Mạc Thiên Tích 鄚天錫 (1706-1780) sinh tại Trũng Kè (nay thuộc hải cảng Sihanoukville, dưới Cộng Hoà Khmer đổi lại là Kompong-som), cha là Mạc Cửu (theo Trịnh Hoài Đức trong "Gia Định thành thông chí", người xã Lê Quách, huyện Hải Khang, phủ Lôi Châu, Quảng Đông, từng làm quan với nhà Minh), mẹ người Việt, họ Nguyễn. Ông chủ danh Tông, tên thật là Thiên Tích, sau đổi thành Thiên Tứ 天賜 (cũng đều có nghĩa ban cho), tên tự Sĩ Lân 士麟.
Mạc Cửu vốn là người Trung Hoa không chấp nhận nhà Thanh nên sang khai khẩn đất Hà Tiên và quy phục chúa Nguyễn từ năm 1714 được Tộ quốc công Nguyễn Phúc Chu phong chức Tổng binh cho cai quản vùng đất đang khai thác. Năm 1735, Mạc Cửu mất, Thiên Tích thay cha, được Đĩnh quốc công Nguyễn Phúc Trú phong chức Hà Tiên trấn, Tổng binh đại đô đốc, Tông Đức Hầu.
Thiên Tích "tính tình trung hậu, chân thật, nhân từ, nghĩa dũng, đầy đủ tài đức, thông kinh sử, không có sách nào không đọc, thêm vào lại giỏi tài thao lược, hậu đãi hiền tài". Năm 1775, sau khi quân Tây Sơn chiếm Gia Định, chúa Định vương Nguyễn Phúc Thuần bị giết ở Cà Mau, Tân chính vương Nguyễn Phúc Dương bị bắt ở Ba Vạt, quân Nguyễn hầu như rắn mất đầu, Mạc Thiên Tích vẫn hết lòng phò tá người kế vị và được Nguyễn Vương nhờ hướng dẫn hoàng tử Xuân sang Xiêm cầu viện. Lúc nầy Vua Xiêm là Trịnh Tân, một thương gia người Triều Châu nhờ loạn lạc nên chiếm được ngôi vua, vốn có hiềm khích với Thiên Tích nên bức bách ông, không giúp đỡ, cũng không cho trở về Gia Định.
Ngày 5 tháng 10 năm 1780, Thiên Tích vì quá phẫn uất nuốt vàng tự tử tại Vọng Các. Về sau, năm 1804, con cháu họ Mạc đem tro tàn về mai táng tại núi Bình San (làng Mỹ Đức, Hà Tiên). Cuộc đời Mạc Thiên Tích về văn học quan trọng nhất ở chỗ ông đã thiết lập nên Chiêu Anh các.
Mạc Thiên Tích 鄚天錫 (1706-1780) sinh tại Trũng Kè (nay thuộc hải cảng Sihanoukville, dưới Cộng Hoà Khmer đổi lại là Kompong-som), cha là Mạc Cửu (theo Trịnh Hoài Đức trong "Gia Định thành thông chí", người xã Lê Quách, huyện Hải Khang, phủ Lôi Châu, Quảng Đông, từng làm quan với nhà Minh), mẹ người Việt, họ Nguyễn. Ông chủ danh Tông, tên thật là Thiên Tích, sau đổi thành Thiên Tứ 天賜 (cũng đều có nghĩa ban cho), tên tự Sĩ Lân 士麟.
Mạc Cửu vốn là người Trung Hoa không chấp nhận nhà Thanh nên sang khai khẩn đất Hà Tiên và quy phục chúa Nguyễn từ năm 1714 được Tộ quốc công Nguyễn Phúc Chu phong chức Tổng binh cho cai quản vùng đất đang khai thác. Năm 1735, Mạc Cửu mất, Thiên Tích thay cha, được Đĩnh quốc công Nguyễn Phúc Trú phong chức Hà Tiên trấn, Tổng binh đại đô đốc, Tông Đức Hầu.
Thiê…
Hà Tiên thập cảnh khúc vịnh
Hà Tiên thập vịnh
Tác giả: Bùi Thuỵ Đào Nguyên
Hà Tiên thập vịnh là tên một tập thơ chữ Hán đầu tiên của Tao đàn Chiêu Anh Các được Mạc Thiên Tứ cho khắc in năm Đinh Tỵ (1737) ở Hà Tiên (Việt Nam). Đây là tác phẩm được Phan Huy Chú đánh giá là “êm ái, xinh đẹp, đáng học”. [1]
Căn cứ bài Đề từ in đầu tập thơ Hà Tiên thập vịnh do Mạc Thiên Tứ viết, thì mười bài thơ xướng làm theo đề tài mà ông chọn, đã có trước năm 1736.
Trích Đề từ: "Mùa hạ năm Ất Mão (1735), đấng tiên quân qua đời, ta kế thừa giềng mối trước. Những lúc việc chính trị rỗi rảnh, (ta) cùng các văn nhân đàm sử vịnh thi. Mùa xuân năm Bính Thìn (1736), có thầy Trần Hoài Thủy từ Việt Đông (Trung Quốc) vượt biển đến đây. Ta đãi làm thượng tân. Mỗi khi hoa sớm trăng đêm, ngâm vịnh chẳng thôi. Nhân đem Hà Tiên thập cảnh trình cho tri kỷ...Sau đó, thầy Trần trở thuyền về Châu Giang (tức Quảng Châu) đưa (tập thơ) ra làng thơ, nhờ được chư công chẳng bỏ. Khi đề vịnh xong, góp thành tập, gởi cho ta. Bèn cho khắc bản..." [2]
Hà Tiên thập vịnh gồm 320 bài thơ thất ngôn bát cú được viết bằng chữ Hán, trong số đó có mười bài xướng do chủ soái Tao đàn Chiêu Anh Các là Mạc Thiên Tứ, và số còn lại là của các văn nhân ở Trung Quốc và ở Thuận – Quảng, gồm 31 người cùng nhau họa vần [3]. Đầu tập thơ có bài Đề tự của Mạc Thiên Tứ, sau tập thơ có lời bạt của Trần Trí Khải và Dư Tích Thuần (cả hai đều là người Trung Quốc). Năm 1755, Nguyễn Cư Trinh (1716-1767) vào Nam giao thiệp với họ Mạc, đã họa thêm 10 bài nữa, nhưng vì làm sau nên không có trong tập. Các đề tài trong thi phẩm được tác giả cố ý xếp theo thứ tự từng đôi một, như sau:
- Kim Dữ lan đào và Bình San điệp thúy: cảnh Kim Dữ là địa điểm hiểm yếu của địa thế; thì đối lại, cảnh Bình San lại là cảnh trí an nhàn, thanh tú.
- Tiêu Tự thần chung và Giang Thành dạ cổ: tiếng chuông chùa Tiêu nhằm đối lại tiếng trống ở đồn Giang Thành.
- Thạch Động thôn vân và Châu Nham lạc lộ: cũng là cảnh động đá, nhưng cảnh Thạch Động thì Diễm ảo, còn cảnh Châu Nham thì sáng sủa, phân minh.
- Đông Hồ ấn nguyệt và Nam Phố trừng ba: ở bài Đông Hồ, điểm nhấn là “nguyệt”(trăng); đối lại với cảnh Nam Phố, điểm nhấn là “trừng ba” (sóng lặng).
- Lộc trĩ thôn cư và Lư khê ngư bạc: hai bài có những cái đối nhau: Lư (cá vược) đối với lộc (nai), khê (khe nước) đối với mũi núi (trĩ). Tác giả cũng đã khéo mượn cảnh ngư bạc để đối lại cảnh thôn cư, để minh chứng rằng vùng đất mới Hà Tiên, nghề nào cũng phong phú.
Sau, cũng những đề tài này, Mạc Thiên Tứ còn dùng chữ Nôm để sáng tác và đã tập hợp lại trong tập Hà Tiên thập cảnh khúc vịnh. Ở sau tập thơ khúc vịnh, tác giả có làm thêm bài Hà Tiên thập cảnh tổng vịnh. Nhờ vậy, mà người đọc dễ nhớ tên mười thắng cảnh, và biết được mối liên hệ của chúng (trong tập thơ & ngoài địa lý) với nhau như thế nào.
Đề cập sự việc này, thi sĩ Đông Hồ viết: "Đông Hồ và Lộc Trĩ liền nhau một dòng nước chảy. Nam Phố với Lư Khê tiếp nhau một cánh bãi dài. Đó là bốn cảnh "sông, hồ, gành, biển". Còn Tiêu Tự là "chuông", thì Giang Thành là "trống". Châu Nham là "chim", thì Kim Dữ là "cá". Và Bình San với Thạch Động là hai ngọn núi sừng sững muôn năm như hai ngọn thiên trụ, tiêu biểu cho đất Hà Tiên văn hiến." [4]
Giới thiệu tập thơ Hà Tiên thập vịnh, sách Phủ Biên tạp lục (1776) của Lê Quý Đôn có đoạn:
..."Năm Bính Thìn (1736), Mạc Thiên Tứ kế tập tước cha, chiêu mộ văn sĩ, yêu chuộng từ chương, phong lưu tài vận, nổi tiếng một cõi. Tôi (Lê Quý Đôn) từng giữ được sách khắc bản "Hà Tiên thập vịnh"...
Sau khi lần lượt chép mười bài thơ xướng cảnh Hà Tiên của Mạc Thiên Tứ, Lê Quý Đôn viết tiếp:
"Mười cảnh này đều do Thiên Tứ mệnh đề khởi xướng mà những văn nhân Bắc quốc, văn nhân Thuận Quảng cùng nhau họa vần. Không thể bảo rằng ở hải ngoại xa xôi không có văn chương vậy".
Năm Đinh Dậu (1777), Lê Quý Đôn soạn sách Kiến văn kiểu lục, một lần nữa tác giả lại trân trọng giới thiệu "Hà Tiên thập vịnh"...Điều đó cho thấy Lê Quý Đôn có mỹ ý, thiện cảm và rất lưu tâm đối với văn học Hà Tiên lúc bấy giờ... [5]
Sách Gia Định thành thông chí của Trịnh Hoài Đức cũng có đoạn chép:
...Các vị nối nhau mà đến, mở Chiêu Anh Các gom góp thư tịch, thường ngày cùng các chư nho giảng luận, có đề vịnh Hà Tiên thập cảnh, người thù họa rất đông, văn chương rực rỡ ở chỗ góc biển bên trời. Tông Đức hầu (Mạc Thiên Tứ) có làm "Hà Tiên thập vịnh", "Minh Bột di ngư", khắc bản hành thế... [6]
Nhận xét về tác phẩm Hà Tiên thập cảnh, theo Từ điển Văn học (bộ mới), thì qua tập sách này; có thể thấy ở Mạc Thiên Tứ một tâm hồn biết yêu cảnh, yêu người. Ông đã làm cho mười cảnh đẹp trên vốn còn xa lạ với tình cảm dân tộc (Việt) vào thời ông, đi vào thơ văn, và trở nên nổi tiếng cùng với mọi cảnh đẹp quen thuộc khác. Ngoài ra, trong tập thơ còn có cảnh sinh hoạt cày cấy, đánh cá của dân cư nơi ven biển cực Nam này. Cho nên trùm lên lòng yêu cảnh trí thiên nhiên, chính là lòng yêu đời, niềm tự hào với cuộc sống no đủ, phóng khoáng, tại một vùng đất chưa bị bộ máy thống trị thời chúa Nguyễn câu thúc quá chặt.
Trong nguồn tình cảm của họ Mạc cũng có nét tâm lý ưa "nhàn", nhưng đó là cái nhàn của một con người hoạt động, muốn được nghỉ ngơi để thưởng ngoạn cảnh đẹp sau những ngày bận rộn, hơn là như một cứu cánh. Và bên cạnh những tứ thơ nhàn, thơ ông cũng toát lên một tinh thần hăng hái, muốn giữ gìn mảnh đất biên cương của nước Việt, vốn đã thực sự trở thành quê hương thân thiết của tác giả. Tuy không tránh khỏi những phần khuôn sáo, do đặc điểm của lối thơ thù phụng; nhưng thơ chữ Hán của ông, nhìn chung giàu hình ảnh, chứa đựng một tình cảm, sức sống thực, không gò gẫm giả tạo... [7]
Trích thêm đánh giá của GS. Lê Đình Kỵ: "Hà Tiên là miền đất khai phá cuối cùng thể hiện ý chí đấu tranh khắc phục thiên nhiên, bảo vệ giang sơn bờ cõi. Đất nước và con người ở trong thế đi lên, tràn đầy sức sống, nên thơ văn ít bị hạn chế bởi hệ tư tưởng thống trị...mà thấm đượm tình quê hương đất nước, ý chí độc lập tự cường của những người lãnh đạo đầy chí tiến thủ và nhân dân Hà Tiên cần cù khoát đạt. Và chỉ riêng với các bài thơ chữ Hán trong Hà Tiên thập vịnh, cũng xứng đáng có một vị trí nhất định trong nền thơ ca quá khứ của dân tộc Việt..." [8]
Chú thích:
1. Theo "Lịch triều hiến chương loại chí tập III", Phan Huy Chú, Nxb KH-XH, tr. 153.
2. Văn học Hà Tiên, Đông Hồ dịch, Nxb Văn nghệ TP. HCM, 1999, tr.70.
3. Theo nghiên cứu của GS. Trần Kinh Hòa, thì 32 người vừa chủ vừa khách, có 9 người Việt Nam, 23 người Trung Quốc (7 người Quảng Đông, 11 người Phúc Kiến, 2 người Giang Tô và 3 người ở Giang Tây). Dẫn lại theo Trương Minh Đạt, Nghiên cứu Hà Tiên, Tạp chí Xưa & Nay cùng Nxb Trẻ hợp tác ấn hành, 2008, tr. 174.
4. Văn học Hà Tiên, Đông Hồ, tr. 307.
5. Dẫn lại theo Văn học Hà Tiên, tr. 105, 112, và 107.
6. Dẫn lại theo Văn học Hà Tiên, tr. 113.
7. Lược theo Từ điển Văn học (bộ mới), Nguyễn Huệ Chi, Nxb Thế giới, 2004, tr. 936.
8. Trích "Thay lời tựa trong Văn học Hà Tiên", tr. 11 và 15-16.
☆☆☆☆☆ Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Tác giả: Bùi Thuỵ Đào Nguyên
Hà Tiên thập cảnh khúc vịnh, hay Hà Tiên Quốc âm thập vịnh (Vịnh mười cảnh đẹp Hà Tiên bằng Quốc âm), là tên một tập thơ chữ Nôm do Mạc Thiên Tứ (1718-1780) sáng tác tại Hà Tiên (Việt Nam).
Thi phẩm này đã được thi sĩ Đông Hồ phát hiện và công bố vào năm 1960. Theo ông, thì mười bài thơ Nôm trong thi phẩm này, hầu hết đều theo vần và đầu đề của mười bài thơ Hán, nên rất có thể Hà Tiên thập cảnh khúc vịnh được tác giả làm sau khi tập thơ chữ Hán là Hà Tiên thập vịnh đã cơ bản hoàn thành (khoảng 1736).
Lý giải vì sao, những danh sĩ đương thời như: Nguyễn Cư Trinh, Lê Quý Đôn, và người sau thời đó là Trịnh Hoài Đức, cũng không hề nhắc đến tên thi phẩm; Đông Hồ cho biết có thể vì lúc bấy giờ văn chương Nôm chưa được coi trọng; và còn vì Hà Tiên thập cảnh khúc vịnh chưa được khắc in. [1]
Mặc dù vậy, nhờ những người dân ở Hà Tiên thuộc lòng; nhờ Đông Hồ bỏ công tìm tòi, sao chép, bổ khuyết và chú thích; mà Hà Tiên thập cảnh khúc vịnh mới chính thức có mặt trên thi đàn và có được diện mạo khá trọn vẹn như ngày nay. [2]
Ban đầu, tập thơ có tên là Hà Tiên Quốc âm thập vịnh, nhưng sau khi sưu tầm và chỉnh lý xong, Đông Hồ xét thấy cái tên này không ổn. Ông giải thích: Bởi nó là một khúc vịnh thể lục bát gián thất, chia làm 10 đoạn. Mỗi đoạn nói về một cảnh, và kết đoạn đó bằng một bài thơ Nôm Đường luật. Cuối cùng có một bài luật Nôm làm lời tổng vịnh mười cảnh, nhắc lại tên mười cảnh và vị trí mười cảnh có liên quan với nhau. Vần thơ lục bát và vần thơ luật, trên dưới vẫn cắn liền nhau; 334 câu lục bát gián thất cùng 88 câu của 11 bài Đường luật, tất cả là 422 câu liên ngâm không gián đoạn. Số câu này tương đương với khúc Chinh phụ ngâm (412 câu), và dài hơn khúc Cung oán ngâm khúc (356 câu). Cứ theo thể tài và thể thức đó, thì nên đề là Hà Tiên thập cảnh khúc vịnh là phải, cũng như trước đó, đã có Tứ thời khúc vịnh của Hoàng Sĩ Khải. Đây là lối khúc vịnh cổ, cũng như các ngâm khúc, thuộc về thể văn thịnh hành thời cuối Lê.
Trước đây, vào năm 1970, trong tập sách nhỏ có nhan đề là Hà Tiên thập cảnh và Đường về Hà Tiên; hai tác giả là Đông Hồ và Mộng Tuyết, sau đoạn dẫn giải như trên, đã nói thêm hai ý: Hà Tiên thập cảnh khúc vịnh khác hơn các khúc vịnh và khúc ngâm khác, ở chổ nó mở đầu bằng câu lục, chứ không phải bằng câu thất; toàn thể câu thất đầu đều hiệp vần ở chữ thứ 3 (thông thường thì hiệp vần ở chữ thứ 5), và chữ cuối khúc vịnh đều hiệp vần chữ cuối câu đầu của bài Đường luật.
Lấy đoạn cuối bài Châu Nham lạc lộ làm thí dụ:
Đã hay có chỗ về đi,
Người lành chưa dễ mất khi đỗ "đình".
Một chữ "tình" lại thêm chữ kiểng,
Chạnh lòng này mấy tiếng trường "ngôn".
Thơ rằng:
Biết chỗ mà nương ấy mới "khôn"
Bay về đầm cũ mấy mươi muôn...
Khi chép lại mười bài thơ này, phải chép cho có thứ tự trên dưới, trước sau. Tuy là mười bài, nhưng thực ra chỉ là một khúc...Vì khi làm, tác giả đã cố ý xếp đặt như vậy...
Thể theo ý này, Hà Tiên thập cảnh khúc vịnh được phân bố như sau:
- Kim Dữ lan đào: gồm một khúc vịnh 34 câu (1-34) và một bài thơ Đường luật.
- Bình San điệp thúy: gồm một khúc vịnh 30 câu (35- 64) và một bài thơ Đường luật.
- Tiêu Tự thần chung: gồm một khúc vịnh 34 câu (65-98) và một bài thơ Đường luật.
- Giang Thành dạ cổ: gồm một khúc vịnh 36 câu (99-134) và một bài thơ Đường luật.
- Thạch Động thôn vân: gồm một khúc vịnh 32 câu (135-166) và một bài thơ Đường luật.
- Châu Nham lạc lộ: gồm một khúc vịnh 34 câu (167-201) và một bài thơ Đường luật.
- Đông Hồ ấn nguyệt: gồm một khúc vịnh 34 câu (201-234) và một bài thơ Đường luật.
- Nam Phố trừng ba: gồm một khúc vịnh 32 câu (235-266) và một bài thơ Đường luật.
- Lộc Trĩ thôn cư: gồm một khúc vịnh 34 câu (167-300) và một bài thơ Đường luật.
- Lư Khê ngư bạc: gồm một khúc vịnh 34 câu (301-334) và một bài thơ Đường luật.
- Cuối tập, là một bài thơ Đường luật có tựa đề Hà Tiên thập cảnh tổng vịnh.
Do chung đề tài với Hà Tiên thập vịnh, nên nội dung Hà Tiên thập cảnh khúc vịnh cũng không khác mấy. Nghĩa là, tác giả (Mạc Thiên Tứ) chọn và đặt tên cho mười đầu bài, ngoài việc đề vịnh danh thắng; họ Mạc còn có dụng ý tuyên truyền thế lực của mình, phô trương sự phồn thịnh nơi mình cai quản, đồng thời còn để nói lên chí khí, hoài bão và tâm sự của mình.
Sau đây là bài Hà Tiên thập cảnh tổng vịnh nằm ở cuối tập. Nó được xem như là một thư mục, một bản tổng kết mấy nét chính có trong tập thơ:
Mười cảnh Hà Tiên rất hữu tình,
Non non nước nước gẫm nên xinh.
Đông Hồ, Lộc Trĩ luôn dòng chảy,
Nam Phố, Lư Khê một mạch xanh.
Tiêu Tự, Giang Thành, chuông trống ỏi,
Châu Nham, Kim Dự cá chim quanh.
Bình San, Thạch Động là rường cột,
Sừng sựng muôn năm cũng để dành.
Giá trị nội dung và nghệ thuật của Hà Tiên thập cảnh khúc vịnh được ghi nhận như sau... Theo GS. Nguyễn Huệ Chi, thì trong các tác phẩm của Mạc Thiên Tứ còn lưu lại, có lẽ là tập thơ này là đáng chú ý hơn cả. Nội dung tập thơ cũng có phần giống với Hà Tiên thập vịnh chữ Hán, nhưng do nói tiếng nói trực tiếp của dân tộc nên tình cảm biểu hiện thoải mái tự nhiên hơn, lòng tự hào về đất nước cũng có nét khởi sắc hơn. Đặc biệt, thơ Nôm của ông bình dị, rất gần ngôn ngữ của quần chúng, mà vẫn không kém phần trau chuốt. Mặc dù có nhiều từ cổ, có những từ ngữ của địa phương miền Nam, lại gieo vần ở chữ chữ thứ ba câu thất đầu; nhưng những vần thơ lục bát gián thất của Mạc Thiên Tứ vẫn óng ả, duyên dáng, cũng như những bài luật Nôm của ông tuy cổ kính mà vẫn tươi tắn sinh động, không khác mấy với thơ văn đương thời thịnh hành ở Đàng Ngoài. Đó là lý do khiến cho thơ Nôm của ông phổ biến rộng rãi trong nhân dân địa phương lúc bấy giờ và vẫn tồn tại trong trí nhớ của nhiều người sau gần ba thế kỷ. [3]
Xét khía cạnh khác, thi sĩ Đông Hồ viết: "Người con lai Tàu đó, chịu khó tập luyện văn chương Nôm, thật là một điều thú vị. Chúng ta nên nhớ điều này, tập tiếng Việt ngày xưa không phải là điều kiện bắt buộc như chúng ta ngày nay; hơn nữa, ông Tổng binh đại Đô đốc trấn Hà Tiên và là Minh chủ Chiêu Anh Các (ý nói Mạc Thiên Tứ), có ai bắt buộc, có ai đòi hỏi phải làm văn tiếng Việt đâu...Ấy thế mà ông đã làm nên một tập thơ Nôm trường thiên dài 422 câu, vừa lục bát gián thất, vừa Đường luật bát cú, liên hành. Nếu không phải nhờ tiếng Việt có sức hấp dẫn làm cho tâm hồn ông yêu say đắm, thì còn vì cớ gì được nữa..." [4]
Diễn giải thêm ý của Đông Hồ, trong một bài viết của GS. Lê Đình Kỵ có đoạn: "Thành tựu nổi bật hơn là nội dung chữ Hán (Hà Tiên thập vịnh) của Mạc Thiên Tứ còn được diễn đạt bằng thơ Nôm và theo thể thơ tiếng Việt. Nhìn rộng ra cả nước, thì thơ văn chữ Hán và chữ Hán vẫn được tôn trọng hàng đầu. Vậy vì cái gì đã khiến Mạc Thiên Tứ làm thơ bằng tiếng Nôm và đã đạt được những thành tựu đó? Có thể người cai quản trấn Hà Tiên, là Mạc Thiên Tứ, đã biết lợi dụng tiếng Nôm để làm phương tiện tuyên truyền; nhưng cái chính vẫn là do lòng Mạc Thiên Tứ yêu mến trân trọng tiếng Việt, đất nước và con người Việt; cảm thấy sự nghiệp, vận mệnh của mình gắn bó với nhân dân Hà Tiên, có mối cảm thông với tâm tư khát vọng của người dân thường Việt Nam. Ta không nên quên rằng Mạc Thiên Tứ sinh trưởng ở Việt Nam, mẹ là người Việt Nam, và lấy vợ cũng là người Việt Nam..." [5]
Bởi những giá trị có trong thi phẩm này, đã gợi ý cho Nguyễn Cư Trinh sáng tác "Quảng Ngãi thập nhị cảnh".
1. Đề cập vấn đề này, Đông Hồ đặt câu hỏi: Thời họ Mạc ở Hà Tiên, nếu có khắc mộc bản thì tất phải nhờ người thợ Tàu, mà người thợ Tàu thì có lẽ không quen khắc chữ Nôm chăng? (Văn học Hà Tiên, Nxb Văn nghệ, TP. HCM, 19899, tr. 150).
2. Theo Trương Minh Đạt, tác giả Nghiên cứu Hà Tiên, thì nhờ phát hiện mới mẻ này, Đông Hồ được mời giảng cho chứng chỉ Văn chương Quốc âm tại Đại học Văn Sài Gòn từ niên khóa 1964-1965. (Nghiên cứu Hà Tiên, Nxb Trẻ cùng Tạp chí Xưa & Nay hợp tác ấn hành, 2008, tr. 114). Tháng 11 năm 1986, nhân lễ kỷ niệm 250 năm Chiêu Anh Các (1736-1986), nữ sĩ Mộng Tuyết trong một bài viết đã nhắc lại công lao của thi sĩ Đông Hồ như sau: Ngày nay, chúng ta cầm nắm được hệ thống của tập Hà Tiên thập cảnh khúc vịnh bằng văn Nôm đã được sắp đặt lại cho có trước sau mạch lạc, cũng là do Đông Hồ có để tâm sưu tập và góp phần nhặt nhạnh những vàng rơi ngọc rớt của Sĩ Lân Mạc Thiên Tứ nói riêng và của thi phái Chiêu Anh Các nói chung.(Văn học Hà Tiên, tr. 78.)
3. Từ điển Văn học (bộ mới), Nguyễn Huệ Chi, Nxb Thế giới, 2004, tr. tr. 935-936.
4. Văn học Hà Tiên, tr. 154.
5. Trích Thay lời tựa, in trong Văn học Hà Tiên, tr. 12.
☆☆☆☆☆ Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Tác giả: Bùi Thuỵ Đào Nguyên
Từ lâu, ngay cả người trong giới nghiên cứu văn học, đã cho rằng bài thơ Lư Khê ngư bạc và Lư Khê nhàn điếu là một; thực tế Lư Khê nhàn điếu là tên chung của 32 bài thơ Đường luật; nằm trong tập Minh Bột di ngư; và đối với Lư Khê ngư bạc, nội dung của chúng không hề giống nhau.
Minh Bột di ngư (hay Minh Bột di ngư thi thảo), có nghĩa: “ông chài còn sót lại ở đất Minh Bột” (1) hoặc: “con cá còn sót lại của biển Bột” (2), là một thi phẩm bằng chữ Hán của Mạc Thiên Tứ, gồm một bài phú hơn trăm câu và 32 bài thơ Đường luật. Tất cả đều mượn thắng cảnh Lư Khê ở Hà tiên (Kiên Giang, Việt Nam) để làm đề tài sáng tác.
Giới thiệu
Trích bài Tân tự của Trịnh Hoài Đức, đề trong tập Minh Bột di ngư (bản in 1821): "...Lư Khê chính là một trong mười cảnh Hà Tiên. Về cảnh này có bài phú trăm lời, thi 32 vận, đều là của ngài làm ra, tôi hiệp cả lại cho nhan đề là Minh Bột di ngư, gọi là ngụ mối u hoài cảm khái tự chốn thâm tâm, chớ nào phải vì chén rượu câu thi mà xướng họa hão đâu... Từ Hà Tiên gặp cơn binh hỏa (1771), bản phiến sách xưa đều bị ngọn lửa cay nghiệt cháy thiêu, sách lưu hành cũng vì đó mà lần lần thất lạc. Đến lúc ra giúp nước, tôi cố tìm sách ấy mà không được gặp. Thường trằn trọc thâu đêm, trí mãi vẩn vơ lo nghĩ về việc sưu tầm sách mất..." "...Năm Canh Thìn (1820) mùa hạ, vâng mạng về kinh (Huế), thọ lãnh nộ vụ, tôi may gặp được tập Lư Khê nhàn điếu (tức Minh Bột di ngư) của ngài (Mạc Thiên Tứ), rất khoan khoái đọc suốt cả đầu đuôi... Nguyên bản có đoạn khuyết mất, không thể so sánh đâu được, tôi bèn lập ý bổ khuyết vào, rồi giao cho nhà in khắc bản khác (Tân Tỵ, 1821)." (3)
Năm 1820, Trịnh Hoài Đức dâng sách Minh Bột di ngư lên vua Minh Mạng. Sách Việt Nam sử lược của Trần Trọng Kim, chép: "Vua Thánh Tổ (Minh Mạng) mới lên ngôi, đã lo việc làm sách vở; ngài đặt Quốc Sử Quán để góp nhặt những chuyện làm quốc sử. Ngài lại lưu ý về việc tưởng lệ cho những người làm ra sách vở. Bởi vậy, ngài xuống chiếu: hễ ai tìm được sách cũ, hay làm ra sách mới, thì được ban thưởng. Tự đó ông Trịnh Hoài Đức dâng sách: Gia Định thành thông chí và Minh Bột di hoán văn thảo..."
Theo Đông Hồ, sở dĩ ông Trần Trọng Kim ghi là Minh Bột di hoán văn thảo là vì trong chữ Hán, chữ "ngư" và chữ "hoán" khá giống nhau. Sau, khi soạn sách Văn đàn bảo giám, Trần Trung Viên, cũng căn cứ theo Việt Nam sử lược mà chép là Minh Bột di hoán văn thảo (quyển ba, Nxb Nam Ký thư quán, Hà Nội, 1934, tr. 6). Năm 1949, khi Nxb Tân Việt ở Sài Gòn cho tái bản lần thứ ba sách Việt Nam sử lược, thì thợ sắp chữ sắp lầm chữ "di" thành chữ "khiển" (theo nghĩa điều khiển, sai khiến), nên tập thơ có thêm một tên nữa là Minh Bột khiến hoán (trang 436, dòng thứ năm). Cũng theo Đông Hồ, đoạn sử trên rất dễ làm người đọc hiểu lầm là sách Minh Bột di ngư do Trịnh Hoài Đức sáng tác.
Ở Sài Gòn, lần đầu tiên Minh Bột di ngư được Ngạc Xuyên (Ca Văn Thỉnh) giới thiệu trong Đại Việt tạp chí số 12, ra ngày 1 tháng 4 năm 1943. Bản Minh Bột di ngư năm 1821 mà Ngạc Xuyên Ca dùng để viết bài, vốn thuộc thư viện riêng của nhà sử học Lê Thọ Xuân, nhưng không may là thư viện này, trong đó có tập sách trên, đã bị lửa chiến tranh thiêu hủy sau ngày Nam Bộ kháng chiến năm 1945.
Hiện nay (tháng 6 năm 2009), giới nghiên cứu văn học Việt vẫn chưa tìm được một quyển nào khác.
Thơ chữ Hán
Sách Minh Bột di ngư với khoảng 30 bài thơ chữ Hán, nay chỉ còn lại 7 bài. Hai bài "Lư Khê nhàn điếu" sau đây đã được chép lên vách Mạc Công Miếu, Hà Tiên.
Phiên âm Hán - Việt
1. Lư Khê phiếm phiếm tịch dương đông
Băng tuyến nhàn phao bạch luyện trung.
Lân liệp tầm lai niêm ngọc nhỉ,
Yên ba trường tự khống thu phong.
Sương hoành bích địch hồng sơ tễ
Thủy tẩm kim câu nguyệt tại không.
Hải thượng tà đầu thời độc tiếu.
Di dân thiên ngoại hữu ngư ông.
Đông Hồ dịch thơ:
Sông Lư bảng lảng ánh dương hồng,
Ném sợi băng trên tấm lụa trong.
Mồi ngọc đã làm ngon miệng cá,
Gió thu đâu để nổi cơn giông.
Cầu vòng cần trúc hơi sương đượm,
Trăng uốn vành câu bóng nước lồng.
Lắm lúc ngửa nghiêng cười với biển,
Bên trời riêng một cõi ngư ông.
Phiên âm Hán - Việt
2. Khê thượng lưu hoành dạ sắc dung
Niêm câu nhàn điếu ngũ canh chung
Tứ biên lộ khí phù trầm ngoại
Nhất lũ ba quang kỷ vạn trùng
Điềm khiết mỗi liên âu vụ hiệp
Hành tàng ưng phó thủy vân cung
Mãn chu phong nguyệt kham ngu xứ
Lảo đảo thương minh nhập tửu chung.
(Xem bản chữ Hán hai bài thơ trên trong sách Văn học Hà Tiên, tr. 55, 57 và 74. Bài thứ 2, Đông Hồ chưa dịch nghĩa và dịch thơ)
Tháng 11 năm 1986, trong buổi lễ 250 năm Tao đàn Chiêu Anh Các (1736-1986) do tỉnh Kiên Giang tổ chức; trong một thuyết trình, nữ sĩ Mộng Tuyết công bố thêm một bài Lư Khê nhàn điếu như sau:
Thủy quốc vân hương cảnh bất phàm
Diên Khê sơn sắc bích sàm nham
Đạm yên ổn trạo hoành cô đỉnh
Tế vũ khinh thoa chướng đoản sam
Thôn nhĩ nan đầu đa khẩn tuyến
Đình can thiên tế kiến chinh phàm
Tư luân hải ngoại trương thơ quyện
Cổ tiếp thung dung kiểm điếu hàm.
Nữ sĩ Mộng Tuyết dịch thơ:
Vùng nước làn mây cảnh sáng trong
Dọc khe núi dựng sắc xanh chồng
Khói mờ xuôi mái quay thuyền dạo
Mưa nhẹ tơi thưa áo ngắn lồng
Cá đớp mồi câu dây nhợ thẳng
Cần buông mắt dõi cánh buồm căng
Tơ giăng cuốn thả ngoài khơi rộng
Kiểm lại hòm câu gõ nhịp vang.
Năm 1985, Cao Tự Thanh đọc được trong một hợp tập thơ văn chữ Hán chép tay tại Thư viện Khoa học xã hội Thành phố Hồ Chí Minh thêm bốn bài nữa. Bốn bài này có nhan đề "Lư Khê nhàn điếu" chép lẫn giữa một số thơ văn khác về Hà Tiên, cuối hợp tập có dòng chữ "Nam triều Bảo Đại Giáp Tuất niên tam nguyệt sơ nhất nhật, An Trường Hải Nhi thư vu Hà Tiên chi lữ thứ" (ngày 1 tháng 3 năm Giáp Tuất niên hiệu Bảo Đại Nam triều - 14.4.1934, An Trường Hải Nhi (?) chép ở đất khách Hà Tiên).
Sau đây là nguyên văn và thứ tự bốn bài thơ nói trên:
I.
Lãng bình nhân ổn tự du tai,
Nhàn đãng khinh chu điếu kiển hồi.
Hôn trực thâm trầm câu nhĩ trọng,
Lân la loạn chiếm thủy văn khai.
Trú tầm vân ảnh tùy lưu bạc,
Dạ trục hàn quang đới nguyệt hồi.
Tiếu ngạo yên ba thời xuất một,
Tương kỳ khê tịch hải triều lai.
Tạm dịch:
Sóng yên người ổn thật vui thay,
Thong thả thuyền câu ngược rạch bơi.
Mồi nặng dòng sâu dây nhợ thẳng,
Nước xao gió gợn vảy hoa bày.
Sáng tìm mây loáng theo khe chảy,
Đêm đuổi sương bay đội nguyệt về.
Cười cợt ra vào nơi khói sóng,
Vừa cơn ròng tối đã triều mai.
II.
Sấn tễ phù thanh triển điếu luân,
Trường lưu nhân tại bích khê xuân.
Kim sàm trục ảnh phao hương nhĩ,
Ngọc chức lâm ba duệ cẩm lân.
Vạn khoảnh bất kinh phong lãng khởi,
Tứ thời trường dữ thủy vân lân.
Nhàn thừa kha hạm ngâm phong nguyệt,
Độc điếu uông dương lão thử thân.
Tạm dịch:
Mưa tạnh trời trong khẽ nhắp cần,
Theo dòng câu cá tới khe xuân.
Lưỡi vàng đuổi bóng theo mồi nhẹ,
Tơ ngọc vào sông đẩy sóng dần.
Muôn khoảnh ba đào lòng há sợ,
Bốn mùa mây nước nghĩa càng thân.
Dong thyền rảnh rỗi ngâm trăng gió,
Trên biển già nua ngạo tấm thân.
III.
Kỷ loan phong nguyệt nhất khê vân,
Triêu tịch tương ư duật lộ quần.
Hiểu trướng lạm lai ngư phún tuyết,
Minh yên hàn để thủy phiên văn.
Tung hoành tối ái phù chu ổn,
Thư quyện thiên năng đắc cối tần.
Nhược vấn điền viên hà xứ thị,
Bích thiên vô tế thủy vô ngân.
Tạm dịch:
Khe tràn mây khói vịnh đầy trăng,
Sớm tối cò le thoả hợp quần.
Triều sáng cá phun dòng sủi tuyết,
Khói mờ nước động sóng khoe văn.
Dọc ngang mặc sức thuyền con vững,
Câu kéo nhiều phen gỏi cá ăn.
Vườn ruộng nơi nào đừng nhọc hỏi,
Trời xanh không chắn biển không ngăn.
IV.
Nhạn hạc lô từ hiệp hữu bằng,
Lư hà liêu chử hảo y bằng.
Vi mang hiểu sắc tầm ngư ảnh,
Tễ bích tình không lý điếu thằng.
Khứ trú tự do dao đoản tiếp,
Đô tây tương chiến hữu hàn đăng.
Bàng lưu độc vấn tâm trung sự,
Dục phỏng Bàn Khê khước vị năng.
Tạm dịch:
Cồng cộc, le cò giỡn líu lăng,
Sông lau bến lách thảy xung xăng.
Sắc mai hơi ngút tìm tăm cá,
Trời tạnh mây quang chúc ngọn cần.
Đi ở thong dong chèo nhỏ khuấy,
Đông tây lố nhố lửa khuya giăng.
Bên dòng thầm hỏi lòng ngư phủ,
Học đợi công hầu nghĩ khó khăn.
Phú Lư Khê nhàn điếu
Bài phú Lư Khê nhàn điếu, tên đầy đủ là Lư Khê nhàn điếu tam thập nhị phú là bài phú dài hơn trăm câu do Mạc Thiên Tứ sáng tác, được xếp chung trong tập thơ Minh Bột di ngư.
Bài phú này còn tồn tại là nhờ nó được Phạm Nguyễn Du (3) ghi lại trong Nam hành ký đắc tờ 27a-29a, mang ký hiệu A. 2939 hiện lưu giữ tại Viện nghiên cứu Hán Nôm. Tài liệu này chỉ có ở miền Bắc nên trong Văn học Hà Tiên (bản in năm 1970), thi sĩ Đông Hồ chỉ giới thiệu được một đoạn của bài phú Lư Khê nhàn điếu còn sót trên tường Mạc Công Miếu ở Hà Tiên.
Năm 1980, Cao Tự Thanh thông báo tài liệu này với nữ sĩ Mộng Tuyết để bà liên hệ với Viện nghiên cứu Hán Nôm (Hà Nội) nhờ sao lại. Năm 1986, Mộng Tuyết đã trao bản ấy cho học giả Giản Chi phiên dịch và công bố trong tập Kỷ yếu 250 năm thành lập Tao đàn Chiêu Anh Các (1736-1986), do Sở Văn hoá và Thông tin Kiên Giang xuất bản năm 1987; và sau nữa cho in lại trong Văn học Hà Tiên (Đông Hồ biên soạn, bản in lại năm 1999), nhưng có vài chỗ chưa thật đúng về văn bản.
Phiên âm Hán - Việt:
Hải khoát, thiên không,
Vân cao, thủy dung.
Thời hoa nhược cựu.
Thế sự vô cùng.
Tuần du ư thương ba chi thượng,
Tùng phiếm ư Nam phố chi đông.
Duy độn thương chi đắc lộ.
Cố vật ngã chi hữu cùng,
Nguyên thác tôn ư mang điểu,
Thú vô tình ư cùng thông.
Trữ tri di thứ,
Lão tác ngư ông.
Ư thị:
Kiết điếu cụ,
Phất xoa lạp.
Thiên khinh châu,
Sự cao bồng,
Ngư khinh, trà táo.
Tửu úng, thi đồng
Dụng bị, ứng sự
Ốn trục khinh chình phong,
Sấn trào ba chi thành vụ,
Nhậm thần hôn dĩ cần công.
Đỗ quyên lưu nhi phiếm lạm,
Đích quyên hử chi sung dung.
Nhất can trường dự,
Nhàn điếu thử trung.
Nhĩ nãi: niêm hương nhị hề phao khinh kiển.
Trầm tân nguyệt hề hoành đế đổng.
Nhất lũ tài thùy,
Vạn ba tùy động.
Ngọc thốc vựng viên,
Tiêu trữu phong lộng.
Ỷ tiếp hề trầm ngâm,
Tùy cơ hề vãn khống.
Ngô phi thực nhi đa cầu,
Vật nhân tham nhi tự tống.
Tá thứ tiêu bỉ.
Di di không không.
Chí ư: khê khẩu trào bình,
Hải đầu quang lạc,
Yên ba đáo xứ,
Tận kỹ thanh sảng,
Tất đắc giải thưởng.
Thụ thảo ông âm ư khê bạn hề, trừ phố hà lô;
Phong vân liêu điểu ư hài tây hề, thủy thiên hạo hoảng
Sa điểu kinh thời nhi cao tường,
Phù diệp tùy lưu nhí đãng dạng,
Văn mục địch chi trường suy,
Lai ngự ca nhi đệ hưởng.
Ki trừ can dĩ phóng hoài.
Phục tư nhân hồ tưởng tượng.
Nhiên nhi:
Phiến phàm yên thủy
Lưỡng tương thương lang
Bất tri vinh phú.
Nhậm lạc khang trang
Nghi phù du ư thiên ngoại hề, hàng xuất một hồ uông dương:
Kí phiêu linh ư ngư bạc hề, kì thê tức Hồ Hoài Giang.
Dĩ đa tình ư Trương Tử hề, tương hữu ỷ ư Nghiêm Quang.
Mộ Quý Trát chi thượng thanh vi hề, miến Chi Di chi sự minh mang.
Dẫn Nhậm công chi điếu hề, nghi hồ thư quyển.
Phù Trọng Do chi phu hề, nguyên hĩ tung hoành.
Hệ thử sinh ư Nam hải,
Lạc tạo vật hồ tiền trình,
Hữu thời ngộ ư phong cao, lãng chấn hề, đa sử nhân ư hãi hãi, hồn kinh
Hữu thời hám hồ cốc văn liên y hề, đa sử nhân hồ tâm khoáng thần thanh
Hữu thời đổ ngư được diên phi hề, đa sử nhân ư đạo niệm, hưu minh.
Hữu thời cảm ư bạch vân lưu thủy hề, đa sử nhân ư vật ngã vong tình.
Tự thị:
Muội đán vãng lai,
Thê trì trách hạm,
Hoặc tùy tướng nhi bạc lô âm…
Hoặc hoành cà nhi ca dạ tĩnh:
Hoặc bát tương ư khốn ngư,
Hoặc bài luân ư dẫn ngạnh.
Giác thiên địa hề vô di,
Cực phong sương hề tự mãnh.
Bạc phù sinh ư âu vân,
Thị vạn vật như hào dĩnh,
Sưởng hoàng hoa hề dã vong,
Bi phiêu linh hề độc cảnh.
Nhi hựu:
Tư mỹ nhân hề, diểu hà chi,
Hoài cố quốc hề đồ dẫn lĩnh!
Tri cán thực hề canh tường,
Cố tiêu y hề khâm ảnh.
Quý trưởng đại chi vô tài,
Không cảm phẩu ư quang cảnh
Kí can trúc chi sinh nhai
Am thử sinh ư hữu hanh.
Đối văn thủy dĩ chung niên,
Lạc yên ba ư vạn khoảnh.
Kì bất phụ hồ ngư lạc bán sinh trung,
Sướng dư hoài nhi thi ca tam thập vịnh.
Học giả Giản Chi dịch:
Buông câu trên Lư Khê
Bể rộng, trời không,
Mây cao nước trong
Ngày tháng như cũ,
Việc đời khôn cùng.
Chơi vơi làn trong, sóng biếc
Mênh mang bến Nam duềnh Đông…
Hành, tàng miễn đúng đường đạo nghĩa
Vật ngã vốn có chỗ chung cùng,
Nguyện gửi dấu chân nơi mang diểu,
Hầu vơi tâm sự, vận cùng thông
Phận làm di thứ,
Vai đóng ngư ông,
Ấy vậy, sửa soạn,
Đồ nghề buông câu:
Lò trà, tơi nón.
Thơ túi, rượu bầu;
Thuyền con một lá.
Thẳng miền lác, lau.
Nương luồng gió thuận
Dong buồm trôi mau…
Lựa con sóng ngọn trào đỡ sức
Sớm rồi chiều chăm sóc như nhau
Ngó duềnh lênh láng
Nhằm vũng trong sâu
Chiếc cần dài sẵn
Buông đó chớ đâu?
Vầng trăng mời chìm chừ, giăng ngang tựa bóng cầu vồng.
Sợi dây một thả
Gợn sóng trùng trùng
Nhỏ to, ngọc tròn từng vốc nổi
Lăn tăn lực mịn bao nếp rung…
Tựa mái chèo chừ, thả, buông, giật, tung
Ta đâu phải vì ăn mà cầu nhiều, ước lắm
Vật chính bởi ham mồi mà mắc lưỡi vô tròng
“Mượn đây, tiêu đó”
Thoải mái, ung dung
Đến như gặp khi
Cửa khe trào lắng
Biển rút quang đãng
Khói sóng đó đây
Rất mực trong sáng
Giai cảnh, lương thì
Tận tình ngoạn thưởng
Cỏ cây xum xuê bên bờ khe chừ lau lác um tùm.
Mây gió phất phơ vùng biển Tây chừ nước trời lấp loáng
Con le kinh ngạc từng lúc tung bay
Chiếc lá bồng bềnh theo làn lên xuống
Nghe hơi sáo mục đồng véo von
Lắng giọng ca ngư ông rổn rảng
Đã hướng cần mong phóng hoài
Lại nhớ ngoài mà tưởng tượng
Thế nhưng:
Buồm một lá bầu trời yên thủy
Chèo đôi cay non nước Thương Lang
Chẳng màng phú quý
Miễn thú khang trang
Nên bồng bềnh nơi chân trời chừ mà vào ra giữa khoảng mênh mang
Muôn lênh đênh trên vũng câu chừ mà thê trì trên sóng nước Hoài Giang
Đã giàu tính hơn Trương Tử chừ lại có ý với Nghiêm Quang
Mộ Quý Trát chuộng, thanh cao chừ, mến Chi Di tìm cảnh mênh mang
Buông câu Nhậm công chừ hưởng thú thư quyển
Cưỡi bè Trọng Do chừ tin đúng nghĩa hành tàng
Gắn cuộc sống liền vào Nam hải
Nhắm tiền đồ vui đức hóa sinh
Có lúc gặp gió to sóng cả chừ mà vía ác hồn kinh
Có lúc ngó làn sóng lăn tăn chừ mà đạo niệm ngời xanh
Có lúc cảm thông với mây trắng trôi, nước xanh chảy chừ mà bao người quên vật, quên mình.
Từ đó:
Mờ sáng tới lui, nương náu giữa tàu to, thuyền nhỏ
Hoặc theo con nước lên mà, dưới bóng lác lau, đôi chèo yên đỗ,
Hoặc đưa ngang cây kèn mà khúc ca đêm thanh nhịp gõ
Hoặc bẻ lái giúp ông chài gặp bước khó khăn.
Hoặc cuốn dây câu mà lưỡi câu nhẹ gỡ,
Vỡ lẽ trời đất chừ không sót, không quên
Bền gan tiến thủ chừ khinh sương khinh gió.
Coi kiếp sóng bềnh bồng như giọt nước bóng mây kia,
Xem muôn vật nhỏ nhoi như lông thu hạt thóc đó,
Xót trôi giạt chừ cảnh giác phận mình,
Thương thắm tươi chừ điêu linh nội cỏ.
Mà lại:
Tưởng Người Đẹp chừ đang vò võ phương nào,
Nhớ nước cũ chừ chỉ đăm đăm ngoái cổ:
Đoái áo mặc đêm chừ, kìa bóng chăn
Muốn bữa ăn muộn mà cúng giỗ.
Thẹn vì tuổi lớn mà tài năng kgo6ng
Giận chỉ buồn suông, trước ngày bóng đổ.
Yên phần số cùng cuộc sống ưa may
Qua ngày tháng với cần tre miệng giỏ.
Nước non man mác, thảnh thơi hôm sớm tuổi trời
Khói sóng trùng trùng, vui ngắm bức tranh mây chó
Mong không phụ nửa đời hưởnmg thú buông câu
Thích có hứng gieo ba chục vần ghi nhớ!
Giải thích từ khó:
Thương Lang: tức sông Hán Thủy, Trung Quốc.
Hoài Giang: tức sông Hoài, Trung Quốc.
Trương Tử Phòng: tức Trương Lương. Ông này giúp Lưu Bang dựng thành đế nghiệp, rồi lui về ở ẩn, học đạo với Xích Tùng Tử.
Nghiêm Quang: tức Nghiêm Tử Lăng. Gặp lúc Vương Mãng cướp ngôi nhà Hán, ông đi ẩn cư trên sông Phú Xuân (huyện Đồng Lư, Chiết Giang) lấy câu cá làm vui.
Quý Trát: được vua cha lập làm thái tử, ông không nhận.
Chi Di: tức Phạm Lãi, là một tướng tài của nước Việt ở Trung Hoa thời Xuân Thu Chiến Quốc, người đã giúp Việt vương Câu Tiễn tiêu diệt nước Ngô.
Nhậm công: không rõ, chỉ biết trong sách Trang Tử có câu: Nhậm công tử kỷ niên bất đắc ngư (Nhậm công tử buông câu ở bể Đông, cả năm không được cá).
Trọng Do tức Tử Lộ: Ông là một trong những học trò giỏi cua Khổng Tử. Khi còn hàn vi, nhà rất nghèo túng. Tử Lộ quanh năm vất vả, một niềm phụng dưỡng cha mẹ rất chu đáo.
*
Theo Ngạc Xuyên, người cuối cùng đọc được đầy đủ Minh Bột di ngư (bản in năm 1821), thì đây là một tập thi hoạ rất quý, chẳng những quý về phương diện sử liệu, văn học; còn quý về mỹ thuật, về bút tích của tiền nhân. Ông viết: "Sách này in lối nhất thi nhất họa, mỗi bài thơ có kèm một bức vẽ, do các tay danh hoạ, các tay đại bút bấy giờ đua nhau trình bày..." Nghe tin bản sách trên bị cháy rụi, thi sĩ Đông Hồ có ý nuối tiếc: "Sách này, người tàng trữ nó là nhà sử học Lê Thọ Xuân không còn giữ được. Mà muốn tìm được quyển thứ hai thì biết tìm ở đâu. Sách này mà còn thì vô giá bảo. Ước rằng vật quý văn hóa chẳng lẽ trầm mai, độc giả tri kỷ bốn phương xin đặc biệt lưu ý giúp cho, may mà có ngày tao ngộ."
Và Cao Tự Thanh cũng đã than rằng: "Đây là một điều đáng tiếc đã gây nhiều khó khăn cho việc tìm hiểu thơ văn Chiêu Anh Các nói chung và thơ văn Mạc Thiên Tích nói riêng trong nhiều năm qua. Bởi vì nếu những Hà Tiên tập vịnh, Thụ Đức hiên tứ cảnh... là tiếng nói chung của cộng đồng Việt Nam ở trấn Hà Tiên thế kỷ 18, thì Minh Bột di ngư lại là tiếng lòng riêng tư của bộ phận người Hoa phản Thanh phục Minh ở Hà Tiên và cả Đàng Trong buổi ấy, những người yêu nước phải đào vong tị nạn và trong quá trình đấu tranh để hoà nhập vào một không gian sống mới cũng chủ động và vĩnh viễn vùi chôn tâm sự di thần..."
Khía cạnh ấy sẽ ít nhiều được Nguyễn Trọng Hợp (1834-1902) sau này khái quát qua bài Đề bột di ngư tập hậu (Đề sau tập Minh Bột di ngư) với niềm hoài cổ của một ông quan thời vong quốc:
Cựu quốc hoang lương sự dĩ thù,
Ky nhân hải ngoại độc thừa phù.
Tự phi kinh cức quy chân chủ,
Cánh hướng yên ba học điếu đồ.
Thiên lý vãn triều quy túc lộ,
Bán khê xuân lục trưởng tân bồ.
Anh phong quan dữ tư nhiên tận,
Liêu quách giang thiên phiến nguyệt cô.
Bản dịch:
Nước cũ tan tành việc đã lâu,
Bè côi vượt bể ngạo ba đào.
Mở đường gai góc theo vua thánh,
Hướng nẻo sông hồ học bạn câu.
Ngàn dặm sóng triều cò nghỉ cánh,
Nửa khe xuân biếc cỏ khoe màu.
Phong tư người trước nay đâu vắng,
Quạnh quẽ trời sông mảnh nguyệt đau.
(Kim Giang thi tập)
(1) Theo cách dịch của Nguyễn Huệ Chi, Từ điển Văn học (bộ mới), Nxb Thế giới, 2004, tr. 935.
(2) Theo cách dịch của Ngạc Xuyên (Ca Văn Thỉnh), Hào khí Đồng Nai, Nxb TP. HCM, 1983, tr. 64. Theo cách dịch của ông Chi và ông Thỉnh, lẽ ra phải viết hoa chữ bột, nhưng không hiểu sao trong nhiều sách đều viết như trên.
(3) Trịnh Hoài Đức nói đề tài Lư Khê có 32 vận, nhưng căn cứ câu chua chép kèm theo một đoạn phú trong Minh Bột di ngư được viết lên vách phải nơi chánh điện Mạc Công Miếu, thì chỉ có 30 bài (tam thập vận).
(4) Phạm Nguyễn Du (1739-1786), tên thật Phạm Vĩ Khiêm, hiệu Thạch Động, người huyện Chân Phúc, trấn Nghệ An, nay là huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An. Ông đỗ Hoàng giáp năm 1779, tác giả Nam hành ký đắc tập.
Tham khảo:
- Trần Trọng Kim, Việt Nam sử lược, Nxb Tân Việt, Sài Gòn, 1968.
- Cao Tự Thanh, Thêm bốn bài thơ Lư Khê nhàn điếu của Mạc Thiên Tích: http://www.hannom.org.vn/web/tchn/data/9603v.htm
- Đông Hồ, Văn học Hà Tiên, Nxb Văn nghệ TP> HCM, 1999.
- Mộng Tuyết, Núi mộng gương hồ tập 3 (hồi ký) , Nxb Trẻ, 1998.
☆☆☆☆☆ Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook