Lý Thường Kiệt 李常傑

Lý Thường Kiệt 李常傑 (1019-1105) tên thật là Ngô Tuấn, Thường Kiệt là tên tự, sau được ban quốc tính họ Lý, bèn lấy tên tự làm tên, thành tên Lý Thường Kiệt, khi chết có tên thuỵ là Quảng Châu. Theo các sử sách cũ thì ông quê ở phường Thái Hoà, thành Thăng Long, nhưng theo bài văn khắc trên quả chuông chùa BắcBiên, mới phát hiện ở gần Hà Nội và cuốn Tây Hồ chí thì ông người làng An Xá cũ, thuộc huyện Quảng Đức, ở khu vực phía Nam hồ Tây trong thành Thăng Long, còn Thái Hoà chỉ là nơi ở sau khi đã giữ chức vụ trọng yếu trong triều. Sau vì việc mở rộng kinh thành nên làng An Xá dời ra bãi Cơ Xá, tên cũ của xã Phúc Xá (và trong đó có thôn Bắc Biên ngày nay). Ông sinh năm 1019 và mất tháng Sáu năm Ất dậu (từ 13 tháng Bảy đến 11 tháng Tám năm 1105). Gia đình ông nối đời làm quan, nhiều mưu lược, có tài làm tướng. Khi còn ít tuổi, vì vẻ mặt tươi đẹp được sung làm Hoàng môn chi hậu, là thái giám theo hầu Lý Thái Tông, thăng dần đến chức Nội thị sảnh đô tri. Lý Thánh Tông phong chức Thái bảo, trao cho tiết việt để đi thăm hỏi lại dân ở Thanh Hoá, Nghệ An. Tháng 2 năm 1069, khi vua Lý Thánh Tông thân đi đánh Chiêm Thành, ông làm tướng tiên phong, bắt được vua Chiêm là Chế Củ (Rudravarman 4). Năm 1075, Vương An Thạch cầm quyền chính nhà Tống, tâu với vua Tống là Đại Việt bị Chiêm Thành đánh phá, quân còn sót lại không đầy vạn người, có thể dùng kế chiếm lấy được. Vua Tống sai Thẩm Khởi, và Lưu Di làm tri Quế Châu ngầm dấy binh người Man động, đóng thuyền bè, tập thuỷ chiến, cấm các châu huyện không được mua bán với Đại Việt. Vua biết tin, sai ông và Tông Đản đem hơn 10 vạn binh đi đánh. Quân thuỷ, quân bộ đều tiến. Ông đánh các châu Khâm, Liêm; Tông Đản vây châu Ung. Đô giám Quảng Tây nhà Tống là Trương Thủ Tiết đem quân đến cứu. Lý Thường Kiệt đón đánh ở cửa ải Côn Lôn (nay là thành phố Nam Ninh, khu tự trị Quảng Tây) phá tan được, chém Trương Thủ Tiết tại trận. Tri Ung châu là Tô Giám cố thủ không hàng. Quân Đại Việt đánh đến hơn 40 ngày, chồng bao đất trèo lên thành. Thành bị hạ. Tô Giám tự đốt chết. Người trong thành không chịu hàng, giết hết hơn 58.000 người, cộng với số người chết ở các châu Khâm, Liêm thì đến hơn 100.000. Lý Thường Kiệt bắt sống người ba châu ấy đem về. Năm 1076, mùa xuân, tháng 3, nhà Tống sai tuyên phủ sứ Quảng Nam là Quách Quỳ làm chiêu thảo sứ, Triệu Tiết làm phó, đem quân 9 tướng, hợp với Chiêm Thành và Chân Lạp sang xâm lấn Đại Việt. Vua sai Lý Thường Kiệt đem quân đón đánh, đến sông Như Nguyệt đánh tan được. Quân Tống chết hơn 1.000 người. Ông còn 2 lần trực tiếp đi đánh Chiêm Thành vào các năm 1075 và 1104. Năm 1104, vua Chiêm Thành là Chế Ma Na (Jaya Indravarman 2, 1086-1113) đem quân vào cướp, lấy lại 3 châu Địa Lý v.v... mà vua Chế Củ đã dâng. Đến đây, Lý Thường Kiệt đi đánh, phá được, Chế Ma Na lại dâng nộp đất ấy. Vì có công, ông được ban quốc tính (mang họ vua) và phong làm Phụ quốc thái phó, dao thụ chư trấn tiết độ, đồng trung thư môn hạ, thượng trụ quốc, thiên tử nghĩa đệ, phụ quốc thượng tướng quân, tước Khai quốc công, sau lại có công nữa, được phong làm Thái uý. Năm 1105 mùa hạ, tháng 6, Thái uý Lý Thường Kiệt chết, tặng chức Nhập nội điện đô tri kiểm hiệu thái uý bình chương quân quốc trọng sự, tước Việt quốc công, thực ấp 1 vạn hộ, cho người em là Lý Thường Hiến được kế phong tước hầu. Tác phẩm hiện còn một bài thơ thất tuyệt, một bài Lộ bố văn , và một lời cầu xin vua cho cầm quân đi đánh Lý Giác. Lý Thường Kiệt 李常傑 (1019-1105) tên thật là Ngô Tuấn, Thường Kiệt là tên tự, sau được ban quốc tính họ Lý, bèn lấy tên tự làm tên, thành tên Lý Thường Kiệt, khi chết có tên thuỵ là Quảng Châu. Theo các sử sách cũ thì ông quê ở phường Thái Hoà, thành Thăng Long, nhưng theo bài văn khắc trên quả chuông chùa BắcBiên, mới phát hiện ở gần Hà Nội và cuốn Tây Hồ chí thì ông người làng An Xá cũ, thuộc huyện Quảng Đức, ở khu vực phía Nam hồ Tây trong thành Thăng Long, còn Thái Hoà chỉ là nơi ở sau khi đã giữ chức vụ trọng yếu trong triều. Sau vì việc mở rộng kinh thành nên làng An Xá dời ra bãi Cơ Xá, tên cũ của xã Phúc Xá (và trong đó có thôn Bắc Biên ngày nay). Ông sinh năm 1019 và mất tháng Sáu năm Ất dậu (từ 13 tháng Bảy đến 11 tháng Tám năm 1105). Gia đình ông nối đời làm quan, nhiều mưu lượ…

Lý Thường Kiệt 李常傑 (1019-1105) tên thật là Ngô Tuấn, Thường Kiệt là tên tự, sau được ban quốc tính họ Lý, bèn lấy tên tự làm tên, thành tên Lý Thường Kiệt, khi chết có tên thuỵ là Quảng Châu. Theo các sử sách cũ thì ông quê ở phường Thái Hoà, thành Thăng Long, nhưng theo bài văn khắc trên quả chuông chùa BắcBiên, mới phát hiện ở gần Hà Nội và cuốn Tây Hồ chí thì ông người làng An Xá cũ, thuộc huyện Quảng Đức, ở khu vực phía Nam hồ Tây trong thành Thăng Long, còn Thái Hoà chỉ là nơi ở sau khi đã giữ chức vụ trọng yếu trong triều. Sau vì việc mở rộng kinh thành nên làng An Xá dời ra bãi Cơ Xá, tên cũ của xã Phúc Xá (và trong đó có thôn Bắc Biên ngày nay). Ông sinh năm 1019 và mất tháng Sáu năm Ất dậu (từ 13 tháng Bảy đến 11 tháng Tám năm 1105).

Gia đình ông nối đời làm quan, nhiều mưu lược, có tài làm tướng. Khi còn ít tuổi, vì vẻ mặt tươi đẹp được sung làm Hoàng môn chi hậu, là thái giám theo hầu Lý Thái Tông, thăng dần đến chức Nội thị sảnh đô tri. Lý Thánh Tông phong chức Thái bảo, trao cho tiết việt để đi thăm hỏi lại dân ở Thanh Hoá, Nghệ An. Tháng 2 năm 1069, khi vua Lý Thánh Tông thân đi đánh Chiêm Thành, ông làm tướng tiên phong, bắt được vua Chiêm là Chế Củ (Rudravarman 4).

Năm 1075, Vương An Thạch cầm quyền chính nhà Tống, tâu với vua Tống là Đại Việt bị Chiêm Thành đánh phá, quân còn sót lại không đầy vạn người, có thể dùng kế chiếm lấy được. Vua Tống sai Thẩm Khởi, và Lưu Di làm tri Quế Châu ngầm dấy binh người Man động, đóng thuyền bè, tập thuỷ chiến, cấm các châu huyện không được mua bán với Đại Việt. Vua biết tin, sai ông và Tông Đản đem hơn 10 vạn binh đi đánh. Quân thuỷ, quân bộ đều tiến. Ông đánh các châu Khâm, Liêm; Tông Đản vây châu Ung. Đô giám Quảng Tây nhà Tống là Trương Thủ Tiết đem quân đến cứu. Lý Thường Kiệt đón đánh ở cửa ải Côn Lôn (nay là thành phố Nam Ninh, khu tự trị Quảng Tây) phá tan được, chém Trương Thủ Tiết tại trận. Tri Ung châu là Tô Giám cố thủ không hàng. Quân Đại Việt đánh đến hơn 40 ngày, chồng bao đất trèo lên thành. Thành bị hạ. Tô Giám tự đốt chết. Người trong thành không chịu hàng, giết hết hơn 58.000 người, cộng với số người chết ở các châu Khâm, Liêm thì đến hơn 100.000. Lý Thường Kiệt bắt sống người ba châu ấy đem về. Năm 1076, mùa xuân, tháng 3, nhà Tống sai tuyên phủ sứ Quảng Nam là Quách Quỳ làm chiêu thảo sứ, Triệu Tiết làm phó, đem quân 9 tướng, hợp với Chiêm Thành và Chân Lạp sang xâm lấn Đại Việt. Vua sai Lý Thường Kiệt đem quân đón đánh, đến sông Như Nguyệt đánh tan được. Quân Tống chết hơn 1.000 người.

Ông còn 2 lần trực tiếp đi đánh Chiêm Thành vào các năm 1075 và 1104. Năm 1104, vua Chiêm Thành là Chế Ma Na (Jaya Indravarman 2, 1086-1113) đem quân vào cướp, lấy lại 3 châu Địa Lý v.v... mà vua Chế Củ đã dâng. Đến đây, Lý Thường Kiệt đi đánh, phá được, Chế Ma Na lại dâng nộp đất ấy. Vì có công, ông được ban quốc tính (mang họ vua) và phong làm Phụ quốc thái phó, dao thụ chư trấn tiết độ, đồng trung thư môn hạ, thượng trụ quốc, thiên tử nghĩa đệ, phụ quốc thượng tướng quân, tước Khai quốc công, sau lại có công nữa, được phong làm Thái uý.

Năm 1105 mùa hạ, tháng 6, Thái uý Lý Thường Kiệt chết, tặng chức Nhập nội điện đô tri kiểm hiệu thái uý bình chương quân quốc trọng sự, tước Việt quốc công, thực ấp 1 vạn hộ, cho người em là Lý Thường Hiến được kế phong tước hầu.

Tác phẩm hiện còn một bài thơ thất tuyệt, một bài Lộ bố văn, và một lời cầu xin vua cho cầm quân đi đánh Lý Giác.
Lý Thường Kiệt 李常傑 (1019-1105) tên thật là Ngô Tuấn, Thường Kiệt là tên tự, sau được ban quốc tính họ Lý, bèn lấy tên tự làm tên, thành tên Lý Thường Kiệt, khi chết có tên thuỵ là Quảng Châu. Theo các sử sách cũ thì ông quê ở phường Thái Hoà, thành Thăng Long, nhưng theo bài văn khắc trên quả chuông chùa BắcBiên, mới phát hiện ở gần Hà Nội và cuốn Tây Hồ chí thì ông người làng An Xá cũ, thuộc huyện Quảng Đức, ở khu vực phía Nam hồ Tây trong thành Thăng Long, còn Thái Hoà chỉ là nơi ở sau khi đã giữ chức vụ trọng yếu trong triều. Sau vì việc mở rộng kinh thành nên làng An Xá dời ra bãi Cơ Xá, tên cũ của xã Phúc Xá (và trong đó có thôn Bắc Biên ngày nay). Ông sinh năm 1019 và mất tháng Sáu năm Ất dậu (từ 13 tháng Bảy đến 11 tháng Tám năm 1105).

Gia đình ông nối đời làm quan, nhiều mưu lượ…
Bài liên quan

Lan Sơn Nguyễn Đức Phòng

Lan Sơn (1912-1974) tên thật là Nguyễn Đức Phòng, sinh ngày 11/4/1912 tại Hải Phòng, nguyên quán phủ Anh Sơn, Nghệ An. Ông học qua các trường Hải Phòng, Tourane, Bảo hộ Hà Nội, sau làm việc tại sở Công chính Hải Phòng. Ông có thơ đăng trên các báo Hải Phòng tuần báo , Phong hoá , Ngày nay , Tinh hoa ...

Nam Trân Nguyễn Học Sỹ

Nam Trân (1907-1967), chính tên là Nguyễn Học Sỹ, sinh ngày 15-2-1907 ở làng Phú Thứ Thượng, xã Đại Quang, huyện Đại Lộc (tỉnh Quảng Nam). Học chữ Hán đến năm 12 tuổi và đã tập làm những lối văn trường ốc. Sau học trường quốc học Huế, trường Bảo Hộ Hà Nội. Có bằng Tú tài bản xứ. Làm: Tham tá toà ...

Thôi Hữu Nguyễn Đắc Giới, Tân Sắc, Trần Văn Tấn

Thôi Hữu (1914-1950) tên thật là Nguyễn Đắc Giới (có nơi ghi Nguyễn Đức Giới), sinh tại Hoằng Hoá, Thanh Hoá, làm thợ điện, tham gia tổ chức bí mật ở Hà Nội, bị bắt, vượt ngục, tham gia Hội văn hoá cứu quốc, bị máy bay Pháp oanh tạc, mất mới 31 tuổi. Bút danh khác: Tân Sắc, Trần Văn Tấn. Tác phẩm: - ...

Xuân Thuỷ Nguyễn Trọng Nhâm

Xuân Thuỷ là nhà cách mạng, nhà thơ, tên thật là Nguyễn Trọng Nhâm, sinh ngày 2/9/1912 trong một gia đình nho học tại xã Xuân phương, huyện Hoài Đức, tỉnh Hà Đông, nay thuộc Từ Liêm, Hà Nội. Ông sớm có tinh thần yêu nước và lòng ham thích thơ văn. Năm 1938, ông bị thực dân Pháp bắt và đày trong các ...

Nguyễn Vỹ

Nguyễn Vỹ sinh năm 1910 ở làng Tân Hội (nay đổi là Tân Phong), huyện Đức Phổ, Quảng Ngãi. Đã từng học qua các trường Quảng Ngãi, trường Quy Nhơn. Ông đã từng cạo đầu đi tu, gánh cát ở bãi sông Cái, từng bán kẹo ở Hà Nội, bán báo ở Sài Gòn. Về sau này sống bằng nghề viết văn. - Đã viết: Ami du peuple ...

Nguyễn Xuân Huy

Nguyễn Xuân Huy sinh ngày 15/7/1915 tại làng Dũng Quyết, huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định. Học ở Nam Định, sau là giáo viên dạy học ở Hà Nội. Ông có thơ đăng trên các báo Đông tây , Phụ nữ thời đàm , Nhật tân , Tân thiếu niên, Hanoi báo .

Vũ Hoàng Chương

Vũ Hoàng Chương sinh ngày 5 tháng 5 năm 1916 tại Nam Định. Chánh quán của ông ở làng Phù Ủng tỉnh Hưng Yên. Thủa nhỏ ông theo hoc Albert Sarrault ở Hà Nội, đỗ tú tài năm 1937. Năm 1938 ông vào trường Luật nhưng chỉ được một năm thì lại bỏ đi làm Phó kiểm soát sở hoả xa Đông Dương. Năm 1941 ông bỏ sở ...

Tân Diên Niên 辛延年

Tân Diên Niên 辛延年 người đời Đông Hán, không rõ thân thế. Tác phẩm của ông chỉ còn lại một bài "Vũ lâm lang" 羽林郎 rất có giá trị.

Đào Cảng Đào Văn Cảng

Đào Cảng (1941-1987) tên khai sinh là Đào Văn Cảng, sinh tại huyện Thuỷ Nguyên, thành phố Hải Phòng. Quê gốc xã Khúc Thuỷ, huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Tây. Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam. Đào Cảng làm thợ cơ khí trong thời kỳ giặc Mỹ đánh phá miền Bắc. Sau đó ông chuyển sang làm công tác nghiệp vụ tại ...

Triệu Nhất 趙壹

Triệu Nhất 趙壹 là danh sĩ triều Hán Linh Đế 漢靈帝 (168–189) đời Đông Hán, năm sinh và mất không rõ, tự là Nguyên Thúc 元叔, người Tây Huyện, Hán Dương (nay thuộc tây nam thành phố Thiên Thuỷ, tỉnh Cam Túc). Ông là người cậy tài kiêu ngạo, từng nhiều lần bị người khác vu hại đến tội chết, nhưng lại có ...

Mới nhất

THPT Đinh Tiên Hoàng

THPT Đinh Tiên Hoàng đang không ngừng nỗ lực phát triển trở thành một ngôi trường với chất lượng giảng dạy tốt nhất, tạo ra những thế hệ học sinh chất lượng

THPT Thực nghiệm

Trường THPT Thực Nghiệm trực thuộc Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam. Trường là cơ sở giáo dục đào tạo công lập trong hệ thống giáo dục quốc dân và trong hệ thống các trường phổ thông của thành phố Hà Nội. Trường dạy học theo chương trình giáo dục Trung học phổ thông của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Tiếp ...

THPT Đông Kinh

Khẩu hiệu hành động: “ Hãy đặt mình vào vị trí cha mẹ học sinh để giảng giải giáo dục và xử lý công việc ” “ Tất cả vì học sinh thân yêu ”

THPT Hà Nội Academy

Những rào cản còn tồn tại kể trên sẽ được vượt qua bởi những công dân toàn cầu tích cực với nhiệm vụ chung tay xây dựng một thế giới tốt đẹp hơn thông qua việc nghiên cứu và tìm kiếm giải pháp cho những vấn đề toàn cầu bao gồm, nhưng không giới hạn ở nhân quyền, đói nghèo và công bằng xã hội. Nhận ...

http://thptkimlien-hanoi.edu.vn/

Qua 40 năm nỗ lực phấn đấu trong các hoạt động giáo dục, vượt khó khăn, thiếu thốn về cơ sở vật chất, trường THPT Kim Liên đã tạo dựn được uy tín vững chắc, là 1 trong 5 trường THPT hàng đầu của Thủ đô có chất lượng giáo dục toàn diện không ngừng nâng cao và trở thành địa chỉ tin cậy của các bậc ...

THPT Tô Hiến Thành

Trường THPT Tô Hiến Thành được thành lập từ năm học 1995-1996, theo quyết định của Ủy Ban nhân dân tỉnh Thanh Hóa. Đến tháng 6/2010, trường chuyển đổi loại hình sang công lập. Suốt 20 năm phát triển, thầy, cô giáo, thế hệ học sinh đã phấn đấu vượt qua mọi khó khăn, gian khổ, từng bước phát triển ...

THPT Mai Hắc Đế

Trường THPT Mai Hắc Đế được thành lập năm 2009, sau gần 10 năm xây dựng và phát triển, Trường đã trở thành một địa chỉ tin cậy trong đào tạo bậc THPT trên địa bàn Hà Nội.

Trường Trung học phổ thông Nguyễn Gia Thiều

Nhìn lại chặng đường gần 60 năm xây dựng và trưởng thành , các thế hệ giáo viên và học sinh trường Nguyễn Gia Thiều có thể tự hào về truyền thống vẻ vang của trường ; tự hào vì trường đã đóng góp cho đất nước những Anh hùng , liệt sĩ , những người chiến sĩ , nhà khoa học , trí thức , những cán bộ ...

Trường Trung học phổ thông MV.Lô-mô-nô-xốp

Sứ mệnh Xây dựng Hệ thống giáo dục Lômônôxốp có môi trường học tập nền nếp, kỉ cương, chất lượng giáo dục cao; học sinh được giáo dục toàn diện, có cơ hội, điều kiện phát triển phẩm chất, năng lực và tư duy sáng tạo, tự tin hội nhập.

Trường Trung học phổ thông Quốc tế Việt Úc Hà Nội

Trường thực hiện việc giảng dạy và học tập theo chương trình do Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành, thực hiện thời gian học tập theo biên chế năm học do Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định. Song song với chương trình này là chương trình học bằng tiếng Anh được giảng dạy bởi đội ngũ giáo viên bản ngữ giàu ...