Paul (Pháp) cũng nói: “Tôi viết nửa bài thơ. Người đọc viết phần còn lại.” [5, trang 22]. Đó là những nội dung mà thơ haiku diễn đạt. Vậy, thơ haiku có nguồn gốc từ thơ ca truyền thống Nhật Bản. 2.2. Quá trình phát triển Thơ haiku có một quá trình ra đời lâu dài và phát triển thật mạnh mẽ. Thơ haiku ra đời từ thế kỉ XVI đến thế kỉ XVII, nó đạt tới đỉnh cao với Basho. Sau Basho còn có rất nhiều nhà thơ đã chọn haiku làm “con đường” để bước vào trong nghệ thuật, vào trong một lối sống, vào một “đạo” và mang những triết lí sâu sắc gọi là “hài cú đạo” (haikudo) hay “haiku no michi”. Đó là các nhà thơ Buson (1716-1784) “thi sĩ của mùa xuân” [6, trang 279], là Issa (1762-1826) “nhà thơ của nhân tình” [6, trang 282], là shiki (1867-1902), Onitsura (1660-1738), là Ryokan – “kẻ đại ngu” [6, trang 285]… Đối với họ sáng tác thơ haiku không chỉ là niềm vui mà còn là lối sống. Thơ haiku đến với họ bằng “con đường”, tức cái đạo mà thơ haiku chứa ở trong nó. Đấy là con đường sâu thẳm trong cái bình thường giản dị nhất giữa cuộc đời như Tagore đã từng nói: “Trong vội vã, ta bỏ quên những bông hoa bên hàng giậu ven đường…”. Hiện nay, Nhật Bản “tiếp tục” phát triển thơ haiku. Bài thơ haiku sau do Tiến sĩ Đoàn Lê Giang dịch từ thơ của tác giả Ozakihosai trong báo Tài hoa trẻ số 325 Chỉ một tiếng ho thôi Cũng một con người. Thay vì haiku cổ điển gồm ba câu nhưng ở đây tác giả chỉ dùng hai câu như để thể nghiệm cho thơ ở bước hiện đại. Xét đến cùng thì thơ haiku vẫn đến với mọi người bằng tinh thần Thiền tông đề cao thiên nhiên, đề cao cái đẹp thô sơ, mộc mạc, tầm thường, nhỏ bé nhưng chẳng tầm thường chút nào. Khi thơ haiku tỏa ra thế giới hay “haiku đã vươn xa ra ngoài biên giới Nhật, trở thành một dòng thơ của thế giới, ảnh hưởng đến thơ ca hiện đại. Thơ ca phương Tây trong những tìm kiếm và thể nghiệm của mình, đã nhiều lần đi theo phong thái haiku” [6, trang 183]. Thơ haiku được mọi người đón nhận nồng nhiệt. Người ta dịch thơ haiku từ tiếng Nhật, rồi nghiên cứu, khám phá những gì mà linh hồn thơ haiku chất chứa. Giới yêu thơ còn sáng tác thơ haiku bằng tiếng dân tộc mình như tác giả Nhật Chiêu đã trình bày: “Nói một cách chừng mực hơn, thơ haiku mà Basho đã hoàn thiện bằng thiên tài của mình, trở nên thể thơ quốc tế trong thế kỉ XX. Bên ngoài Nhật Bản, haiku chẳng những được nghiên cứu rộng rãi mà còn được các nhà thơ ở nhiều xứ khác nhau sáng tác bằng tiếng mẹ đẻ của mình, trong đó có cả Paul Eluard của Pháp, Octavio Paz của Tây Ban Nha và George Seferis của Hi Lạp”. [6, trang 274]. Ở Việt Nam, Trịnh Công Sơn, Chế Lan Viên… cũng đã từng tiếp thu, ảnh hưởng thơ haiku. Vậy, Thơ haiku bắt đầu hình thành vào thế kỉ XVI, đạt đỉnh cao ở thế kỉ XVII với Basho. Đến cuối thế kỉ XIX được nhà thơ Shiki định danh la haiku. Ngày nay, haiku lan ra thế giới thành một thể thơ được quốc tế đón nhận. 3. Tác giả Basho đỉnh cao của thơ haiku 3.1. Cuộc đời Basho là một trong những nhà thơ lớn của Nhật Bản. Basho nói về mình như sau: Tên tôi trên đời “một người lữ khách” mưa mùa thu ơi Ông chính là “một người lữ khách”, cuộc đời hành hương hành giả qua bao nhiêu mùa gió bụi. Có người bảo rằng ông đi trong im lặng “như ngày đi, như đêm đi, như mùa đi” [7, trang 15]. Cuộc đời thiền sư, nhà thơ Basho là như thế đấy. Matsuo Basho tên thật là Matsuo Munefusa sinh ngày 15-11-1644, trong một gia đình thuộc dòng dõi võ sĩ đạo samurai cấp thấp, ở thị trấn Ueno xứ Iga. Năm lên chín tuổi làm tiểu đồng cho con trai lãnh chúa xứ Iga là Yoshitada lớn hơn Basho hai tuổi. Hai người kết thành đôi bạn thân cùng vui chơi, học tập, làm thơ. Họ học làm thơ dưới sự hướng dẫn của thầy Kigin. Một số bài thơ do hai người sáng tác đã bắt đầu được đăng trên vài hợp tuyển thơ ca lúc bấy giờ là thời Tokugawa (Thời Bình an 1600-1868). Nhưng chẳng bao lâu Yoshitada mất lúc 24 tuổi. Sau đó, Basho lên núi Koya để đặt nạm tóc của bạn vào chùa. Chính nơi đây Basho cảm nhận được nỗi “vô thường” và niềm “cô tịch” sẽ dần thấm sâu vào từng câu chữ của ông. Basho quyết định rời khỏi xứ Iga dù không được phép của lãnh chúa Đại danh. Những năm tiếp theo ông sống ở Tyoto để tiếp tục học cổ văn Nhật và nghiên cứu cổ văn Trung Quốc cũng như thư pháp. Ông lại về thăm quê vài tháng. Năm 28 tuổi, Basho lên Edo, một thành phố thị dân (sau này là Tokyo). Ông học Thiền đạo và gia nhập văn giới Edo một cách nhanh chóng. Nơi đây có nhiều trường phái thơ. Thơ haiku lúc ấy còn gọi là hokku hay haikai chưa thành một thể thơ độc lập. Ban đầu Basho thử làm nhiều công việc khác nhau nhưng rồi dần dần ông trở thành người dạy sáng tác thơ haikai. Chính Basho đã dung hợp sự trào lộng đời thường của thể haikai hiện đại với sự tao nhã tâm linh của renga truyền thống làm nảy sinh thể haiku độc lập. Đặc biệt là năm 1675, Basho được mời tham dự renga với Soin. Cuộc gặp gỡ này là một ảnh hưởng có ý nghĩa trong đời Basho. Ở những năm gần 40 tuổi, Basho mới thật sự viết những bài haiku mang phong cách Basho tức “giải thoát haiku khỏi trò chơi chữ và ông là một với haiku, là một với vĩnh cửu” [7, trang 22]. Những năm cuối đời, để nuôi dưỡng tinh thần và cảm hứng thơ của mình. Basho làm cuộc du hành khắp đất nước. Ông vừa đi vừa viết du kí và sáng tác thơ haiku. Cuộc đời thi hào Basho có thể chia ra các giai đọan như sau: “Ba tiêu am”: một thương gia giàu có, ngưỡng mộ Basho xây cho ông một ngôi nhà ở Fukagawa, gần dòng Sumida. Cạnh nhà có trồng một cây chuối đọc là Basho (ba tiêu). Cũng từ đây, ông lấy “Basho” làm bút danh cho mình. Còn ngôi nhà ông ở gọi là Bashoan (Ba tiêu am). Nơi này ông cảm nhận được âm thanh của tiếng mưa rơi trên tàu lá chuối như những vần thơ của Bạch Cư Dị (Trung Quốc) Cách song tri dạ vũ Ba tiêu tiên hữu thanh mà ông viết bài thơ sau: Lá chuối tả tơi đêm nghe mưa tí tách xuống chậu sành không ngơi. (Đoàn Lê Giang dịch thơ) Từ đây ông bắt đầu học thiền đạo dưới sự hướng dẫn của thiền sư Butcho nên các bài thơ của ông thấm sâu tinh thần Thiền tông hay phong thái Basho định hình như Issa từng nói: “Basho rất khó bắt chước nhưng ở đó có sự hoàn thiện phong cách và tâm hồn” [6, trang 285]. Bài thơ sau là ví dụ Trên cành khô cánh quạ đậu chiều thu. Bài thơ đưa ta vào thế giới u huyền, cô tịch, thế giới “chân không” của Thiền (Zen). Được hai năm thì Ba tiêu am bị cháy trong một cuộc hỏa hoạn lớn ở thành phố Edo. Bạn bè và đệ tử xây lại nhà mới cho ông. Một năm sau, tức mùa thu năm 1684, Basho từ bỏ Ba tiêu am lên đường phiêu lãng làm “lữ nhân của phù thế”. “Những bước đường phiêu lãng”: Kể từ đây Basho dấn thân vào con đường gió bụi như các nhà thơ nổi tiếng: Lí Bạch, Đỗ Phủ của Trung Quốc; Sogi của Triều Tiên; Saigyo của Nhật Bản. Sau “những bước đường phiêu lãng” là bút ký Nozarashi kiko (Dã sái kỉ hành, tức Nhật kí gió mưa đồng nội) 1865 ra đời. Hai năm sau, Basho làm “chấn động” thế giới văn học bằng bước nhảy của một con ếch trong hợp tuyển thơ của ông và đồ đệ là “Hurunohi” (Xuân nhật), tức Mặt trời muà xuân Ao cũ con ếch nhảy vào vang tiếng nước xao. Có rất nhiều lời bình luận về bài thơ kì bí này. Basho lên đường đi tiếp về Kashima hành trình được kể lại trong tác phẩm Kashima kiki (1687). Ông về đây để thăm lại sư phụ là thiền sư Butcho và người bạn yểu mệnh năm xưa. Nhiều điều xiết bao gợi hồn ta nhớ những cánh hoa đào. Tiếp theo, Basho lang thang từ Edo đến bờ biển Suma, từ Akashi đến Sarahina để hưởng mùa trăng trên đỉnh Obasute. Nhưng chuyến đi dài nhất của Basho được thực hiện trong cuộc du hành lên phương Bắc năm 45 tuổi. “Con đường sâu thẳm”: Đây là cuộc du hành đầy khó khăn trắc trở và gian khổ để đến nơi còn sự hoang dã và huyền bí sâu xa. Mùa xuân 1689, Basho rời Edo đi lang thang suốt ba năm qua các thị trấn mới lạ như Nikko, Shirakawa, Sendai… rồi băng qua Honshu đến Sakata ở phía Tây biển Nhật Bản. Ông lặn lội xuống miền duyên hải và tạm dừng ở Ogaki. Kết quả “con đường sâu thẳm” là một cuộc hành trình nổi tiếng nhất trong văn học Nhật Bản vì nó để lại cho đời một kiệt tác văn xuôi xen lẫn thơ Oku no hosomichi (Áo chi tế đạo), tức Áo rơm cho khỉ. Basho lại tiếp tục bước lãng du, đến mùa đông 1691 ông trở về Edo. Trên đường đi, ông đã qua cố đô Kyoto, rồi về thăm quê nhà và cùng các bạn thơ du quan hồ Biwa. Ngoài ra ông còn ghé vào một mái lều nhỏ tên là Genjuan (Huyễn trú am) gần hồ Biwa. Và tùy bút Genjuan noki (Huyễn trú am chi ký) ra đời 1690 cùng một số tác phẩm khác. Trên “con đường sâu thẳm” Basho đã ghi lại biết bao cảnh đời, biết bao giấc mơ cũng như những nỗi buồn nhân thế… Chung một mái trọ phòng bên những du nữ ngủ trăng và hoa thu. (Đoàn Lê Giang dịch thơ) Hay: Hãy rung lên, nấm mồ giọng ta than khóc là gió mùa thu. “Con đường sâu thẳm” là sự cảm nghiệm của Basho về sự “vô thường” và “vĩnh cửu” của đời sống. Nhà thơ không chỉ trải nghiệm được cái huyền diệu của cuộc sống mà còn có thể truyền đạt được nó. Chính con đường sâu thẳm ôm lấy mọi phương diện của cuộc sống. Là cuộc hành trình đi tìm cái diệu kỳ của cuộc sống, cái đẹp cuộc sống đã bị xã hội Edo đánh mất. Đó cũng chính là Basho đang quay lại với thiên nhiên, với một nền văn hóa truyền thống mà phương Bắc xa xôi vẫn còn lưu giữ được. “Huyễn trú am” là niềm hạnh phúc ở am đời hư huyễn mà Basho đã kể lại: “và tôi lê chân dọc theo bờ biển hoang dại của phương Bắc, nơi mỗi bước chân băng qua cồn cát đều khốn khó. Tôi lang thang ven bờ hồ tìm nơi trú ngụ, một nhánh lau sậy mà chiếc tổ chim cộc trắng sẽ tấp vào trên dòng nước chảy. Đây là nơi Huyền trú của tôi, và nó đứng bên mạn núi gọi là Kokubi. Gần đây có một đền thờ xưa cũ, nơi tôi cảm thấy mình gột sạch cát bụi trần gian. Chủ nhân của nó đã bỏ đi từ tám năm trước, am còn lại phía sau giữa ngã tư đời hư huyễn”. Khi trở về Edo, Basho được mọi người đón tiếp trong niềm vinh quang của một nhà thơ lừng danh. Những năm tiếp sau đó, Basho sống trong cô tịch theo ý nguyện của mình “niềm cô tịch sẽ là bạn tôi và sự nghèo nàn là của cải tôi. Trong tuổi năm mươi, đấy là điều tôi tự nguyện”. Thời gian này thơ ca của ông cũng hướng về một lý tưởng gọi là karumi (khinh) tức sự nhẹ nhàng thanh thoát mà ông tìm thấy giữa ngay cuộc đời. Mưa mù sương phù dung một đóa làm mùa lên hương. Mùa xuân 1694 đến, Bashon lại một lần nữa quyết định tiếp tục dấn bước trên con đường “lữ nhân” để thăm phương Nam. Điểm dừng sẽ là Kyusu. Nhưng trên đường đi, Basho lâm trọng bệnh khi đến Usaka. Đệ tử khắp nơi tụ về bên giường bệnh của thầy mà họ yêu quý. Basho đã soạn một bài thơ từ biệt thế gian vào một đêm mùa đông (còn gọi là bài Từ thế chi ca). Đau yếu giữa hành trình chỉ còn mộng tôi phiêu lãng trên những cánh đồng hoang. Nhà thơ Basho đã ra đi vào ngày 12-10-1694 theo đúng như lời người đã dự đoán “tôi sẽ chết trên đường, đó là định mệnh” lúc tuổi năm mươi. Basho mất đi, được chôn cất ở một ngôi chùa “được phong thần trong nhiều ngôi đền thần đạo, có đền còn lấy tên theo câu thơ của ông về tiếng vang của nước do con ếch nhảy vào” [7, trang 42]. Mười ba năm sau khi Basho mất, nhà thơ lớn Onit Sura đã đọc bài thơ sau: Những giấc mơ hoa những cánh đồng cháy rụi cơn gió thở than qua. để tưởng nhớ về nhà thơ về bài Từ thế chi ca của ông. Trên khắp Nhật Bản nơi nào Basho đi qua dường như đều được dựng lên những tấm bia kỉ niệm và đã có hơn 300 tấm như thế, thường thì những tấm bia có khắc các bài thơ haiku của Basho. 3.2. Sự nghiệp sáng tác Cả đời thiền sư Basho gắn liền sự nghiệp sáng tác với những bước đường phiêu lãng du hành khắp nơi làm cảm hứng sáng tác. Những trang bút ký và những bài thơ haiku huyền bí để lại cho hậu thế. Sau khi nhà thơ mất đi, một số đệ tử của ông đã tập hợp các bài thơ của ông thành Basho shi chi bu shu (Ba tiêu thất bộ tập) tức là bảy tác phẩm. Sự nghiệp sáng tác của nhà thơ Basho để lại cho đời là: Ngày đông (1684), Cánh đồng hoang (1689), Áo tơi cho khỉ (1691), Bao đựng than (1694), Du kí Lang thang đồng nội (1685), Đoản văn trong đẫy (1688), Nẻo đường Đông Bắc (1689)... góp phần đưa Basho thành bậc vĩ nhân của văn hóa Nhật Bản: “Nước Nhật sinh ra cùng với Basho vào năm 1644. Ông chính là người sáng tạo ra linh hồn của Nhật Bản” [6, trang 274]. Con người sinh ra là để được lớn khôn cũng như loài chim trời sinh ra là để được bay cao. hoalucbinh ☆ ☆ ☆ ☆ ☆ Chưa có đánh giá nào Chia sẻ trên Facebook Tìm hiểu giá trị thẩm mỹ của thiên nhiên trong thơ Basho (3) Đăng bởi hoalucbinh vào 25/05/2008 03:25 Đã sửa 2 lần, lần cuối bởi hoalucbinh vào 25/05/2008 03:56 Tác giả: Nguyễn Thị Bích Duyên CHƯƠNG II: QUAN NIỆM VỀ THIÊN NHIÊN CỦA NGƯỜI NHẬT 1. Cảm thức về thiên nhiên của người Nhật Đối với mỗi xứ sở dân tộc, mỗi con người, thiên nhiên lúc nào cũng hiển hiện ngay trước mắt nhưng nó lại được cảm nhận khác nhau ở mọi lúc mọi nơi. “Thiên nhiên” còn tượng trưng cho văn hoá của từng dân tộc. Chúng ta đi tìm hiểu thiên nhiên cũng chính là tìm hiểu văn hóa của dân tộc hay nói khác đó là tìm hiểu cách giao cảm với con người và giao cảm với chính thiên nhiên của dân tộc đó. Đồng thời, mỗi xứ sở dân tộc đều có những quan niệm khác nhau về thiên nhiên. Người Hy Lạp cổ đại xem thiên nhiên như “Một năng lực sáng tạo”. Còn dân tộc Nhật thiên nhiên lại mang ý nghĩa huyền bí sâu xa. Do vậy, người Nhật có cảm thức riêng về thiên nhiên của dân tộc mình. Họ tìm thấy từ thiên nhiên mọi cái đẹp, tình yêu và thơ ca. Thiên nhiên là nơi để con người gửi hồn vào tha hồ ngụp lặn, cảm nhận được mọi vẻ đẹp nảy sinh bao tình cảm và là linh hồn của thơ ca. Cảm thức thiên nhiên của người Nhật dựa trên ba yếu tố sau: 1.1. Thiên nhiên biến đổi theo vòng luân hồi của vũ trụ Thiên nhiên trong cảm nhận của người Nhật giống như trong Kinh Dịch: “Nam nữ cấu tinh, vạn vật hóa sinh”. Thiên nhiên không đứng yên một chỗ mà di chuyển theo vòng xoay vô tận của các mùa để “ biến đổi hóa sinh”, ra đi rồi lại trở về. Đã rơi năm nào tuyết mà ta ngắm bây giờ lại rơi ? (Basho) Trong thiên nhiên biến đổi ấy, con người, cỏ cây, muông thú không ngừng sản sinh. Đó là yếu tố thứ nhất trong cảm thức thiên nhiên của người Nhật. 1.2. Thiên nhiên chứa đựng bí ẩn siêu phàm Tính thần linh là yếu tố thứ hai trong cảm thức thiên nhiên của người Nhật. Người Nhật luôn tự hào là con cháu của Nữ thần mặt trời. Đất nước của họ là vương quốc Mặt trời mọc. Với họ, cỏ cây sông núi đều có bóng dáng của thần linh hay ẩn chứa một cái gì đấy siêu phàm. Thiên nhiên của họ được coi là có tính thần linh. Họ sùng bái tôn thờ thiên nhiên biểu hiện cho niềm tin ấy. Vì vậy, họ có “Thần đạo”. Trong cảm nhận của người Nhật, thiên nhiên còn có sự hòa, hợp trật tự mà biểu trưng là bộ ba vật “đế biểu” (thanh kiếm - chiếc gương - vòng ngọc). Do đó, họ tìm thấy cái thần và vẻ đẹp của thiên nhiên. Khi ngắm hoa đào hay ngồi dưới bóng hoa, người Nhật không chỉ thưởng thức vẻ đẹp của hoa mà còn muốn giao cảm với linh thần của cây. Hay khi ngắm núi Fuji (Phú Sĩ) cũng thế, tức có một linh thần của núi trong tư tưởng họ Nơi mặt trời mọc người là một linh thần. (Vạn diệp tập) Tóm lại, tính thần linh của thiên nhiên là tín ngưỡng từ xa xưa của người Nhật. 1.3. Thiên nhiên và con người có một mối tương giao hòa hợp Người Nhật luôn tinh tưởng rằng con người được sống, được bao bọc chở che trong lòng thiên nhiên. Thiên nhiên hiện hữu bình đẳng với con người. Cả hai quan hệ gắn bó kết giao tình thân thiết. Thiên nhiên không phải là cái để con người chinh phục và đối lập với con người. Vì thiên nhiên và con người là những biểu hiện vòng luân hồi của vũ trụ nên con người hòa đồng vào thiên nhiên bằng sự giao cảm từ tâm hồn trong trạng thái “chân không” của Thiền tông. Thế giới chân không là nơi sâu thẳm của sự an lạc “sung thực không hư” [8, trang 247]. Đó là một chân không đầy ắp thiên nhiên, là nơi con người tìm lại mình từ trong lòng th

Matsuo Basho 松尾笆焦 (Tùng Vĩ Ba Tiêu, 1644-1694), thiền sư thi sĩ lỗi lạc của thời Edo 江戶 tại Nhật Bản, tên thật là Matsuo Munefusa, con trai út thứ bảy của một samurai cấp thấp phục vụ cho lãnh chúa thành Ueno, một ngôi thành nằm giữa con đường đi từ Kyoto đến Ise. Basho được thừa nhận là người phát triển những câu đầu (発句, phát cú) của thể renga (連歌, liên ca) thành một thể thơ độc lập mang âm hưởng sâu thẳm của Thiền đạo. Masaoka Shiki (1867-1902) hoàn thiện sự tách biệt này thêm nữa và chuyển sang gọi nó là thể haiku (俳句, bài cú).

Lối lên miền Oku

Xuân nhật - 春の日

 

Ảnh đại diện

Bụt hiện từ bi

Bụt hiện ở nơi nào? thì cũng như: vầng trăng hiện ở nơi nào, cũng như gió thổi qua nơi nào và mây bay nơi nào.

Trong thơ của Huyền Quang tôn giả, Bụt hiện ra như gió như mây:
Nương am vắng,
Bụt hiện từ bi,
Gió hiu hiu,
Mây nhè nhẹ.
Khi tâm là gió, là mây thì Bụt hiện. Khi tâm là am vắng thì Bụt hiện. Thế thôi mà. Bụt còn biết hiện vào đâu ngoài nơi chốn của niềm êm dịu từ tâm? Khi lên chùa Vân Yên (xứ Khói Mây), Huyền Quang tôn giả hẳn đã muôn lần chiêm quan cảnh Bụt hiện từ bi.
Thì cũng như khi Bashô hành hương đến một ngôi chùa hoang phế ở Awa:
Nền đá hoang tàn
lung linh bóng nắng
Bụt hiện dung nhan
Bashô
(Jôroku ni
kagerô takashi
ishi no ue)
Đấy là một ngôi chùa thực sự hoang phế. Nền đá trống trải, trơ trọi không còn dấu vết một pho tượng Phật nào. Chỉ còn ánh nắng toả chiếu như sóng gợn. Và trong ánh nắng mùa Xuân ấm áp ấy, Bashô chiêm ngưỡng dung nhan của Bụt. Với Bashô, nắng Xuân tự hoá thân thành Bụt.

Đấy là cách mà Huyền Quang ở Việt Nam thế kỷ XIV và Bashô ở Nhật Bản thế kỷ XVII đã nhìn thấy Bụt.

Nhìn thấy Bụt trong nắng, trong mây, trong gió, trong ánh trăng.

Như Thiền sư Như Mãn đời Đường. Vua Đường Thuận Tông hỏi Thiền sư:
- Phật đản sinh phương nào, nhập diệt về nơi nào? Phật thường trụ ở đời nhưng bây giờ thì ở đâu?

Thiền sư đáp:
- Phật từ vô vi đến, khi diệt về vô vi. Pháp thân đồng hư không, thường trụ chốn vô tâm, có niệm về vô niệm, có trụ về vô trụ, đến vì chúng sinh đến, đi vì chúng sinh đi... Có duyên Phật ra đời, hết duyên Phật nhập diệt, mỗi nơi giáo hoá chúng sinh như bóng trăng hiện dưới nước...
(Ngũ đăng hội nguyên tiết dẫn, Thích Phước Hảo dịch)
Như vầng trăng thu, Bụt theo duyên mà hiện mà tan.
Vầng trăng tan nhanh
trong giọt mưa đọng
đó đây trên cành.
Bashô
(Tsuki hayashi
kozue wa ame wo
mochinagara).
Chung quanh bài thơ, Bashô còn nói rõ: “Bầu trời đã rạng đông một chút... Trong ánh trăng, âm thanh của những giọt mưa đầy niềm bi cảm; tâm hồn tôi như thể dâng tràn, nhưng lời thì bất khả”.

Bụt ra đi trong những giọt mưa trăng ấy, trong muôn nghìn giọt sương. Bụt là Như Lai, là Đến, là Đi như thế, từ vô lượng thời gian đến nay. Đến và Đi như tiếng gõ trên cánh cổng chùa xưa:
Cổng mờ phai
chùa Mii tôi gõ
dưới trăng đêm nay.
Bashô
(Miidera no mon
tatakaba ya
kyô no tsuki)
Bụt ở đâu khi ta gõ cửa chùa? Đó tựa như là một công án. Nhưng vầng trăng thu viên mãn sáng ngời kia không phải là hào quang của Bụt sao? Và đó cũng chính là ánh sáng của tâm. Như cái nhìn của Thiền sư Myoe từ thế kỷ XIII:
Tâm tôi rạng ngời
ánh sáng tinh khôi
mà trăng cứ ngỡ
đấy là ánh sáng
của mình trăng thôi.
(Kuma no naku
sumeru kokoro no
kagayakeba
waga hikari to ya
tsuki omou kana)
Điều đó có nghĩa là ánh sáng trong trái tim ta “đồng chất” với ánh sáng của vũ trụ. Chính là Bụt ở trong tim ta được phóng chiếu vào vũ trụ này. Ta mang trái tim đi là mang cả vũ trụ đi.

Ta mang trái tim đi, đi về cõi vô tâm. Như Huyền Quang tôn giả đã nói:
Bao nhiêu phong nguyệt,
về cõi vô tâm.
Trong cõi vô tâm ấy, Huyền Quang trở thành Bồ tát của cuộc tiêu dao vũ trụ:
Ta nay:
ngồi đỉnh Vân Tiêu
cỡi chơi Cánh Diều.
Cũng như cuộc tiêu dao đêm thu của Bashô:
Trăng thu
cùng tôi phiêu lãng
suốt đêm quanh hồ.
(Meigetsu ya
ike wo megurite
yomosugara)
Cả hai đều là trẻ thơ vô tâm, đùa chơi với trăng, với núi, với hồ. Đùa chơi với cỏ, với mưa với gió.

Chỉ cần cỏ chiều lả lướt trong gió, đỉnh non tắm gội mưa chiều cũng đủ là pháp vui cho Huyền Quang, một thiền sư xem cái đẹp của vũ trụ này là hiện thân của Bụt: Cái Đẹp chính là Bụt hiện từ bi.
Cỏ chiều gió lướt
dợm vui vui
Non tạnh mưa dầm
màu thúc thúc.
(Huyền Quang)
Ta có cảm tưởng như thiền sư thi sĩ kỳ tài này trú thân trong gió thổi qua cỏ và mưa bay qua núi, cái trú thân kỳ lạ mà Bashô có nhắc tới:
Ngồi đây
tôi xây gió mát
mà trú thân này
(Suzushisa wo
waga yado ni shite
nemaru nari)
Trú thân trong gió mát. Nhưng gió từ đâu vậy? Ngọn gió mát thực sự chỉ thổi trong trái tim con người. Đó là cái êm dịu từ tâm mà Huyền Quang và Bashô luôn mang theo trong mình, trong những cuộc phiêu lãng hành cước mênh mông của họ. Vài thế kỷ ngăn cách họ (Huyền Quang sinh năm 1254 và Bashô sinh năm 1644) nhưng tâm hồn của hai nhà thơ Thiền vĩ đại này lại rất gần nhau.

Cách mà họ an trú giữa cõi đời bụi:
Buông niềm trần tục
náu tới Vân Yên.
(Huyền Quang)

Muốn náu thân tôi
trong rừng mùa hạ
dưới bóng cây sồi.
(Bashô)
(Mazu tanomu
shii no ki mo ari
natsu – kodachi)
Núi Yên Tử của Huyền Quang hay khu rừng mùa hạ của Bashô không phải là những nơi xa đời. Đó chỉ là biểu tượng của nơi an trú tâm linh của mỗi người.

Bởi vì Huyền Quang tôn giả không chỉ náu mình ở chùa Vân Yên, Yên Tử. Ông còn là "Con thuyền nhỏ lướt gió mà chơi trên dòng sông mênh mang" (Tiểu đỉnh thừa phong phiếm diểu mang – Huyền Quang).

Và tất nhiên Bashô không chỉ trú thân trong khu rừng mùa hạ. Ông luôn luôn tự gọi mình là “từ nhân” (Tabibito).
Tên tôi trên đời:
một người lữ khách
mưa mùa thu ơi!
(Tabibito to
waga na yobaren
hatsushigure)
Từ bỏ một chức quan trị thuỷ, Bashô rong chơi khắp xứ, làm thơ, làm bạn với hoa đào.
Huyền Quang cũng rời bỏ quan trường, lang thang khắp Kinh Bắc, mang theo mình pháp vui, làm bạn với hoa mai hoa cúc.

Nhìn ngắm hoa mai, Huyền Quang không giấu nổi niềm cảm phục vô bờ. Hoa đứng một mình trên núi tuyết, cao nhã vô song. Dường như có oai nghi của Bụt, thanh cao của Bụt trong cành mai trắng mùa xuân đó:
Dục hướng thương thương vấn
sở tòng
Lẫm nhiên cô trĩ tuyết sơn trung?
(Vọng hỏi trời xanh –
tự chốn nào
Một mình dẫm tuyết giữa
non cao?)
Mai sống một mình trên núi, trở thành trang kinh của Người biết sống một mình. Một mình Huyền Quang tôn giả trên đỉnh Vân Yên đó chăng?

Hoa mai của Bashô cũng thế, đứng một mình trên con đường núi, ngát hương một mình. Ấy thế mà, làn hương của nó đã thức dậy một mặt trời:
Hương hoa mơ ơi
con đường núi mọc
bỗng nhiên mặt trời
(Ume ga ka ni
notto hi no deru
yamaji kana)
Hoa mơ xông hương bởi vì mặt trời hay mặt trời mọc lên bởi vì mùi hương hoa mơ. Mặt trời cũng lẫm liệt đứng một mình trên cao, cũng là một bông hoa lạ. Và một mình Bashô trên đường núi, làm thơ một mình.

Với hoa cúc, Huyền Quang tôn giả càng ưu ái hơn:
Hoa tại trung đình, nhân tại lâu
Phần hương độc toạ tự vong ưu
Chủ nhân dữ vật hồn vô cạnh
Hoa hướng quần phương xuất nhất đầu.
(Hoa ở trong sân, người tại lầu
Ngồi im, hương đốt, tự quên sầu
Ta cùng với vật không tranh cạnh
Đi giữa muôn hoa, cúc dẫn đầu)
Vẫn là một Huyền Quang ấy, ngồi một mình trên núi, ngồi một mình đốt hương. Hoa và người cùng xông hương. Cùng xông hương, chứ không cạnh tranh hơn thua, không phân biệt người vật, không định ngôi chủ khách.

Vì người là hoa. Vì hoa là người. Vì vũ trụ là hồn nhiên.

Và đây là cái nhìn của Bashô đối với hoa cúc:
Dẫu thân hao gầy
cành hoa cúc ấy
nụ đang căng đầy
(Yase nagara
wari naki kiku no
tsubomi kana)
Mai gầy, cúc yếu... cành hoa nào cũng gầy yếu. Nhưng có thật là yếu ớt không, những bông hoa ấy? Hãy nhìn vào nụ đi, nhựa đang căng trong ấy. Hãy nhìn vào nhuỵ đi, phấn đang bay trong ấy.

Hãy nhìn những bước đi dịu dàng, những nụ cười dịu dàng, những ánh mắt dịu dàng. Trong mỗi cái dịu dàng đều có một sức mạnh lớn lao, lớn hơn mọi quyền uy.

Đây là uy lực của mùi hương hoa đào trong thơ Bashô:
Chuông chùa tàn dần
hương hoa đào buổi tối
vẫn còn vang ngân.
(Kane kiete
hana no ka wa tsuku
yùbe kana)
Mùi hương có âm vang ư? Có thể nghe âm vang của một mùi hương? Bashô đã nghe như thế. Ông đã nghe hoa đào thì thầm với ông biết bao nhiêu điều khi ông trở về Ueno sau hai mươi năm xa cách: Hoa đào ta ơi, xui hồn ta nhớ, bao điều xa trôi.

Bashô nghe hoa, ăn hoa và ngủ với hoa:
Tôi muốn ngà say
ngủ mơ trên đá
hoa cẩm chướng đầy.
(Youte nemu
nadeshiko sakeru
ishi no ue)
Bài thơ cũng gợi đến giấc ngủ trưa (ngọ thuỵ) của Huyền Quang tôn giả:
Vũ quá khê sơn tịnh
Phong lâm nhất mộng lương
Phản quan trần thế giới
Khai nhãn tuý mang mang.
(Mưa qua, khe núi trong
Rừng phong say giấc mộng
Ngoảnh nhìn đời bụi bặm
Mắt mở mà say mòng)
Đó là giấc mộng và cơn say của những hiền nhân. Họ ngủ với hoa, với rừng, với sự thanh tịnh của đá và cái trong trẻo của khe núi. Họ say mòng với mùi hương cẩm chướng và hơi mát của mưa.

Họ thực sự sống dẫu đang mộng và say. Có thể nói họ tỉnh giác bằng cơn say và giấc mộng.
Cho nên, đừng ngạc nhiên khi Huyền Quang tôn giả hết ngủ trưa (ngọ thuỵ) lại ngủ ngày (trú miên):
Mộc tê song ngoại thiên cưu tịch
Nhất chẩm thanh phong trú mộng dư
(Chim cưu vắng tiếng ngoài song quế
Gối mát còn dư giấcmộng ngày)
Hoặc là trong giấc đêm thu, ông và mái nhà đìu hiu cùng gối đầu vào lùm dây leo xanh biếc, cùng gối đầu vào tiếng dế kêu thiết tha:
Thu phong ngọ dạ phất thiềm nha
Sơn vũ tiêu nhiên chẩm lục la
Dĩ hĩ thành thiền tâm nhất phiến
Cùng thanh tức tức vị thuỳ đa!
(Gió thu đêm vắng phấtqua mành
Nhà núi đìu hiu dựanhánh xanh
Có kẻ thành thiền tâmnhất phiến
Vì ai tiếng dế vọng vang thanh!)
Gió thu và tiếng dế cứ xao động, cứ vang vọng. Tâm thiền vẫn trong suốt và tịch liêu, gối vào những nhành xanh biếc của dây leo, của thiên nhiên, của đêm thanh.

Như một bài haiku về tiếng ve của Bashô:
Tịch liêu
thấu xuyên vào đá
tiếng ve kêu.
(Shizukasa ya
iwa ni shimi iru
semi no koe)
Tiếng dế của Huyền Quang vẫn vang vọng qua nghìn đêm mùa thu. Tiếng ve của Bashô vẫn xuyên thấu muôn trùng vách đá.

Để làm gì vậy? Để tạo dựng thế giới của tâm thiền, của an nhiên và tịch liêu, nơi mọi âm thanh có thể vang ngân mà vẫn không gây một chút vọng động nào, nơi Huyền Quang và Bashô nằm ngủ dưới hoa rơi, nơi Bụt hiện trong hoa đào, hoa mơ, hoa cúc.

Và Bụt hiện trong một làn hương vô danh:
Từ cây hoa nào
mà ta không biết
một làn hương trao!
Bashô
(Nan no ki no
hana towa shirazu
nioi kana)
Làn hương vô danh đó chính là bụt hiện từ bi.

Nhật Chiêu
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Lệ và sương

Tác giả: Nhật Chiêu


Trong những hình ảnh thiên nhiên và cuộc đời của thơ Haiku, có hình ảnh Mẹ, như ta có thể thấy qua thơ Bashô và Issa.

Một kỷ niệm về mẹ được Bashô kể lại rất xúc động trong cuốn nhật ký du hành viết vào năm 1684 (Nozarashi Kiko) như sau:

"Cuối cùng tôi đến quê nhà vào đầu tháng Chín. Cây hoa hiên mà mẹ thường trồng trước phòng bà giờ không còn nữa, có lẽ đã chết vì sương giá. Tất cả mọi thứ khác cũng đã đổi thay. Gương mặt anh tôi đã hiện nếp nhăn trên trán và tóc bạc nơi thái dương. Chúng ta vẫn còn sống, anh chỉ nói thế. Rồi, không lời nào nữa, anh mở một chiếc túi kỷ niệm mà nói: Hãy nhìn mớ tóc sương của mẹ đây này. Đây là chiếc hộp linh thiêng của Urashima đấy, ta cũng sẽ bạc đầu".

Urashima là chàng ngư phủ huyền thoại, đã lấy công chúa Thuỷ cung mà còn nhớ nhà. Chàng về quê, mang theo chiếc hộp của công chúa cho, dặn đừng mở ra, nhưng chàng đã mở. Tuổi già ập xuống, tức thì tóc bạc và da nhăn.

Nhưng Bashô, cũng như Urashima, không thể không mở chiếc hộp của thời gian. Để thấy lại quê hương, ngày xưa và mẹ.

Bashô đã khóc khi nhìn mớ tóc sương còn lại của mẹ hiền. Sau đó, ông viết bài Haiku này:

 Te ni toraba kien
 Namida zo atsuki
 Aki no shimo
 Tóc mẹ còn đây
 Tan trong lệ nóng
 Sương mùa Thu bay

Nhà thơ muốn cầm món tóc của mẹ trên tay, nhưng e rằng nó sẽ tan trong lệ nóng của mình như sương mùa Thu vậy. Hay là sương mùa thu kia cũng có thể tan rã vì những giọt lệ nhớ thương mẹ của mình. Tóc sương và sương mùa Thu như hoà lẫn vào nhau.

Không còn mẹ là một nỗi đau. Bashô đã chuyển hoá nỗi đau đó vào nghệ thuật, vào thiên nhiên. Và vượt lên nỗi đau.

Để vượt lên nỗi đau, Thiền sư thi sĩ ấy đã chuyển hoá nó vào cõi vô ngã là thiên nhiên. Tóc mẹ trở về với sương mùa Thu. Nhưng vẫn còn lại đoạn văn và bài thơ bất hủ về mẹ của Bashô. Nhắc nhở ta rằng mỗi người là một Urashima, một Từ Thức, nghĩa là một kẻ nhớ cố hương, muốn đi ngược thời gian tìm lại mẹ.

Tóc mẹ còn đây, nó gợi lên hạnh phúc khi ta còn ngồi bên mẹ, hoặc trong lòng mẹ. Đó là những ngày nắng đẹp khi còn mẹ.  

Còn bây giờ, ta là người của những dòng lệ nóng, lạc lõng giữa trần gian. Là người của những mùa Thu cuộc đời, đi trong sương mù.

Sương mùa Thu, sương mùa Thu... là những tiếng kêu của nhà thơ khi nhớ về mẹ. Cây hoa hiên của mẹ đã chết vì sương mùa Thu, mái tóc của mẹ đã bạc trắng vì sương mùa Thu.

Lệ Bashô rơi cũng vì sương mùa Thu. Nhưng sương mùa Thu có thể tan vì nước mắt con người rất nóng. Bên cạnh Bashô, Issa là nhà thơ vĩ đại khác của thế giới Haiku. Issa là kẻ bất hạnh, mất mẹ từ năm lên ba. Hơn ai hết, Issa hiểu mẹ quan trọng như thế nào trong cuộc đời mỗi con người.

Nhà thơ đó vào thời ấu thơ chỉ biết chia sẻ nỗi đau của mình với một con chim mồ côi lạc loài:

 Ore to kite
 Asobe yo oya no
 Nai suzume.
 Đến đây nào, với tôi
 Cùng chơi đùa, chim sẻ
 Không còn mẹ trên đời.

Và lớn lên, Issa lại chia sẻ nỗi đau đó với biển:

 Naki-haha ya
 Umi miru tabi ni
 Miru tabi ni
 Mẹ yêu ơi!
 Mỗi khi nhìn thấy biển
 Khi thấy biển khơi...

Vì không có mẹ, mới mười bốn tuổi Issa đã trở thành một kẻ lang thang, kiếm sống bằng đủ mọi nghề trên nước Nhật vào giữa thế kỷ mười tám. Với kiếp sống như vậy, gió mùa Thu cũng trở thành địa ngục, một thứ địa ngục bám theo Issa:

 Aki no kaze
 Ware wa nairu wa
 Dono jigoku
 Gió mùa Thu
 Địa ngục nào đấy
 Cùng tôi giang hồ.

Nhưng Issa không còn oán hận cuộc đời. Ông quá yêu thương cuộc đời là khác. Ông yêu thương muôn loài: những con vật nhỏ bé như chim sẻ, con chuột, con ruồi...; yêu trẻ thơ, yêu thiên nhiên. Trái tim ông có quá nhiều yêu thương, còn chỗ đâu thù ghét.

 Nhìn biển, Issa nhớ mẹ
 Nhìn trăng, Issa nhớ Quan Thế Âm, cũng là một mẹ hiền khác:

 Meigetsu ya
 Taka Kannon no
 O hiza moto
 Ôi ánh trăng
 Đời ta đặt dưới
 Chân người, Quan Âm.

Quan Âm là vị Bồ tát lắng nghe tiếng kêu đau khổ của trần gian, cho nên chân đã đặt lên ngưỡng cửa Niết Bàn, Ngài vẫn sẵn sàng quay lại với tiếng kêu ấy, như mẹ quay về với con.

Ánh trăng, cũng như biển khơi, là biểu tượng của Mẹ. Cả hai đều đẹp, mênh mông, huyền diệu, sâu thẳm, bao dung, mầu nhiệm. Không có mẹ, Issa đã chọn vầng trăng - Quan Âm làm mẹ của mình. Chính vì thế mà, dẫu hứng chịu đủ mọi loại bất hạnh của cuộc đời (mẹ chết, vợ chết, các đứa con lần lượt chết trước mình), Issa vẫn còn lại một trái tim nhân hậu:

 Mata muda ni
 Kuchi aku tori no
 Mamako kana.
 Há mỏ chờ mồi
 Sao mà vô vọng
 Con chim mồ côi.

Issa thường đồng hoá mình với những con vật nhỏ bé, nhất là với con chim non mồ côi. Chẳng hạn như, dưới bài thơ trên, nhà thơ đã ghi "Tsubane no Issa" (Con chim én này - cũng có cả Issa. Tuy xem mình như một cánh én lạc loài, vô vọng bay giữa cuộc đời, nhưng điều kỳ diệu là Issa vẫn nhìn thấy ánh trăng là Mẹ, sông Ngân là Niết Bàn.

 Utsukushi ya
 Shoji no ana no
 Ama no gawa.
 Đẹp vô cùng
 Nhìn qua cửa giấy rách
 Ô kìa sông Ngân.

Và mỗi giọt sương, mỗi giọt sương trên đời đều là trân châu. Trong từng hạt trân châu đó, có mẹ hiền là cố hương.

 Tsuyu no tama
 Hitotsu hitotsu ni  
 Furusato ari
 Ôi những hạt sương
 Trân châu từng hạt
 Hiện hình cố hương.

Thơ Issa là thơ của người con tưởng nhớ mẹ. Và nhà thơ đem theo tình mẹ đi vào đời, để đồng hoá mình với những gì bé nhỏ nhất, như hạt sương.

 Nhưng mẹ thì vĩ đại  
 Và Issa là người con vĩ đại.

Nguồn: http://www.quangduc.com/VuLan/082levasuong-nc.html
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Tìm hiểu giá trị thẩm mỹ của thiên nhiên trong thơ Basho (2)

Tác giả: Nguyễn Thị Bích Duyên


CHƯƠNG I: THỜI ĐẠI

1. Khái quát văn học Nhật Bản từ khởi thủy đến nay: văn học Nhật Bản có thể chia ra 3 thời kỳ như sau:

   1.1. Thời cổ đại
Khởi đầu là thời Nara (Nại lương) thế kỉ thứ VIII chấm dứt thời kì “di đô” của Hoàng gia, mở đầu thời kì định đô của Nhật Bản (vì trước kia mỗi lần thiên hoàng mất đi, triều đình lại bỏ cung điện cũ chuyển đến nơi khác xây dựng cung điện mới). Trước thời Nara tính đã có hơn 60 kinh đô trên đất nước. Từ nay, Nara được chọn làm nơi đóng đô, gọi là kinh đô Nara hay HeijoKyo (Bình thành kinh) được xây dựng vào năm 710 theo lệnh nữ thiên hoàng Genmei và theo khôn mẫu là kinh đô Trường An của nhà Đường ở Trung Quốc. Người Nhật đã tiến những bước dài trong cuộc kiến tạo văn minh trên xứ sở của mình từ sau khi thống nhất và định đô tại Nara.
Vào khoảng đầu công nguyên, Nhật Bản có trên 100 xứ nhỏ (theo xử liệu Trung Quốc Hậu Hán Thư), thực ra đó chỉ là những bộ tộc tranh giành quyền lực với nhau. Trong đó Yamato (Đại hòa) là xứ hùng mạnh nhất và là nơi khởi nghiệp của các thiên hoàng. Nên “Yamato” cũng được dùng để chỉ nước Nhật xưa.
Theo bộ sử thi Nihonsoki (Nhật Bản thư kỉ) thì vào năm 552 Phật giáo đã theo người Triều Tiên du nhập vào xứ đảo quốc này và ít lâu sau được tôn làm Quốc giáo. Cùng với Phật giáo là Thần đạo truyền thống vẫn tồn tại bên cạnh. Cả hai đã liên kết dung hòa để phát triển bên nhau. Đồng thời, Nhật Bản còn tiếp thu các nền văn hóa Trung Quốc, Ấn Độ, Triều Tiên… để xây dựng nền văn hóa của dân tộc mình.
Vào thời kì này, nền văn học viết bắt đầu xuất hiện như: thơ, tùy bút, nhật ký, tiểu thuyết viết bằng chữ Hán, cũng ưa dùng điển tích Hán nhưng mang đậm chất Nhật Bản, bởi nó chứa đựng trong đấy là thiên nhiên và tâm hồn người Nhật. Những tác phẩm như Kojiki (Cổ kí sự) có nghiã là “ghi chép chuyện xưa” viết bằng tiếng Nhật qua dạng chữ Hán do Yasumaro – một học giả ưu tú đương thời biên soạn. Hay Nihonsoki (Nhật Bản thư kỉ) gọi tắt là Nihongi (Nhật bản kỉ) do thái tử Toneri và Yasumaro biên soạn. Hay Fudoki (Phong thổ kí), Kogoshui (Cổ ngữ thập di), các Norito (Chúc từ), Nihon Ryoiki (Nhật Bản linh di kí) năm 822, hợp tuyển thơ ca Kaifusso (Hoài phong tảo hay còn gọi là Hoài niệm thơ ca) năm 751 với 126 bài thơ chữ Hán làm theo lối Đường luật. Đặc biệt là tập thơ Manyoshu (Vạn diệp tập) “Nghìn chiếc lá” do thiên hoàng tổ chức và phát hành hoàn thành khoảng năm 771 với 4500 bài thơ trong ngôn ngữ Nhật bản với hầu hết là thể tanka của rất nhiều tác giả hữu danh và vô danh. Có thể nói Manyoshu là nơi quy tụ mọi tâm hồn trên toàn cõi Nhật. Đó là khúc hát giao mùa của thiên nhiên và cả tâm hồn con người
Đàn nhạn bay về
Cây phong của ta ơi
Đến lượt em rồi đó
Đã sang mùa
Em hãy đổi màu đi.
( bài 2183 – vô danh)
Tóm lại, nền văn học Nhật Bản thời Nara là “buổi bình minh văn học Phù Tang” [6, trang 11] nên chưa định hình rõ phong cách.

Thời Heain (Bình an) từ 794-1185: Vào năm 794, thiên hoàng Kanmu dời đô về Heian (Kyoto) chấm dứt những rối ren ở Nara mở đầu cho thời đại thái bình kéo dài ngót bốn thế kỉ. Heian nghĩa là Bình an là một trong những kinh đô có cuộc sống kéo dài từ thời cổ đại đến cận đại tức năm 1868.
Thời kì này văn hóa Nhật Bản phát triển trong một tinh thần độc lập và tự tin. Với phong trào tân hưng Phật giáo như: chủ trương đọc kinh, không phân biệt nam nữ, đề cao nghệ thuật. Sau đó là hệ thống văn tự Kana thay thế cho cách mượn chữ Hán để phiên âm tiếng Nhật.
Thời Heian, gia tộc Fujiwara chiếm một địa vị quan trọng trong cung đình cũng như lịch sử Nhật Bản và thật sự thống trị triều đình. Giới quý tộc vui hưởng cuộc sống xa hoa, ngắm trăng, đốt hương… Đó là sự tôn thờ cái đẹp trong nghệ thuật lẫn thiên nhiên. Cái đẹp trở thành tiêu chí của văn hóa. Cái đẹp được tôn thờ như là một tôn giáo. Chính nhờ xã hội quý tộc này những kiệt tác văn chương thể hiện một phong cách diễm lệ và tao nhã gọi là Miyabi của sự giao hòa êm ái giữa con người với nhau và với thiên nhiên.
Văn chương thời Heian “nở rộ như hoa cỏ mùa xuân”. Đặc biệt là sự đăng quang của các cây bút thiên tài nữ quý tộc và tác phẩm của họ trở thành tiêu biểu cho cả nền văn học thời Heian. Đây cũng là thời đại mà yếu tố “dân tộc” và “nữ lưu” đã phát tiết vẻ đẹp huy hoàng chưa từng có cho văn chương. Đến nỗi bước vào thế giới văn chương Heian là ta cảm nhận lập tức sự thoát ra một không khí diễm tình, đa cảm đầy mùi hương nữ tính.
Văn học giai đọan này đã bắt đầu hình thành phong cách Nhật khá ổn định và mang nét truyền thống sâu sắc chẳng hạn như những xúc cảm tinh tế về thiên nhiên, về nỗi buồn và cái đẹp đã trở thành đặc trưng truyền thống của mỹ cảm Nhật Bản “mononoaware” (bi cảm Nhật Bản). Về thể loại thì phong phú đa dạng: thơ ca, tiểu thuyết, nhật ký, tùy bút… với các tác phẩm: Các tập cổ kim tập, Thần nhặt bụi trần, Tiểu thư ánh trăng, Tiểu thư yêu sâu bọ, Sách gối đầu, Phù du ký và đặc biệt là tiểu thuyết truyện Genji Monogatari của nữ sĩ Murasaki. Đấy là quyển tiểu thuyết vĩ đại nhất của năn học Nhật Bản là một trong những kiệt tác vào bậc nhất của thế giới. Tiểu thuyết Genji Monogatari dài khoảng 1000 trang kể về chuyện tình của thái tử Genji hào hoa phong nhã. Qua cuộc đời Genji, Murasaki đã miêu tả lại hiện thực xã hội cung đình và đời sống người Nhật thế kỉ XI. Ngoài ra còn có sân khấu Noh với những gương “mặt nạ” người bất động ra đời.
Có thể nói thời Heian là thời của cái đẹp là thời rực rỡ nhất của văn học Nhật Bản từ trước đến nay.

    1.2. Thời trung đại (“Thời khói lửa”) từ thế kỉ XIII – XV
Mạc phủ Kamakura (Liêm thương): Đây là thời kì mà sự vinh quang của tầng lớp quý tộc bị rơi xuống thì ngọn sóng lịch sử lại đẩy lên một quyền lực mới thuộc về giới võ sĩ gọi là Bushido hay Samurai.
Năm 1192 Yoritomo trở thành tướng quân và thiết lập chế độ Mạc phủ (Bakufu) ở Kamakura. Đến năm 1333 Ashikaga đảo chính lật đổ tướng Kamakura và sau đó chiếm luôn Kyoto, lập thiên hoàng mới là Komyo. Thiên hoàng Godaigo về núi Yoshino lập triều đình mới. Từ đó diễn ra tranh chấp Nam Bắc và kết thúc 1392 chỉ còn lại thên hoàng Kyoto. Sau đó nữa là cuộc chiến tranh giữa các lãnh chúa địa phương kéo dài hơn một thế kỉ, 60 xứ “bốc mùi khói lửa” [6, trang 143]. Năm 1542 Nhật Bản được người Bồ Đào Nha phát hiện và từ đấy súng đạn phương Tây cũng xen vào khói lửa. Văn hóa thời Mạc Phủ chịu sự ảnh hưởng của khói lửa chiến tranh và tư tưởng tôn giáo Thiền tông (Zen). Các loại hình nghệ thuật gắn liền với Thiền tông cũng phát triển rất mạnh như: Trà đạo, kiếm đạo, hoa đạo, thi đạo… Một nền văn học dịu dàng trong sáng của Heian đã bị “khói lửa” làm nhòa đi thay vào đó là bóng tối bi đát trong từng trang tùy bút, trong lời ca ngâm của nghệ sĩ hát rong và trên sân khấu u huyền của kịch Noh. Có thể nói đây là thời kì võ sĩ và tu sĩ là lực lượng sáng tác chủ yếu của văn học. Cả hai loại thơ ca và văn xuôi đều phát triển với những tác phẩm tiêu biểu như: Nhà trên núi, Mây hoang dại, Ghi chép trong lều, Trầm tư trên cỏ, Những truyện kể theo tiếng đàn tì bà… và một loại hình nghệ thuật mới: sân khấu Noh phát triển mạnh vào thời kì này. Thời Mạc phủ là thời văn chương của võ sĩ và tu sĩ.

Thời Edo (“văn chương Phù thế”): Cuộc chiến tranh dai dẳng cũng đã đến hồi kết thúc. Tướng quân Tokugama Iegasa mở ra một thời đại mới gọi là thời Tokugana hay thời Edo (vì Edo được chọn làm Thủ phủ trở thành trung tâm văn hóa mới), với một nền hòa bình kéo dài gần 3 thế kỉ (từ 1600 – 1868). Dưới chế độ Mạc phủ Tokugana, học vấn phát triển mạnh mẽ cả Nho học lẫn Quốc học đến cả việc hình thành văn hóa và đạo lí của tầng lớp võ sĩ trên toàn cõi Nhật Bản. Đó là tinh thần võ sĩ đạo “Bushido”. Ngoài ra văn hóa Edo còn bị chi phối bởi hiện tượng chính trị khép mình theo lệnh tỏa quốc hay “bế quan tỏa cảng”. Nhưng hiện tượng nổi bật của văn hóa Edo lại chính là tầng lớp thị dân, chính vì vậy mà văn hóa Edo còn gọi là “Văn hóa thị dân” [6, trang 215]. Là thời của thị dân, nghệ sĩ, kĩ nữ… của những “Thành phố không đêm” [6, trang 215], của nhà hát, lữ quán… là nguồn đề tài phong phú cho các nhà soạn kịch, tiểu thuyết gia, họa sĩ và cả nhà thơ. Chính cái thị tứ ấy đã tạo nên một “nền văn hóa Phù thế”. Đời sống thường ngày và con người thường dân bắt đầu xâm nhập vào một thế giới mà mới đây dường như hãy còn là một cõi xa lạ đó là văn chương và nghệ thuật. Nho giáo được xem là chính thống. Đạo Thiên chúa bị cấm đoán. Thời kì đầu của Edo trải dài hơn một thế kỉ rưỡi. Nhật Bản được cai trị bởi mười tướng quân kể từ Ieyasu.
Sân khấu, nghệ thuật, điêu khắc, hội họa… phát triển mạnh. Hai loại hình sân khấu nổi trội là múa rối Joruri và Kabuki, trong hội họa là “hình ảnh ngọn sóng chính là biểu tượng của một thời đại đầy khát vọng” [3, trang 203]. Riêng văn học với nhiều thể loại để lại những thành tựu văn học đặc sắc như: tiểu thuyết gia bậc nhất Saikaku và “thế gian gia đình”, hay các tác gia tiểu thuyết khác như: Akinai, Ikku và Bakin…
Thơ thời Edo cũng xuất hiện với hình thức mới mẻ và giản dị vào hiện thực đời sống như thơ và văn xuôi vậy. Đó là thể thơ 17 âm tiết hay còn gọi là thơ haiku với bậc thầy của nó là Basho, bên cạnh còn có các tác gia khác như: Buson, Issa, Kikaku, Chiyo, Onitsuro... Có thể nói đây là thời rực rỡ nhất của thơ haiku đã làm cho Basho trở thành thi hào Nhật Bản.
Thời Edo là thời tự trị của văn chương Phù thế, vì văn chương Phù thế là văn chương của những ngọn sóng trần gian chỉ biết “con người tại thế” mà quay lưng lại với thần linh xưa cũ. Văn học cổ điển Nhật Bản kết thúc vào cuối thời Edo.

   1.3. Thời hiện đại  (1868 đến nay)
Đến giữa thế kỉ XIX Nhật Bản mới mở cửa giao lưu với các nước ngoại quốc kể từ sau chính sách “tỏa quốc” [3, trang 292] thế kỉ XVI. Rồi các hiệp ước được kí kết với Mĩ, Anh, Pháp, Hà Lan và Nga lần lượt ra đời. Chế độ Mạc phủ tướng quân bị tan rã. Quyền lực thuộc về thiên hoàng được phục hồi. Thiên hoàng mới là Meiji mới 15 tuổi. Từ đây, năm 1868 thời đại Meiji bắt đầu. Kinh đô Edo được đổi thành Tokyo. Nước Nhật lao vào cuộc Duy tân. Nền văn hóa, giáo dục phương Tây được du nhập vào Nhật Bản. Sinh viên Nhật Bản du học sang các nước phương Tây như ở thời Nara, Heian người Nhật từng sang Trung Quốc. Cuộc Duy tân Meiji đã làm bùng nổ sức mạnh của Nhật. Nhật gây chiến tranh với Trung Quốc, Nga rồi ngang nhiên sáp nhập Triều Tiên vào quần đảo của mình. Khi thiên hoàng Meiji qua đời vào năm 1912 và cuối thế chiến thứ nhất Nhật trở thành cường quốc lớn của thế giới. Sau đó, Taisho kế vị. Năm 1926, kỉ nguyên Showa bắt đầu với những rối loạn chính trị và tập đoàn Quân phiệt gây chiến dẫn đến nước Nhật thảm bại trong điêu tàn. Trong sáu năm tiếp theo, nước Nhật chịu sự chiếm đóng của quân Đồng minh là Mĩ. Năm 1947 Nhật Bản thi hành hiến pháp mới xem thiên hoàng “chỉ là biểu tượng của quốc gia” [3, trang 294] từ bỏ vũ lực quân sự… Từ đó, Nhật khôi phục kinh tế. Sau hai thập kỉ, Nhật trở thành quốc gia cường thịnh của thế giới.
Trong thời kì này, nền giáo dục Nhật Bản đã thành công rực rỡ với các công trình nghiên cứu khoa học đoạt giải Nobel như: Yukawa, Hideki và Tomogana Shinichiro. Còn về nghệ thuật ngành điện ảnh đã nhanh chóng phát triển. Về phương diện văn học làn sóng văn học phương Tây đã bắt đầu tràn vào Nhật Bản từ những năm 1880 qua các bản dịch. Tác phẩm đầu tiên của văn học Nhật  hiện đại là tiểu thuyết Ukigumo (Phù vân) 1887 của Futabotei Shibei. Sau đó hàng loạt các nhà văn lớn thời Meiji là Mori Ogai, Nagaikafu, Natrumei, Soseki… Họ thể hiện những băn khoăn đau khổ của con người trong cuộc sống đầy những giằng xé giữa mới và cũ. Đến thời Taisho xuất hiện truyện ngắn xuất sắc của Akutagwa Ryunosuke. Sang kỉ nguyên Shona lại là thời đại cực kì phong phú của văn học Nhật. Kawabata Yasunari và Oe Kenzaburoo đã vượt lên trên các nhà văn thơ cùng thời vươn ra thế giới nhận giải Nobel mang về vinh quang cho nền văn học xứ sở Phù Tang. Nhìn chung, tác phẩm của nhà văn hiện đại Nhật Bản ngày càng có tính quốc tế hơn trong đề tài và phong cách, nhưng vẫn giữ được nét đẹp riêng độc đáo của Nhật Bản.
Hiện nay, Nhật Bản đang đối đầu với những bất ổn của xã hội và kinh tế. Nước Nhật đã hiện đại hóa với một tốc độ chóng mặt và dường như tâm hồn Nhật cũng chịu sự căng thẳng và khủng hoảng nên những giá trị văn hóa là những gì ổn định nhất cần phải bảo tồn và phát triển.
Thời hiện đại của Nhật Bản là thời mọi giá trị của Nhật bản được vươn mình, soãi cánh ra thế giới trong đó có cả văn học Nhật Bản cũng đang là đối tượng được thế giới quan tâm. Đây cũng là thời kì đăng quang của các cây bút văn xuôi lỗi lạc.

2. Thơ haiku
Dân tộc Nhật Bản có hai thể thơ chính là tanka và haiku. Thơ haiku là một thể thơ rất Nhật Bản, là linh hồn văn hóa xứ Phù Tang. Cho nên, nói đến văn học Nhật Bản người ta không quên nói đến thơ haiku. Ngày nay, thơ haiku không còn là của riêng dân tộc Nhật Bản mà nó trở thành thể thơ của quốc tế - một thể thơ của mọi người cảm nhận và sáng tác. Vậy từ đâu có tên gọi là haiku ? Haiku có nghĩa là gì ?

   2.1. Nguồn gốc ra đời
Như chúng ta đã biết thể thơ khởi đầu của dân tộc Nhật bản là thể tanka (tức Đoản ca hay còn gọi là Wa-ka hay Hòa ca) với 31 âm tiết, ngắt nhịp theo kiểu: 5-7-5-7-7 và bài thơ tanka sau đây được xem là bài thơ mở đầu cho thơ ca Nhật Bản
Tám tầng mây dựng
Ở xứ Izumo
Ta làm tám tầng mây xa
Tám tầng mây ấy
Che chở người vợ ta.
Là bài thơ mà thần Susanoo làm tặng người vợ yêu quý của mình là nàng Kushinada. Theo H. H. Honda thì một bài thơ tanka tựa như “Hoa anh đào ẩn hiện trong sương mờ mùa xuân”. Còn thơ haiku thì ngắn hơn nữa. Từ haiku theo âm Hán Việt là “hài cú”. Nó không xuất hiện vào thời Basho mà về sau mới có. Thử nhìn vào một bài thơ haiku sau đây sẽ dễ hiểu hơn
Dậy đi thôi
Cùng ta kết bạn
Cánh bướm ngủ say ơi !
Đấy là một bài thơ rất ngắn. Cả bài chỉ có 17 âm tiết (17 onji), đôi khi cũng không nhất thiết phải thế. Một bài thơ như thế, Basho gọi là hokku (phát cú) tức là thơ khởi xướng của một bài renga (liên ca). Thơ renga được giải thích như sau:
Thơ renga là thơ xướng họa có từ rất lâu đời trong văn học Nhật. Từ một bài tanka 31 âm tiết, 5 dòng được tách ra hai phần để cho mọi người xướng thơ với nhau (phần ba câu đầu gọi là thượng cú, phần hai câu sau gọi là hạ cú). Renga ra đời là như thế. Ví dụ như một bài thơ trong Shui shu (Thập di tập 997).
Qua rồi nửa đêm
Chờ nhau chi nữa
Cho thêm ưu phiền
Một tiểu thư đã gửi cho người tình của mình phần đầu bài tanka với ba câu như trên với ý trách móc người yêu lỗi hẹn. Sau đó, người ấy nhận được và làm tiếp phần còn lại thành một bài tanka trọn vẹn.
Muốn gặp em trong mộng
Nhưng rồi anh ngủ quên.
Một bài tanka được sáng tác như trên gọi là renga. Giới quý tộc thời Heian rất thích lối sáng tác như thế và trở thành cuộc vui xướng thơ của họ. Sang thời Mạc Phủ Kamakura thì thể renga từ một bài tanka như thế được nối dài ra thành một chuỗi thơ vô tận với hàng chục đoạn, hàng trăm đoạn… do các nhà thơ họa nối theo nhau.
Đến thế  kỷ XIV, lý luận về thơ renga ra đời với quy tắc chặt chẽ do nhà thơ tanka Nijo Yoshimoto nổi tiếng lúc bấy giờ biên soạn.
Bước sang thế kỷ XV thì thơ renga đã vươn lên đến đỉnh cao thực sự của mình. Thơ renga trở thành niềm say mê đế mức được tôn thờ như một tín ngưỡng “thiêng liêng hóa”. Người ta mua các bài thơ renga từ các nhà thơ đem đến vườn chùa để cầu phúc trước khi đi chiến đấu hay sinh nở. Cũng trong giai đoạn này các trường phái renga ra đời. Đó là phái Ushin (hữu tâm) theo phong cách tao nhã của thơ ca truyền thống và phái Mushin (vô tâm) của sự dung tục và đùa cợt trong thơ. Ban đầu phái Ushin chiếm ưu thế với đỉnh cao là Sogi. Lúc này, đoạn thơ khởi xướng phần thượng cú gọi là hokku viết với hình thức 17 âm tiết (5-7-5) đã chiếm một vị trí đặc biệt thường do các nhà thơ nổi tiếng soạn trước. Phần còn lại dành cho các đối tác khác thích xướng họa. Về sau đến thời Edo thì phái Mushin lại tạo được danh thế với thể renga trào lộng còn gọi là haikai no renga (bài hài liên ca), gọi tắt là haikai, do tầng lớp thị dân thích đùa cợt phóng túng. Đồng  thời thể haikai cũng dễ sa vào sự dung tục chắp nối, gượng ép thiếu tâm hồn thơ. Chính Soin (1605-1682) đã góp phần đưa haikai ra khỏi sự dung tục và giải trí đơn thuần. Rồi định mệnh lại an bài haikai cho Basho. Thiên tài Basho đã đưa haikai thoát khỏi lối chơi tầm thường bằng sự dung hợp cả cái vô tâm lẫn hữu tâm, sự trào lộng đời thường của haikai hiện đại với sự tao nhã tâm linh của renga cổ điển vào trong 17 âm tiết của một bài hokku. Từ đấy, hokku không phụ thuộc vào renga nữa, nó trở thành một thể thơ độc lập và có tên là haikai hay haiku. Tên gọi này có từ thời nhà thơ Shiki (1867-1902) trở đi. Haiku là do cách ghép thu gọn của hai từ haikai và hokku lại thành. Có thể nói renga đã làm nảy sinh một thể thơ độc đáo là haiku. Thơ haiku là một thể thơ độc đáo mang phong vị Thiền. Mỗi bài thơ được ví như một chiếc gương soi rọi thiên nhiên của bốn mùa và tâm hồn của nghìn đời.
Từ đấy, thơ haiku phổ biến trên khắp thế giới nên các bài thơ 17 âm tiết  như thế của Basho và người cùng thời với ông vẫn gọi tên ấy. Tên gọi haiku rất phổ biến trên sách báo tiếng Anh. Các từ haiku, hokku, haikai vẫn dược dùng lẫn lộn. Khi đến Việt Nam cũng thế, đặc biệt, ở trường Phổ thông gọi là haiku. Thơ haiku khi dịch ra tiếng nước ngoài thường được xếp thành ba dòng trông như ba câu. Còn trong chữ Nhật thì một bài haiku thường nằm gọn trên một dòng. Đây là nét riêng biệt của thơ haiku không thể lẫn với bất cứ thể thơ nào khác.
Thơ haiku là khúc ca của bốn mùa. Mỗi bài thơ haiku đều có quí ngữ (kigo hay từ ngữ báo hiệu mùa). Nội dung thơ cô đọng trong cái cực ngắn. Thơ haiku chỉ miêu tả những cái gì ở thực tại và lặng thinh. Khoảng lặng ấy là “khoảng trống” của “chân không”. Ở thực tại là sự vật xuất hiện ngay thời khắc tinh khôi nhất như một đóa hoa triêu nhan
A ! Hoa asagao
Chiếc gàu vương hoa bên giếng
Đành xin nước nhà bên.
(Chiyo)
Thơ haiku lấy thiên nhiên làm chủ đề và bộc lộ cảm xúc cô tịch (sabi), aware (bi ai), wabi (đà), karumi (khinh). Thơ haiku còn thể hiện triết lí về “thiên nhiên”. Tác giả Nhật Chiêu cảm nhận về thơ haiku như sau: “Một bài thơ haiku có thể chứa ba chiều của vũ trụ. Còn chiều thứ tư để dành cho người đọc” [5, trang 22]. Hay nhà thơ Paul (Pháp) cũng nói: “Tôi viết nửa bài thơ. Người đọc viết phần còn lại.” [5, trang 22]. Đó là những nội dung mà thơ haiku diễn đạt.
Vậy, thơ haiku có nguồn gốc từ thơ ca truyền thống Nhật Bản.
           
   2.2. Quá trình phát triển
Thơ haiku có một quá trình ra đời lâu dài và phát triển thật mạnh mẽ. Thơ haiku ra đời từ thế kỉ XVI đến thế kỉ XVII, nó đạt tới đỉnh cao với Basho. Sau Basho còn có rất nhiều nhà thơ đã chọn haiku làm “con đường” để bước vào trong nghệ thuật, vào trong một lối sống, vào một “đạo” và mang những triết lí sâu sắc gọi là “hài cú đạo” (haikudo) hay “haiku no michi”. Đó là các nhà thơ Buson (1716-1784) “thi sĩ của mùa xuân” [6, trang 279], là Issa (1762-1826) “nhà thơ của nhân tình” [6, trang 282], là shiki (1867-1902), Onitsura (1660-1738), là Ryokan – “kẻ đại ngu” [6, trang 285]… Đối với họ sáng tác thơ haiku không chỉ là niềm vui mà còn là lối sống. Thơ haiku đến với họ bằng “con đường”, tức cái đạo mà thơ haiku chứa ở trong nó. Đấy là con đường sâu thẳm trong cái bình thường giản dị nhất giữa cuộc đời như Tagore đã từng nói: “Trong vội vã, ta bỏ quên những bông hoa bên hàng giậu ven đường…”.
Hiện nay, Nhật Bản “tiếp tục” phát triển thơ haiku. Bài thơ haiku sau do Tiến sĩ Đoàn Lê Giang dịch từ thơ của tác giả Ozakihosai trong báo Tài hoa trẻ số 325
Chỉ một tiếng ho thôi
Cũng một con người.
Thay vì haiku cổ điển gồm ba câu nhưng ở đây tác giả chỉ dùng hai câu như để thể nghiệm cho thơ ở bước hiện đại. Xét đến cùng thì thơ haiku vẫn đến với mọi người bằng tinh thần Thiền tông đề cao thiên nhiên, đề cao cái đẹp thô sơ, mộc mạc, tầm thường, nhỏ bé nhưng chẳng tầm thường chút nào.
Khi thơ haiku tỏa ra thế giới hay “haiku đã vươn xa ra ngoài biên giới Nhật, trở thành một dòng thơ của thế giới, ảnh hưởng đến thơ ca hiện đại. Thơ ca phương Tây trong những tìm kiếm và thể nghiệm của mình, đã nhiều lần đi theo phong thái haiku” [6, trang 183]. Thơ haiku được mọi người đón nhận nồng nhiệt. Người ta dịch thơ haiku từ tiếng Nhật, rồi nghiên cứu, khám phá những gì mà linh hồn thơ haiku chất chứa. Giới yêu thơ còn sáng tác thơ haiku bằng tiếng dân tộc mình như tác giả Nhật Chiêu đã trình bày: “Nói một cách chừng mực hơn, thơ haiku mà Basho đã hoàn thiện bằng thiên tài của mình, trở nên thể thơ quốc tế trong thế kỉ XX. Bên ngoài Nhật Bản, haiku chẳng những được nghiên cứu rộng rãi mà còn được các nhà thơ ở nhiều xứ khác nhau sáng tác bằng tiếng mẹ đẻ của mình, trong đó có cả Paul Eluard của Pháp, Octavio Paz của Tây Ban Nha và George Seferis của Hi Lạp”. [6, trang 274]. Ở Việt Nam, Trịnh Công Sơn, Chế Lan Viên… cũng đã từng tiếp thu, ảnh hưởng thơ haiku.
Vậy, Thơ haiku bắt đầu hình thành vào thế kỉ XVI, đạt đỉnh cao ở thế kỉ XVII với Basho. Đến cuối thế kỉ XIX được nhà thơ Shiki định danh la haiku. Ngày nay, haiku lan ra thế giới thành một thể thơ được quốc tế đón nhận.
 
3. Tác giả Basho đỉnh cao của thơ haiku
    
   3.1. Cuộc đời
Basho là một trong những nhà thơ lớn của Nhật Bản. Basho nói về mình như sau:
Tên tôi trên đời
“một người lữ khách”
mưa mùa thu ơi
Ông chính là “một người lữ khách”, cuộc đời hành hương hành giả qua bao nhiêu mùa gió bụi. Có người bảo rằng ông đi trong im lặng “như ngày đi, như đêm đi, như mùa đi” [7, trang 15]. Cuộc đời thiền sư, nhà thơ Basho là như thế đấy.
Matsuo Basho tên thật là Matsuo Munefusa sinh ngày 15-11-1644, trong một gia đình thuộc dòng dõi võ sĩ đạo samurai cấp thấp, ở thị trấn Ueno xứ Iga. Năm lên chín tuổi làm tiểu đồng cho con trai lãnh chúa xứ Iga là Yoshitada lớn hơn Basho hai tuổi. Hai người kết thành đôi bạn thân cùng vui chơi, học tập, làm thơ. Họ học làm thơ dưới sự hướng dẫn của thầy Kigin. Một số bài thơ do hai người sáng tác đã bắt đầu được đăng trên vài hợp tuyển thơ ca lúc bấy giờ là thời Tokugawa (Thời Bình an 1600-1868).
Nhưng chẳng bao lâu Yoshitada mất lúc 24 tuổi. Sau đó, Basho lên núi Koya để đặt nạm tóc của bạn vào chùa. Chính nơi đây Basho cảm nhận được nỗi “vô thường” và niềm “cô tịch” sẽ dần thấm sâu vào từng câu chữ của ông. Basho quyết định rời khỏi xứ Iga dù không được phép của lãnh chúa Đại danh.
Những năm tiếp theo ông sống ở Tyoto để tiếp tục học cổ văn Nhật và nghiên cứu cổ văn Trung Quốc cũng như thư pháp. Ông lại về thăm quê vài tháng.
Năm 28 tuổi, Basho lên Edo, một thành phố thị dân (sau này là Tokyo). Ông học Thiền đạo và gia nhập văn giới Edo một cách nhanh chóng. Nơi đây có nhiều trường phái thơ. Thơ haiku lúc ấy còn gọi là hokku hay haikai chưa thành một thể thơ độc lập. Ban đầu Basho thử làm nhiều công việc khác nhau nhưng rồi dần dần ông trở thành người dạy sáng tác thơ haikai. Chính Basho đã dung hợp sự trào lộng đời thường của thể haikai hiện đại với sự tao nhã tâm linh của renga truyền thống làm nảy sinh thể haiku độc lập. Đặc biệt là năm 1675, Basho được mời tham dự renga với Soin. Cuộc gặp gỡ này là một ảnh hưởng có ý nghĩa trong đời Basho.
Ở những năm gần 40 tuổi, Basho mới thật sự viết những bài haiku mang phong cách Basho tức “giải thoát haiku khỏi trò chơi chữ và ông là một với haiku, là một với vĩnh cửu” [7, trang 22].
Những năm cuối đời, để nuôi dưỡng tinh thần và cảm hứng thơ của mình. Basho làm cuộc du hành khắp đất nước. Ông vừa đi vừa viết du kí và sáng tác thơ haiku. Cuộc đời thi hào Basho có thể chia ra các giai đọan như sau:

“Ba tiêu am”: một thương gia giàu có, ngưỡng mộ Basho xây cho ông một ngôi nhà ở Fukagawa, gần dòng Sumida. Cạnh nhà có trồng một cây chuối đọc là Basho (ba tiêu). Cũng từ đây, ông lấy “Basho” làm bút danh cho mình. Còn ngôi nhà ông ở gọi là Bashoan (Ba tiêu am). Nơi này ông cảm nhận được âm thanh của tiếng mưa rơi trên tàu lá chuối như những vần thơ của Bạch Cư Dị (Trung Quốc)
Cách song tri dạ vũ
Ba tiêu tiên hữu thanh
mà ông viết bài thơ sau:
Lá chuối tả tơi
đêm nghe mưa tí tách
xuống chậu sành không ngơi.
                                (Đoàn Lê Giang dịch thơ)
Từ đây ông bắt đầu học thiền đạo dưới sự hướng dẫn của thiền sư Butcho nên các bài thơ của ông thấm sâu tinh thần Thiền tông hay phong thái Basho định hình như Issa từng nói: “Basho rất khó bắt chước nhưng ở đó có sự hoàn thiện phong cách và tâm hồn” [6, trang 285]. Bài thơ sau là ví dụ
Trên cành khô
cánh quạ đậu
chiều thu.
Bài thơ đưa ta vào thế giới u huyền, cô tịch, thế giới “chân không” của Thiền (Zen).
Được hai năm thì Ba tiêu am bị cháy trong một cuộc hỏa hoạn lớn ở thành phố Edo. Bạn bè và đệ tử xây lại nhà mới cho ông. Một năm sau, tức mùa thu năm 1684, Basho từ bỏ Ba tiêu am lên đường phiêu lãng làm “lữ nhân của phù thế”.

“Những bước đường phiêu lãng”: Kể từ đây Basho dấn thân vào con đường gió bụi như các nhà thơ nổi tiếng: Lí Bạch, Đỗ Phủ của Trung Quốc; Sogi của Triều Tiên; Saigyo của Nhật Bản. Sau “những bước đường phiêu lãng” là bút ký Nozarashi kiko (Dã sái kỉ hành, tức Nhật kí gió mưa đồng nội) 1865 ra đời.
Hai năm sau, Basho làm “chấn động” thế giới văn học bằng bước nhảy của một con ếch trong hợp tuyển thơ của ông và đồ đệ là “Hurunohi” (Xuân nhật), tức Mặt trời muà xuân
Ao cũ
con ếch nhảy vào
vang tiếng nước xao.
Có rất nhiều lời bình luận về bài thơ kì bí này.
Basho lên đường đi tiếp về Kashima hành trình được kể lại trong tác phẩm Kashima kiki (1687). Ông về đây để thăm lại sư phụ là thiền sư Butcho và người bạn yểu mệnh năm xưa.
Nhiều điều xiết bao
gợi hồn ta nhớ
những cánh hoa đào.
Tiếp theo, Basho lang thang từ Edo đến bờ biển Suma, từ Akashi đến Sarahina để hưởng mùa trăng trên đỉnh Obasute. Nhưng chuyến đi dài nhất của Basho được thực hiện trong cuộc du hành lên phương Bắc năm 45 tuổi.

“Con đường sâu thẳm”: Đây là cuộc du hành đầy khó khăn trắc trở và gian khổ để đến nơi còn sự hoang dã và huyền bí sâu xa. Mùa xuân 1689, Basho rời Edo đi lang thang suốt ba năm qua các thị trấn mới lạ như Nikko, Shirakawa, Sendai… rồi băng qua Honshu đến Sakata ở phía Tây biển Nhật Bản. Ông lặn lội xuống miền duyên hải và tạm dừng ở Ogaki. Kết quả “con đường sâu thẳm” là một cuộc hành trình nổi tiếng nhất trong văn học Nhật Bản vì nó để lại cho đời một kiệt tác văn xuôi xen lẫn thơ Oku no hosomichi (Áo chi tế đạo), tức Áo rơm cho khỉ.
Basho lại tiếp tục bước lãng du, đến mùa đông 1691 ông trở về Edo. Trên đường đi, ông đã qua cố đô Kyoto, rồi về thăm quê nhà và cùng các bạn thơ du quan hồ Biwa. Ngoài ra ông còn ghé vào một mái lều nhỏ tên là Genjuan (Huyễn trú am) gần hồ Biwa. Và tùy bút Genjuan noki (Huyễn trú am chi ký) ra đời 1690 cùng một số tác phẩm khác. Trên “con đường sâu thẳm” Basho đã ghi lại biết bao cảnh đời, biết bao giấc mơ cũng như những nỗi buồn nhân thế…
Chung một mái trọ
phòng bên những du nữ ngủ
trăng và hoa thu.
                           (Đoàn Lê Giang dịch thơ)                                 
Hay:
Hãy rung lên, nấm mồ
giọng ta than khóc
là gió mùa thu.
“Con đường sâu thẳm” là sự cảm nghiệm của Basho về sự “vô thường” và “vĩnh cửu” của đời sống. Nhà thơ không chỉ trải nghiệm được cái huyền diệu của cuộc sống mà còn có thể truyền đạt được nó. Chính con đường sâu thẳm ôm lấy mọi phương diện của cuộc sống. Là cuộc hành trình đi tìm cái diệu kỳ của cuộc sống, cái đẹp cuộc sống đã bị xã hội Edo đánh mất. Đó cũng chính là Basho đang quay lại với thiên nhiên, với một nền văn hóa truyền thống mà phương Bắc xa xôi vẫn còn lưu giữ được.

“Huyễn trú am” là niềm hạnh phúc ở am đời hư huyễn mà Basho đã kể lại: “và tôi lê chân dọc theo bờ biển hoang dại của phương Bắc, nơi mỗi bước chân băng qua cồn cát đều khốn khó. Tôi lang thang ven bờ hồ tìm nơi trú ngụ, một nhánh lau sậy mà chiếc tổ chim cộc trắng sẽ tấp vào trên dòng nước chảy. Đây là nơi Huyền trú của tôi, và nó đứng bên mạn núi gọi là Kokubi. Gần đây có một đền thờ xưa cũ, nơi tôi cảm thấy mình gột sạch cát bụi trần gian.
Chủ nhân của nó đã bỏ đi từ tám năm trước, am còn lại phía sau giữa ngã tư đời hư huyễn”.
Khi trở về Edo, Basho được mọi người đón tiếp trong niềm vinh quang của một nhà thơ lừng danh. Những năm tiếp sau đó, Basho sống trong cô tịch theo ý nguyện của mình “niềm cô tịch sẽ là bạn tôi và sự nghèo nàn là của cải tôi. Trong tuổi năm mươi, đấy là điều tôi tự nguyện”. Thời gian này thơ ca của ông cũng hướng về một lý tưởng gọi là karumi (khinh) tức sự nhẹ nhàng thanh thoát mà ông tìm thấy giữa ngay cuộc đời.
Mưa mù sương
phù dung một đóa
làm mùa lên hương.
Mùa xuân 1694 đến, Bashon lại một lần nữa quyết định tiếp tục dấn bước trên con đường “lữ nhân” để thăm phương Nam. Điểm dừng sẽ là Kyusu. Nhưng trên đường đi, Basho lâm trọng bệnh khi đến Usaka. Đệ tử khắp nơi tụ về bên giường bệnh của thầy mà họ yêu quý. Basho đã soạn một bài thơ từ biệt thế gian vào một đêm mùa đông (còn gọi là bài Từ thế chi ca).
Đau yếu giữa hành trình
chỉ còn mộng tôi phiêu lãng
trên những cánh đồng hoang.
Nhà thơ Basho đã ra đi vào ngày 12-10-1694 theo đúng như lời người đã dự đoán “tôi sẽ chết trên đường, đó là định mệnh” lúc tuổi năm mươi.
Basho mất đi, được chôn cất ở một ngôi chùa “được phong thần trong nhiều ngôi đền thần đạo, có đền còn lấy tên theo câu thơ của ông về tiếng vang của nước do con ếch nhảy vào” [7, trang 42].
Mười ba năm sau khi Basho mất, nhà thơ lớn Onit Sura đã đọc bài thơ sau:
Những giấc mơ hoa
những cánh đồng cháy rụi
cơn gió thở than qua.
để tưởng nhớ về nhà thơ về bài Từ thế chi ca của ông. Trên khắp Nhật Bản nơi nào Basho đi qua dường như đều được dựng lên những tấm bia kỉ niệm và đã có hơn 300 tấm như thế, thường thì những tấm bia có khắc các bài thơ haiku của Basho.

    3.2. Sự nghiệp sáng tác
Cả đời thiền sư Basho gắn liền sự nghiệp sáng tác với những bước đường phiêu lãng du hành khắp nơi làm cảm hứng sáng tác. Những trang bút ký và những bài thơ haiku huyền bí để lại cho hậu thế. Sau khi nhà thơ mất đi, một số đệ tử của ông đã tập hợp các bài thơ của ông thành Basho shi chi bu shu (Ba tiêu thất bộ tập) tức là bảy tác phẩm. Sự nghiệp sáng tác c
Bài liên quan

Tanomura Chikuden 田能村竹田, Điền Năng Thôn Trúc Điền

Tanomura Chikuden 田能村竹田 (Điền Năng Thôn Trúc Điền, 1777-1835) tên Hiếu Hiến 孝憲, tự Quân Di 君彝 là một danh sĩ kiêm toàn thư, hoạ, thi, từ. Tác phẩm của ông hiện còn Thanh lệ thập , Thu thanh quán tập , Trúc Điền bố y từ .

Khuyết danh Nhật Bản

Lưu trữ những bài thơ khuyết danh của Nhật Bản.

Shigeno no Sadanushi 滋野貞主, Tư Dã Trinh Chủ

Shigeno no Sadanushi 滋野貞主 (Tư Dã Trinh Chủ, có nơi chép Chân Chủ 真主) là danh nho dưới thời kỳ Bình An (Heian), tinh thông cửu kinh, từng phụng sắc soạn Bí phủ lược 秘府略 1000 quyển, là bậc sĩ phu học rộng hàng đầu đương thời, hiện còn lại 5 bài từ theo điệu Ngư ca tử .

Jean-Luc Sarré

Jean-Luc Sarré (1941-) là nhà thơ Pháp hiện đại. Ông sinh ở Oran (Angiêri) và hiện sống ở Marseille. Tác phẩm: - Cơn sốt (La Fièvre), 1979 - Những khu vườn (Jardins), 1983 - Căn phòng (La Chambre), 1986 - Như một truyện ngắn (Comme un récit), 1991 - Những vết lộ (Affleurements), 2000

Yoshimura Usai 吉村迂齋, Cát Thôn Vu Trai

Yoshimura Usai 吉村迂齋 (Cát Thôn Vu Trai, 1749-1805) tự Chính Long, hiệu Yên Hà Ngoại Sử, ở cuối thế kỷ XVII, đầu thế kỷ XIX, thông kinh sử, sở trường về thi từ.

Marina Ivanovna Svetaeva Марина Ивановна Цветаева

Marina Ivanovna Svetaeva (Марина Ивановна Цветаева, 1892-1941) sinh ra và lớn lên ở Matxcơva, qua đời tại thành phố Êlabuga. Cha của Svetaeva từng là giáo sư trường Đại học tổng hợp Matxcơvà, người sáng lập nên Viện bảo tàng Mỹ thuật trên phố Volkholka. Mẹ nàng là người con kết hợp giữa hai dòng máu ...

Louise-Angélique Bertin

Louise-Angélique Bertin (1805-1877) là nhà soạn nhạc và nhà thơ người Pháp, sinh tại Essonne, mất tại Paris. Bà được tặng giải thưởng của Viện hàn lâm Pháp.

Marie Étienne

Marie Étienne (1938-) là nữ nhà thơ và tiểu thuyết gia người Pháp. Bà sinh ở Menton. Marie Étienne đã có 25 năm sống ở Việt Nam. Khi trở về Pháp, bà làm giáo viên dạy tại trường trung học Sologne. Sau đó, bà làm trợ lý và thư ký của Antoine Vizet, lần đầu tại Nhà hát Quartiers d’Ivry rồi Nhà ...

Tagore Rabindranath রবীন্দ্রনাথ ঠাকুর

Rabindranath Tagore (1861-1941) là nhà thơ, nhà văn, nhà viết kịch, nhạc sĩ và hoạ sĩ Ấn Độ, giải Nobel Văn học năm 1913. Là con thứ mười bốn của một điền chủ - nhà cải cách tôn giáo giàu có. Ông đi học ở trường một thời gian ngắn; về sau học ở nhà với cha. 8 tuổi, R. Tagore nổi tiếng giỏi văn nhất ...

Kabir कबीर

Kabir (कबीर, 1398-1448) là nhà thơ cổ Ấn Độ, sáng tác bằng tiếng Hindu, tương truyền suốt đời làm nghề dệt vải, mù chữ, phải nhờ người khác chép lại. Ông để lại khoảng 80 tập thơ về các đề tài khác nhau, phản ánh tâm trạng phản kháng của tầng lớp người nghèo.

Mới nhất

THPT Đinh Tiên Hoàng

THPT Đinh Tiên Hoàng đang không ngừng nỗ lực phát triển trở thành một ngôi trường với chất lượng giảng dạy tốt nhất, tạo ra những thế hệ học sinh chất lượng

THPT Thực nghiệm

Trường THPT Thực Nghiệm trực thuộc Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam. Trường là cơ sở giáo dục đào tạo công lập trong hệ thống giáo dục quốc dân và trong hệ thống các trường phổ thông của thành phố Hà Nội. Trường dạy học theo chương trình giáo dục Trung học phổ thông của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Tiếp ...

THPT Đông Kinh

Khẩu hiệu hành động: “ Hãy đặt mình vào vị trí cha mẹ học sinh để giảng giải giáo dục và xử lý công việc ” “ Tất cả vì học sinh thân yêu ”

THPT Hà Nội Academy

Những rào cản còn tồn tại kể trên sẽ được vượt qua bởi những công dân toàn cầu tích cực với nhiệm vụ chung tay xây dựng một thế giới tốt đẹp hơn thông qua việc nghiên cứu và tìm kiếm giải pháp cho những vấn đề toàn cầu bao gồm, nhưng không giới hạn ở nhân quyền, đói nghèo và công bằng xã hội. Nhận ...

http://thptkimlien-hanoi.edu.vn/

Qua 40 năm nỗ lực phấn đấu trong các hoạt động giáo dục, vượt khó khăn, thiếu thốn về cơ sở vật chất, trường THPT Kim Liên đã tạo dựn được uy tín vững chắc, là 1 trong 5 trường THPT hàng đầu của Thủ đô có chất lượng giáo dục toàn diện không ngừng nâng cao và trở thành địa chỉ tin cậy của các bậc ...

THPT Tô Hiến Thành

Trường THPT Tô Hiến Thành được thành lập từ năm học 1995-1996, theo quyết định của Ủy Ban nhân dân tỉnh Thanh Hóa. Đến tháng 6/2010, trường chuyển đổi loại hình sang công lập. Suốt 20 năm phát triển, thầy, cô giáo, thế hệ học sinh đã phấn đấu vượt qua mọi khó khăn, gian khổ, từng bước phát triển ...

THPT Mai Hắc Đế

Trường THPT Mai Hắc Đế được thành lập năm 2009, sau gần 10 năm xây dựng và phát triển, Trường đã trở thành một địa chỉ tin cậy trong đào tạo bậc THPT trên địa bàn Hà Nội.

Trường Trung học phổ thông Nguyễn Gia Thiều

Nhìn lại chặng đường gần 60 năm xây dựng và trưởng thành , các thế hệ giáo viên và học sinh trường Nguyễn Gia Thiều có thể tự hào về truyền thống vẻ vang của trường ; tự hào vì trường đã đóng góp cho đất nước những Anh hùng , liệt sĩ , những người chiến sĩ , nhà khoa học , trí thức , những cán bộ ...

Trường Trung học phổ thông MV.Lô-mô-nô-xốp

Sứ mệnh Xây dựng Hệ thống giáo dục Lômônôxốp có môi trường học tập nền nếp, kỉ cương, chất lượng giáo dục cao; học sinh được giáo dục toàn diện, có cơ hội, điều kiện phát triển phẩm chất, năng lực và tư duy sáng tạo, tự tin hội nhập.

Trường Trung học phổ thông Quốc tế Việt Úc Hà Nội

Trường thực hiện việc giảng dạy và học tập theo chương trình do Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành, thực hiện thời gian học tập theo biên chế năm học do Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định. Song song với chương trình này là chương trình học bằng tiếng Anh được giảng dạy bởi đội ngũ giáo viên bản ngữ giàu ...