Nam Trân Nguyễn Học Sỹ

Nam Trân (1907-1967), chính tên là Nguyễn Học Sỹ, sinh ngày 15-2-1907 ở làng Phú Thứ Thượng, xã Đại Quang, huyện Đại Lộc (tỉnh Quảng Nam). Học chữ Hán đến năm 12 tuổi và đã tập làm những lối văn trường ốc. Sau học trường quốc học Huế, trường Bảo Hộ Hà Nội. Có bằng Tú tài bản xứ. Làm: Tham tá toà khâm sứ Huế, sau đó làm Tá lý Bộ lại và Thị lang Bộ lại. Sau Cách mạng Tháng Tám, ông tham gia kháng chiến, công tác ở Uỷ ban kháng chiến hành chính huyện Đại Lộc, Uỷ ban kháng chiến hành chính tỉnh Quảng Nam, rồi làm chánh văn phòng Uỷ ban kháng chiến hành chánh liên khu Việt Nam 1954 ông tập kết ra Bắc, công tác ở Ban chấp hành Hội nhà văn Việt Nam. Năm 1959 công tác tại viện Văn học, chuyên về dịch thuật. Ông cũng là một trong những cán bộ giảng dạy lớp đại học Hán Nôm đầu tiên ở miền Bắc, do uỷ ban khoa học xã hội Việt Nam tổ chức. Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam (1957) Ông mất ngày 21-12-1967 tại Hà Nội, thọ 60 tuổi. Đã đăng thơ trên các báo và tạp chí: Nam Phong, Tạp chí Văn học, Sa Đéc, An Nam tạp chí, Phong hoá, Tràng An, Tân tiến... Các tác phẩm: Huế, đẹp và thơ (1939), Ca dao thi đua, Vườn hạnh phúc (thơ). Là người dịch bản "Ngục trung nhật ký" (xuất bản lần đầu năm 1960). Cùng dịch với nhiều tác giả: Thơ Đường I và II (Giới thiệu và dịch với các bút danh: Nam Trân, Tương Như), Thơ Tống, Thơ và từ của Mao Trạch Đông, Thơ văn Lý Trần, Thơ Quách Mạt Nhược, Người Xô Viết chúng tôi,... Huế đẹp, Huế nên thơ. Ai chẳng nói thế? Ai chẳng thấy thế? Nhưng sao hình ảnh Huế trong thi ca lại tầm thường thế? Có lẽ cảnh Huế huyền diệu, quá mơ màng khồn biết tả thế nào cho thoát sáo. Cũng có lẽ ngắm cảnh Huế, Người ta khó tránh được cái buồn vơ vẩn đó là khí vị riêng của của xứ này và lòng người ta không đủ thản nhiên để ghi lấy hình sắc riêng của mỗi vật. Kể có ít câu của Thu Hồng và hai câu này của Quỳnh Giao cũng được: Một hàng tôn nữ cười trong nón, Sông mở lòng ra đón bóng yêu. Nhưng tả cảnh Huế chưa ai bằng Nam Trân. Nam Trân không rơi vào khuôn sáo là vì người không mơ màng cũng không buồn vơ vẩn. Ở Huế mà ghét Nam Ai, nội chừng ấy cũng đã lạ. Người chỉ thản nhiên nhìn cảnh vật chung quanh và ghi lại những nét già dặn. Thơ Nam Trân thường mỗi bài là một bức tranh nhỏ trong ấy thế nào cũng có ít điều nhận xét đặc sắc. Thỉnh thoảng người cũng ghép vào trong cảnh một ít tình. Nhưng đầu người có nói đến tình yêu, lời thơ vẫn mực thước, vẫn không mất vẻ thiên nhiên. Điều ấy thấy ngay ở bài đầu quyển "Huế, Đẹp và Thơ": một mẩu cảnh xinh xinh, một chút tình phảng phất trong những vần nhịp nhàng và lặng lẽ như giòng Hương Thuỷ trong veo. "Sóng lòng" thi nhân có xao động cũng chỉ trong khoảng khắc nhưng mặt nước sông kia mà thôi. ý thơ nhẹ nhàng, điệu thơ uyển chuyển. Ta nên để ý bài thơ này sáu câu trên thất ngôn mà bốn cau dưới lục bát. Thất ngôn tả vẻ thản nhiên của người đẹp, lục bát tả chút xao động trong lòng người thơ. một cảnh hai tình, nên thơ cũng một bài hai điệu. Về âm điệu, thơ Nam Trân thực dồi dào. Thi nhân không theo điệu nào nhất định. Trước mỗi cảnh, mỗi tình, người lại cố tạo ra một điệu thơ thích hợp. Câu thơ luôn luôn biến hoá: số chữ thay đổi từ một đến mười. Điệu thơ đó là điều tối quan hệ với Nam Trân; người luôn luôn tìm kiếm, vì người nghĩ rằng chỉ có người mới chịu nằm hoài trong một khuôn khổ. Những điệu thơ cũng như ý thơ, ở Nam Trân, đều là kết quả của sự đắn đo kỹ lưỡng, sự suy tính siêng năng. Nam Trân luôn luôn tự chủ ngòi bút của mình một cách chắc chắn, không bao giờ phóng cho nó đi theo những nhạc điệu âm thầm một đôi khi vẫn thao thức trong lòng ta. Cho nên muốn thưởng thức thơ Nam Trân ta cũng phải luyện lây tâm trí cho bình thản. Hãy xếp thơ Nam Trân lại những lúc lòng ta có chuyện xôn xao. Lối thơ tả chân vốn xưa ta không có. đây đó rải rác cũng nhặt được đôi câu, nhưng đến Nam Trân mới biệt thành một lối. Nam Trân đã tìm ra được một khoảnh đất mới và ở đó người ta đã dựng nên - ý chừng để sát nhập làng thơ Việt - cái cảnh núi Ngự sông Hương. Thiết tưởng vị tình láng giềng đất Quảng Nam không thể gửi ra xứ Huế món quà nào quý hơn nữa: lần thứ nhất những vẻ đẹp xứ này được diễn ra thơ. Nam Trân (1907-1967), chính tên là Nguyễn Học Sỹ, sinh ngày 15-2-1907 ở làng Phú Thứ Thượng, xã Đại Quang, huyện Đại Lộc (tỉnh Quảng Nam). Học chữ Hán đến năm 12 tuổi và đã tập làm những lối văn trường ốc. Sau học trường quốc học Huế, trường Bảo Hộ Hà Nội. Có bằng Tú tài bản xứ. Làm: Tham tá toà khâm sứ Huế, sau đó làm Tá lý Bộ lại và Thị lang Bộ lại. Sau Cách mạng Tháng Tám, ông tham gia kháng chiến, công tác ở Uỷ ban kháng chiến hành chính huyện Đại Lộc, Uỷ ban kháng chiến hành chính tỉnh Quảng Nam, rồi làm chánh văn phòng Uỷ ban kháng chiến hành chánh liên khu Việt Nam 1954 ông tập kết ra Bắc, công tác ở Ban chấp hành Hội nhà văn Việt Nam. Năm 1959 công tác tại viện Văn học, chuyên về dịch thuật. Ông cũng là một trong những cán bộ giảng dạy lớp đại học Hán Nôm đầu tiên ở miền Bắc, do… Huế, đẹp và thơ (1939) Kỷ niệm 100 năm ngày sinh cố nhà thơ - dịch giả Nam Trân Đăng bởi MinhAnh&PhuongLinh vào 15/04/2008 21:11 Tác giả: Doãn Thu Tơ Ngày 18 tháng 10 năm 2007, Viện Văn học, Hội Nhà văn và gia đình Nam Trân đã trang trọng tổ chức Lễ tưởng niệm và hội thảo khoa học kỷ niệm 100 năm ngày sinh và 40 năm ngày mất của nhà thơ - dịch giả Nam Trân. Đến dự Lễ tưởng niệm và Hội thảo khoa học có các cán bộ Viện Văn học, Hội Nhà văn, Nhà xuất bản Văn học, Hội Văn học nghệ thuật Thừa Thiên Huế và đại diện các cơ quan thông tấn, báo chí, các nhà thơ, nhà văn, nhà lý luận nghiên cứu phê bình văn học, những độc giả yêu thích, mến mộ tài năng thơ… của Nam Trân. Nam Trân tên thật là Nguyễn Học Sĩ, sinh năm 1907 ở làng Phú Thứ Thượng, huyện Ðại Lộc, tỉnh Quảng Nam. Ông theo học chữ Hán từ nhỏ, từng làm quan dưới triều Nguyễn. Cách mạng tháng Tám nổ ra, ông tích cực nhập vào con đường lớn của nhân dân, tham gia Ủy ban kháng chiến và giữ nhiều chức vụ khác nhau cho đến khi về công tác ở Viện Văn học. Khoảng thời gian 10 năm công tác ở Viện là không lâu, nhưng những gì ông để lại cho văn chương, cho nghiên cứu văn chương vẫn khiến mọi người nhớ mãi. Ông không viết nhiều, nhưng những tác phẩm của ông đầy dấu ấn. GS. Phong Lê trong phát biểu của mình đã xúc động nói “Ngỡ như Nam Trân chỉ là một người bạn ghé đến làng thơ, ghé qua vườn thơ, và nhân tiện mà để lại một chùm, chứ không phải chủ định ở lại như nhiều bạn bè khác đã chọn việc viết văn làm thơ như một nghề, với bậc tiền bối đích thực của họ là Tản Đà. Một cuộc chơi, một chuyến ghé thăm thú vị, và chỉ vậy thôi”. Nam Trân cũng được biết đến với tư cách là một nhà dịch thuật Hán học nổi tiếng. Ông là người tiến hành tổ chức và chủ trì dịch Ngục trung nhật ký của Hồ Chí Minh. Bản dịch Ngục trung nhật ký từ bản in đầu tiên, qua nhiều lần tái bản ở các nhà xuất bản trong và ngoài nước trở thành sự kiện văn học lớn những năm 60 thế kỷ 20. TS. Lê Thị Dục Tú cho rằng thơ và dịch thuật của Nam Trân đem đến nét đặc sắc riêng cũng như những giá trị to lớn khi đặt nó vào ý thức canh tân văn học của các nhà văn Việt Nam trong những năm 30 thế kỷ XX. Chính ý thức này đã nhanh chóng đưa văn học Việt Nam hoàn thành tiến trình hiện đại hóa văn học, đưa nền văn học của dân tộc ta không chỉ thoát khỏi sự nô dịch của văn học phương Tây mà còn hòa nhập và trở thành một bộ phận của văn học thế giới. Kỷ niệm 100 năm ngày sinh, 40 năm ngày mất của Nam Trân, chúng ta không chỉ ghi nhận những đóng góp có giá trị của ông mà còn thấm thía trước tinh thần xuất xử, sự lựa chọn và hành vi ứng xử đáng trân trọng, học tập của một nhà thơ-dịch giả, một trí thức yêu nước. Bài đăng trên trang tin của: Viện Khoa học xã hội Việt Nam ☆ ☆ ☆ ☆ ☆ Chưa có đánh giá nào Chia sẻ trên Facebook Vu cáo chính trị - mập mờ học thuật Đăng bởi MinhAnh&PhuongLinh vào 15/06/2008 10:04 Tác giả: Mai Quốc Liên Từ một trình độ Hán học uyên thâm như thế, ông Nguyễn Huệ Chi (NHC) đi vào làm Thơ văn Lý - Trần. Nói cho đúng, đây là một tập hợp văn bản công phu với công sức của nhiều người, nhưng lại in chữ giản thể. Ở đây không thể nói nhiều chuyện chung quanh cuốn sách này (Chẳng hạn, bản thảo do công lao to lớn của các cụ lão nho: Nguyễn Đức Vân, Đào Phương Bình, có cả Nam Trân làm; công lao của “ông đồ Hỉ” (tên gọi thân mật GS Đỗ Văn Hỉ, một nhà Hán Nôm học cự phách) trong việc dịch tất cả những văn bản khó trong ấy, nhất là các văn bia cổ..., và đến chết “ông đồ Hỉ” vẫn uất hận khôn nguôi trong việc bị đè nén... Và thật sự thì cụ Nghè Đinh Văn Chấp, Đông Châu Nguyễn Hữu Tiến, Ngô Tất Tố... đã dịch phân nửa văn bản Lý - Trần rồi. Và chú thích, dịch... nhất là những vấn đề liên quan đến Phật học còn phải bàn. Nhưng đó không phải là chủ đích của bài báo này). Trong cuốn Thơ văn Lý - Trần này, lẽ ra ông NHC chỉ là người biên soạn, biên tập..., nhưng đến tập II, quyển thượng thì ông lên làm chủ biên... Và quyển hạ, tập II, đến nay sau 40 năm từ khi in tập I, vẫn chưa ra. Thật oái ăm! Giờ tôi chỉ xin nói những chuyện “hai năm rõ mười” thôi. Năm 1969 ở Sài Gòn, Tu thư Đại học Vạn Hạnh in cuốn (Tuệ Trung Thượng sĩ) Ngữ lục do Trúc Thiên dịch. Khi biên soạn Thơ văn Lý - Trần, ông NHC ghi “trong khi dịch thơ văn Trần Tung (tức Tuệ Trung Thượng Sĩ), chúng tôi có tham khảo bản dịch của Trúc Thiên, do Tu thư Đại học Vạn Hạnh ấn hành, 1969” (Thơ văn Lý - Trần, t.II, quyển thượng, H., 1989, tr. 225). Nhưng “tham khảo” như thế nào? Thôi không nói đến phần “tham khảo” văn xuôi, vì phải mất công đối chứng, chỉ nói về thơ thôi. Đối chiếu bản dịch thơ của ông NHC và của Trúc Thiên thì thấy: ngoài việc lấy lại vần, lấy chữ, lấy nguyên si một số câu; ông NHC “xuất nhập” một số ý, “biên tập” lại để thành bài của mình và rồi ký luôn tên mình, xóa mất tên Trúc Thiên vốn là người đầu tiên dịch bài thơ ấy. Trường hợp các bài Thế thái hư huyễn - Họa huyện lệnh, Thị chúng, Tặng Thuần Nhất pháp sư, Thị đồ, Chí đạo vô nan... đều là như vậy. Bài Thế thái hư huyễn, hai câu đầu ông NHC lấy nguyên si (chỉ khác Trúc Thiên dịch chữ phó là gởi, ông để nguyên là phó): - Vân cẩu đổi thay lắm vẻ mà Mơ màng gởi trọn giấc Nam kha. (Trúc Thiên dịch, Ngữ Lục, Sđd, tr.123). - Vân cẩu đổi thay lắm vẻ mà Mơ màng phó trọn giấc Nam kha. (NHC dịch, Thơ văn Lý -Trần, t.II, quyển thượng, tr.250) Hai câu cuối: - Thấy chăng đàn én lầu Vương Tạ Nay hết vàng son lạc vạn nhà. (Ngữ Lục, Sđd) - Hãy xem đàn én lầu Vương Tạ Nay xuống làm thân với mọi nhà. (Thơ văn Lý - Trần, Sđd, tr.250) Theo ý tôi, câu dịch Trúc Thiên sáng tạo hơn, hay hơn, nhất là chữ vàng son, chữ lạc thật đắt, khi nhớ câu thơ Đường về Vương, Tạ của Lưu Vũ Tích: Cựu thời Vương Tạ đường tiền yến,/ Phi nhập tầm thường bách tính gia. Dịch thơ không phải dịch chữ, mà dịch cái hồn chữ. Ông NHC dựa vào câu thơ dịch của Trúc Thiên, sửa vài chữ cho là sát nghĩa; còn 4 câu giữa thì cũng chỉ xoay đi đổi lại mà thôi. Bài Họa huyện lệnh, bản dịch của Trúc Thiên mở đầu bằng hai câu: Đã từng nối gót Tứ Minh Cuồng Ưng mến Y Vương với Quỉ Vương. thì bản NHC là như sau: Từng phen nối gót Tứ Minh Cuồng Nào phục Y Vương với Quỉ Vương. Dựa vào vần cũ, bài cũ, “xuất nhập” một hai chữ rồi ký tên mình. Bài Tặng Thuần Nhất pháp sư, bản dịch của Trúc Thiên mở đầu: Pháp thân tịch diệt sắc thân còn; bài Thị chúng mở đầu: Thôi tìm núi Thiếu với khe Tào, bản NHC cũng hoàn toàn là như vậy (trong khi Thiền sư Thích Nhất Hạnh dịch vần khác: Thôi tìm Thiếu thất với Tào khê); bài Đại đạo chí nan, Trúc Thiên dịch: Quay đầu, vặn óc luống bần thần, thì ông NHC đảo lại chút đỉnh: “Bần thần, vặn óc với quay đầu”, tính ra chỉ khác mỗi chữ với và luống. Thế nào là dịch lại, là tham khảo? Trong việc dịch thơ, tuy cùng nguyên tác, các bản dịch có thể khác nhau xa, tùy từng người dịch trong quá trình chuyển tải vần điệu, chất thơ, ý tại ngôn ngoại… Đằng này là lấy của người, biên tập, chữa một số chỗ chứ đâu phải dịch? Trường hợp này cũng xảy ra giữa ông NHC và bản dịch Ngục trung nhật ký của Nam Trân (1907-1967). Nam Trân từng dạy ông NHC ở Lớp Đại học Hán học (1965-1969) về thơ Đường - Tống, vừa là người lãnh đạo ông (cụ Cao Xuân Huy, Tổ trưởng, ông Nam Trân, Nguyễn Văn Hoàn, Phó tổ trưởng, ông NHC tổ viên). Lại là bậc tiền bối (Nam Trân sinh 1907, NHC 1938). Nam Trân Nguyễn Học Sĩ đậu Tú tài bản xứ tiếng Pháp thời Tây; nghiên cứu văn học Tây phương (cổ Hy - La); Hán học thì dịch thơ Đường - Tống, Kinh Thi, cổ văn… chữ tốt đến nhân sĩ Trung Quốc cũng vui lòng xin chữ và in thơ chữ Hán của ông trên tờ Thi san của Hội Nhà văn Trung Quốc. Ông lại là tác giả Huế - Đẹp và Thơ mà Hoài Thanh nhận rằng thơ ông “biệt riêng thành một lối” (Thi nhân Việt Nam). Nam Trân mất (1967), hơn chục năm sau, ông NHC đem ra “duyệt” lại bản dịch của thầy và bậc tiền bối đó. Ngoài mấy bản dịch mới hoàn toàn, còn thì, ông đã sửa chữa: 8 bài sửa 1 từ, 4 bài sửa 2 từ, 1 bài sửa 3 từ, 3 bài sửa 4 từ, 1 bài sửa 3 từ, 1 bài sửa 4 từ, 1 bài sửa 5 từ, 15 bài sửa từ 6 từ trong 3 câu trở lên. Chỉ sửa chữ, không sửa vần! Sửa có 1 chữ cũng ký tên mình vào! Thí dụ thì vô khối. Bài Dạ túc Long Tuyền, 3 câu trên gần như lấy lại nguyên văn, đến câu 4, Nam Trân dịch: Mừng sáng nghe oanh hót xóm gần (Cách lân hân thính hiểu oanh đề: Mừng nghe chim oanh bên láng giềng báo sáng) (Nhật ký trong tù, 1960, tr.66). Ông NHC bèn chữa lại: Oanh sớm, mừng nghe hót xóm gần rồi ký tên mình bên cạnh. Đúng là “lợn lành chữa thành lợn què”! Câu thơ dịch của Nam Trân đã là tối ưu so với câu thơ nguyên tác, xuôi thuận, đẹp về tiếng Việt. Còn oanh sớm là oanh gì? Có oanh chiều, oanh tối không? HIỂU là sáng sớm, ở đây nó là trạng ngữ của oanh, con chim oanh hót vào buổi sáng sớm, tức là nó báo sáng, chứ oanh sớm thì tiếng Việt chẳng ai nói thế, viết thế cả. Bài Chúc than (Hàng cháo), ông Nam Trân: quán rượu, ông NHC chữa tiệm rượu, ông Nam Trân: chỉ có cháo hoa…, ông NHC: nào món cháo hoa… thế là đứng tên! Bài thơ tả một quán nghèo trên đường, quán chỉ bán cháo hoa, muối trắng. Vậy cách dịch chỉ có thật đúng cái thần của câu thơ, còn nào món là có ý tán dương món ăn của quán ư!? Tệ nhất là có bản chỉ chữa 1 chữ, các vị cũng đề tên mình vào bản dịch cũ. Mà chữa thế nào: Nam Trân: sách xưa - sách mới (cựu quyển, tân thư) nay sửa quyển xưa - sách mới (cho đúng nguyên văn, dịch theo chữ!), rồi hân hạnh đứng tên! Hỡi ôi! Đúng là: “Thế sự người no ổi tiết bảy. Nhân tình ai ủ cúc mồng mười” (Nguyễn Trãi). Giá như ông Nam Trân còn sống chả biết ông nghĩ sao! Những học trò mà trước khi chết, ông than tiếc: “Đào lý phương viên thắng hủy đa. Tiểu tâm bồi ủng nhị niên qua. Như kim vô lực truyền xuân sắc. Trường hướng thu phong thán nhất ta” (Tạm dịch: Cỏ lạ đào thơm mơn mởn tươi. Đem lòng vun xới mấy năm trời. Đến nay không sức truyền xuân sắc. Nhìn gió thu sang, một thở dài). Những học trò ấy đã vượt qua đầu ông, bất chấp tấm lòng và con chữ mà ông “bồi ủng”! Kể ra hơi tàn nhẫn. Mà không chỉ có Nam Trân. Đến cụ Nguyễn Sĩ Lâm, Viện trưởng Viện Đông Y, một nhà Hán học cự phách, cẩn thận, chắc chắn, sâu rộng một tâm hồn thơ…, thầy chữ Hán chúng tôi ở lớp Hán - Nôm Sau Đại học (1972-1975) cũng bị NHC cướp chữ! Cả bài của cụ Nguyễn, 12 câu dịch, ông NHC thực ra chỉ chữa có 2 chữ: Vô ngần thành dữ dằn. Cụ Nguyễn dịch: “Giả bộ ác vô ngần” (Nguyên văn: Giả trang ác ngân ngân, nghĩa là: Lại giả bộ ác hầm hầm - Nhật ký trong tù, 1991, tr.26). Ông NHC chữa thành: Vờ làm bộ dữ dằn, chắc gì đã diễn đạt đúng nguyên tác: ngân ngân, ý hung ác, tàn nhẫn (Nhật ký trong tù, tr.27). Rõ ràng ác hầm hầm và dữ dằn mức độ khác nhau, chất lượng khác nhau. Nhưng thôi, chữa là chuyện của ông, nhưng ông lại ký tên mà là ký trước tên như là người dịch chính vào bài của cụ Nguyễn là cớ làm sao? Nói cho đúng, NHC không chỉ chữa và ký tên chung. Ông cũng có dịch một số bài mới. Thà là như thế! Hay, dở cũng là bản dịch của mình. Văn chương “Tự kỷ văn chương, tha nhân thê thiếp” (Văn mình, vợ người). Nhân nói đến chuyện ứng xử với thầy cũ, tưởng cũng nên nhắc qua chuyện ông NHC và cụ Cao Xuân Huy. Ông lôi trong đống giấy tờ cũ ở nhà con rể cụ Cao Xuân Huy, soạn ra cuốn “Chủ toàn và chủ biệt - hai ngã rẽ của triết học Đông Tây”, đem in bên Tây, rồi đem về đổi tên thành “Tư tưởng phương Đông - gợi những điểm nhìn tham chiếu” (1995), rồi dựa vào uy tín cụ Cao Xuân Huy, cuốn sách đem về Giải Thưởng Hồ Chí Minh cho Cụ. Người ngoài không biết, tưởng thế là học trò “trả nghĩa” thầy. Thực ra, động cơ lại khác. NHC lợi dụng các bài mà Cụ Huy chủ yếu viết từ 1956-1957. Cụ Cao Xuân Huy là người thấm nhuần Lão - Trang, biết rằng “Danh khả danh phi thường danh” (Cái danh có thể gọi được là danh là cái danh không hằng thường - Lão Tử). Cụ đâu có cần “danh”, cần giải thưởng! Cái hay cái lớn là không màng giải, không màng danh, lấy điều không tham làm giải: “bất tham vi vinh”. Chứ đi nhận giải, nhận tiền, còn đâu Lão - Trang, còn đâu Cụ Huy! Sau khi sách ra, học giới tranh biện, phê phán làm phiền cho Cụ khôn xiết, trong đó có ý kiến các ông Trần Thanh Đạm, Đông La, Trần Văn Đoàn… mà NHC đuối lý, không bảo vệ được. Chẳng hạn, xem Đông La: Những điều cần bàn của một công trình triết học - Đọc “Tư tưởng phương Đông - gợi những điểm nhìn tham chiếu”, sách Biên độ của trí tưởng tượng. NXB Văn học, 2001, tr.191-205)… Cũng tương tự, chuyện đối với thầy Thích Nhất Hạnh, không phải “thầy học”, mà là “thày chùa - thiền sư”. Năm 1974, trong “Việt Nam Phật giáo sử luận”, (T.I, NXB Lá Bối, Sài Gòn), Nguyễn Lang (tức thiền sư Thích Nhất Hạnh), trong chương 9: Tuệ Trung thượng sĩ (tr.269-298); dưới các mục: Diện Mục Tuệ Trung, Hoà Quang Đồng Trần, Đập Vỡ Thái Độ Bám Víu Vào Khái Niệm, Diệu Khúc Bản Lai Tu Cử Xướng, Đập Phá Quan Niệm Lưỡng Nguyên đã phát hiện ra Tuệ Trung mới chính là Trần Tung, con Trần Liễu, anh Trần Hưng Đạo (chứ không phải Trần Quốc Tảng, con Trần Hưng Đạo như Bùi Huy Bích viết trong Hoàng Việt thi tuyển). Thiền sư viết: “Sách Hoàng Việt Văn Tuyển nói Tuệ Trung Thượng Sĩ là Hưng Ninh Vương Trần Quốc Tảng, con lớn của Trần Hưng Đạo. Sự thực thì tuy Tuệ Trung Thượng Sĩ có tước hiệu là Hưng Ninh Vương, nhưng ông không phải tên là Trần Quốc Tảng cũng không phải là con Trần Hưng Đạo. Ông là anh cả của Trần Hưng Đạo, và tên ông là Trần Quốc Tung. Trần Nhân Tông, người khảo đính sách Tuệ Trung Thượng Sĩ Ngữ Lục, trong bài Thượng Sĩ Hành Trạng in ở cuối sách có nói rõ “Tuệ Trung Thượng Sĩ là con đầu của Khâm Minh Từ Thiện Đại Vương và là anh của Hoàng Thái Hậu Nguyên Thánh Thiên Cảm. Khi Đại Vương mất, hoàng đế Trần Thái Tông cảm nghĩa phong cho Thượng Sĩ tước Hưng Ninh Vương”. Khâm Minh Từ Thiện Đại Vương là tước hiệu vua Trần Thái Tông ban cho Yên Sinh Vương Trần Liễu khi ông này mất. Đó là vào năm 1251. Cũng vào năm ấy Tuệ Trung Thượng Sĩ được 21 tuổi, và được phong tước Hưng Ninh Vương. Hoàng Thái Hậu Nguyên Thánh Thiên Cảm là con thứ 5 của Yên Sinh Vương Trần Liễu, tên là Thiều, là vợ của vua Trần Thánh Tông. Trần Hưng Đạo có một người con tên là Trần Quốc Tảng, nhưng tước hiệu là Hưng Nhượng Vương chứ không phải là Hưng Ninh Vương”. Trong phần chú thích, Nguyễn Lang Thích Nhất Hạnh ghi rõ: Con cả của An Sinh Vương tên là Tung. Sách Đại Việt Sử Ký Toàn Thư trong phần nói về vua Trần Minh Tông, có ghi lời bàn của Ngô Sĩ Liên như sau: “Vua vốn là người hậu với thân thuộc trong họ, đối với người vai trên mà quý hiển lại càng tôn kính lắm. Phàm kẻ thần hạ người nào có tên trùng với những người ấy đều đổi cho tên khác. Người nào tên là Độ đổi thành tên Sư Mạnh vì tên Độ trùng với tên của Thượng Phụ (Trần Thủ Độ), tên là Tung thì đổi làm Thúc Cao, vì tên Tung trùng với tên của Ninh Hưng Vương con trưởng của An Sinh Vương”. Có những bản in lầm An Sinh Vương thành An Ninh Vương. Ta chưa từng nghe có ai có tước hiệu An Ninh Vương bao giờ. Hưng Ninh Vương là con của An Sinh Vương Trần Liễu. Chữ sinh trong An Sinh Vương hẳn đã bị khắc lầm thành chữ Ninh chỉ vì trước đó đã có chữ ninh trong Hưng Ninh Vương (chú thích của Nguyễn Lang). Như thế là đã rõ, là rất chi tiết và thuyết phục. Ông NHC trong Thơ văn Lý - Trần (t.I, H., 1977, tr.113-115) cũng “tìm hiểu đích xác Tuệ Trung Thượng Sĩ là ai” (tr.114), đã viết lại những phát hiện của thiền sư Thích Nhất Hạnh mà xem như đó là phát hiện của chính mình. Đến bài viết “Trần Tung, một gương mặt lạ trong làng thơ thiền thời Lý - Trần”, Tạp chí Văn học (số 4-1977), ông NHC mới viết ở phần chú thích: “Cũng xin nói thêm là trong quá trình biên soạn bộ sách Thơ văn Lý - Trần, chúng tôi đã phát hiện ra vấn đề này tương đối sớm, và đã có dịp trình bày sơ lược trong phần khảo luận đầu sách. Gần đây, có đồng chí mách cho biết: trong cuốn Việt Nam Phật giáo sử luận (Lá Bối; Sài Gòn; 1974), Nguyễn Lang cũng có ý kiến giống chúng tôi về tác giả đích thực của Thượng Sĩ Ngữ Lục. Tuy nhiên, tìm đọc kỹ những điều ông Nguyễn Lang đã viết, chúng tôi vẫn thấy cần có một bài báo nói kỹ hơn về những tìm tòi của mình để bạn đọc tham khảo. Vì không những tài liệu và lập luận của chúng tôi có khác, mà cách đánh giá của chúng tôi đối với thơ văn Trần Tung cũng không giống Nguyễn Lang. Vả chăng, cho đến nay, mặc dầu đã có ý kiến sơ bộ của ông Nguyễn Lang, dư luận chung vẫn coi Trần Quốc Tảng là tác giả của Thượng Sĩ Ngữ Lục”. Thực là khó tin! Sau khi Nam Bắc đã thống nhất, mà một bộ sách nghiên cứu nổi tiếng của một nhân vật nổi tiếng uyên bác như vậy và viết bằng tiếng Việt chứ phải tiếng Tây, tiếng U gì đâu, lại không đến một viện nghiên cứu chuyên ngành, lại đang làm thơ văn Phật giáo! (Còn nhớ, hồi ấy cán bộ Viện trong đó có NHC nườm nượp vào Nam, làm gì một cuốn tài liệu quan thiết đến như vậy mà NHC lại không có, không biết, đến nỗi “gần đây, có đồng chí mách cho biết, trong cuốn Việt Nam Phật giáo sử luận (Lá Bối, Sài Gòn, 1974) Nguyễn Lang cũng có ý kiến giống chúng tôi về tác giả đích thực của Thượng Sĩ Ngữ Lục”. Tư liệu là không khí của nhà nghiên cứu, sao NHC phải đợi có người mách cho một chuyện tày đình như vậy! Dù sao, trong nghiên cứu, có một “luật tục”: ai phát hiện, phát minh ra cái gì, căn cứ vào năm họ đăng ký bằng tác phẩm được công bố. Thí dụ trong trường hợp này: phát hiện Tuệ Trung là Trần Tung đích xác thuộc về Nguyễn Lang (Thích Nhất Hạnh), công bố tại Sài Gòn từ năm 1974; trước NHC (1977) đến ba, bốn năm trời. Lý đơn giản là như vậy. Nhưng thôi, chắc chắn là thiền sư Thích Nhất Hạnh chẳng để ý tranh giành tác quyền gì về chuyện đó, còn chúng ta, thì ai tin NHC cứ tin, cũng không mất gì! Cũng không có gì quan trọng lắm đâu một việc “phát hiện” như thế. Trần Nhân Tông chẳng đã nói rõ ràng trong “Thượng Sĩ Hành Trạng”, Tuệ Trung là con đầu của Khâm Minh Từ Thiện Đại Vương là tước hiệu của vua Trần Thái Tông ban cho anh ruột là Yên Sinh Vương Trần Liễu khi ông này mất… Thế thì “phát hiện này là của Trần Nhân Tông (1258-1308) chứ! Đã vậy, cái cách NHC nói về Nguyễn Lang lại thiếu hẳn sự khiêm tốn của một người đi sau. Ông cho rằng “cách đánh giá của chúng tôi đối với thơ văn Trần Tung cũng không giống Nguyễn Lang” (Bđd, tr.116). Không giống như thế nào? Ông NHC bảo là “thơ thiền của Trần Tung sẽ chỉ có một ý nghĩa nhất định với chúng ta chừng nào nó vẫn còn là thơ, là thơ của thế tục, hoặc là thơ có dính dáng ít nhiều đến thế tục, chứ chưa hoàn toàn là Thiền” (tr.127)… Ơ hay! Thơ Thiền là thơ Thiền, còn có dính đến thế tục hay không là chuyện khác. Thế thơ Thiền của Trung Hoa, Nhật Bản, Việt Nam (những bài thơ Thiền chân chính, thuần khiết nhất của Trần Thái Tông, Trần Nhân Tông chẳng hạn…) là không, còn ý nghĩa ư? Thực ra thì trong bài viết, để cố chứng minh mình độc lập có được phát hiện này, ông NHC đã tự bộc lộ nhiều cái chưa ngộ Thiền, chưa thông Phật học, chưa quán Tuệ Trung… Ông cho rằng: Tuệ Trung “tồn tại một nhà duy lý, ẩn náu bên trong một con người Thiền”, Tuệ Trung “yêu cầu một sự kiểm chứng bằng lý trí”… “một cái nhìn tương đối sáng và tỉnh, một ý thức thường trực làm “bản ngã”, một sự lựa chọn dứt khoát chỗ đứng ở cõi trần” (Bđd, Tạp chí Văn học, 1977), “Trần Tung bẻ gãy và lật ngược lại nhiều mệnh đề Phật giáo xưa nay vốn lưu truyền!”, “Chủ nghĩa tương đối”, “tâm lý hư vô”, “coi tất cả là phi lý, đánh đồng cái chân và cái giả” (Từ điển văn học, H., NXB Thế giới, 2004, tr.1812). Những điều đánh giá này, có lẽ vào lúc NHC đang “xin vào Đảng” như ông Đông La nói, nên nó chứng tỏ một lập trường mác - xít giản đơn, thô thiển, áp đặt và đại ngôn! Thực ra thì Trần Tung là một nhà Thiền học (Thiền chứ không phải Phật giáo nói chung) muốn siêu việt lên trên tất cả những phạm trù nhị nguyên. Xem cách phân tích của Thiền sư Thích Nhất Hạnh, một Thiền sư, một học giả, rất dung dị mà hiểu sâu và đúng về Tuệ Trung. Đó là điều chẳng có gì đáng nghi ngờ nhưng đây không phải chỗ để chúng tôi đi sâu phân tích. Cần nói là sau này, ông NHC lại tất tả đi in lại bộ Việt Nam Phật giáo sử luận. Với con người như của NHC, đây là một động thái không đơn giản! Kết luận lại, tôi chỉ nói một điều giản dị thôi: ông NHC tự cho rằng việc ông tìm ra thơ văn của nhà sư uyên bác, đồng thời là võ tướng có nhiều công lao dẹp giặc này là một cống hiến vô cùng quý giá” (Thơ văn Lý - Trần, t.I, tr.113). Tôi hoàn toàn đồng ý, với một chú thích nhỏ: Từ năm 1969 ở Sài Gòn, Trúc Thiên tìm ra, đã dịch và công bố Tuệ Trung Thượng Sĩ Ngữ Lục (Đại học Vạn Hạnh xuất bản, in lại 1974), tức là phát hiện và dịch trước ông NHC khoảng mười năm, còn về văn bản chữ Hán của tác phẩm này thì ít ra từ đời Chính Hòa thứ 4 (1683) đến đời Thành Thái (1903), Phật giáo Việt Nam vẫn in lại. Cho nên cái “cống hiến vô cùng quí giá” đó mà ông NHC nhận về mình cũng rất nên phải xem lại. Bây giờ nói đến chuyện luận án Tiến sĩ “Giai nhân kỳ ngộ diễn ca trong văn học Duy Tân yêu nước đầu thế kỷ XX” của Trần Hải Yến (Viện Văn học - 2002) và bài “Giai nhân kỳ ngộ diễn ca, một thể nghiệm mới của Phan Châu Trinh về truyện thơ lục bát” của ông NHC in trên tạp chí Thời đại mới (Tạp chí nghiên cứu và thảo luận - một tạp chí mạng ở Hoa Kỳ (số 9, 11/2006). Bà Trần Hải Yến, như trong Thư mục tham khảo của luận án cho thấy, biết 4 ngoại ngữ: Hoa, Nhật, Anh, Pháp. Đây là một luận án do PGS-TS Phạm Tú Châu hướng dẫn và đã bảo vệ thành công xuất sắc. Đọc luận án thì thấy không có cái gì dính líu đến Giai nhân mà không được đề cập thấu đáo, sâu sắc, uyên bác, kỹ lưỡng, kể cả vấn đề thể loại “Truyện thơ lục bát”. Thế thì bà Trần Hải Yến còn lép cái nỗi gì để ông NHC rút ruột cái luận án ấy mà viết bài báo trên, rồi sau khi bị phản ứng, phải gỡ xuống và từ đó đến nay không thấy công bố ở trong nước, ngoài nước. Bà Trần Hải Yến cũng như bất cứ một nghiên cứu sinh nào khác, phải đề ở đầu luận án câu này “Xin cam đoan, đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các nhận định và kết luận của luận án là trung thực và chưa từng được ai công bố trong bất cứ công trình nào khác” và ký tên. Ông NHC có dám viết câu này khi viết bài báo nói trên không? Thế là cái bài báo ấy nó là “của em” chứ không phải “của anh”, “của thầy”. Chữ Hán có thành ngữ: “Đoạt thai, hoán cốt”, nói về việc “rút ruột” và ém nhẹm, phi tang. Vì thế có hai câu tóm tắt chương này: Tiểu xảo, “đoạt thai” Trần Hải Yến Đại ngôn, “hoán cốt” Thích Thiền Sư * ** Bây giờ, xin qua chuyện chữ Tây của ông NHC để “giải lao” - thư giãn. Tôi không phải là chuyên gia tiếng Pháp, chỉ là học trò tiếng Pháp và tự học nên lẽ ra không nên nói chuyện này nhưng vì ông NHC lâu lâu viết bài cũng lại chưng ra một ít chữ Pháp bằng cách trích dùng một vài từ điển loại phổ thông để tỏ ra mình là người cũng rành tiếng Pháp. Một bà bạn ở Viện Văn học khi xưa còn cho biết “ông NHC làm Dự án về văn học Phần Lan (“Đường vào văn hóa Phần Lan” - 1966) để tỏ ra mình biết tiếng Pháp”. Một ông cụ vốn trước kia là học trò Trường Bưởi, sinh viên Luật Hà Nội, lại đã làm Hiệu trưởng trường Trung học Pháp - Việt, cho biết trong khi chú thích sách, ông NHC phải đi hỏi từng chữ Pháp cơ bản để chú thích. Không biết thì hỏi, đó là điều tốt. Nhưng thực tình, trình độ tiếng Pháp của ông NHC còn khá yếu. Chẳng hạn như nappe, theo lời học giả kia thì ông NHC cho là cái tấm vải trải giường (drap). Nappe trong Nam vẫn dùng nap, và bà xã tôi luôn nói “tấm nap bàn”, tức cái tấm khăn trải bàn, nó đã trở thành từ Việt (gốc Pháp) mất rồi, mà ông không biết. Trong tập sách biên soạn Truyện ngắn Nam Phong (NXB KHXH, H., 1989), trang 131, NHC chú “tàu xúp-lê” là “tiếng Pháp: Souffler: thổi còi”. Chú giải như vậy là sai. Siffler mới là thổi còi, còn Souffler chỉ có nghĩa là như gió thổi (le vent souffler), thổi tắt ngọn nến (souffler la bougie). Souffler còn nhiều nghĩa nữa. Vậy hai chữ khác nhau chỉ chữ i và o. Chúng tôi xin đưa hai lệ chứng về chữ xíp-lê như sau: “Nghe xíp-lê một chút rồi ngó thấy xe lửa rần rần chạy tới. Bé Hậu mừng rỡ nên đứng vỗ tay la om sòm” (Đoạn tình - Hồ Biểu Chánh). “Tàu xíp-lê, kéo neo, xịch xịch chạy. Hai giờ đêm đến bến Hà Thành. Đèn điện sáng trưng, cô thông nom cũng choáng mắt” (Con người Sở Khanh - Phạm Duy Tốn). Tiếng Pháp như thế thì chẳng có gì đáng tự hào vì ta vốn là nước thuộc địa của Tây xưa, một nước dùng tiếng Pháp, nhiều người tiếng Pháp giỏi lắm. Ông NHC hầu như không làm công trình riêng. Ông chuyên đi “chủ biên” lấy bài nhiều người khác in, viết Lời giới thiệu rồi đề mình chủ biên (Trường hợp cuốn sách “Hoàng Ngọc Phách - đường đời và đường văn” (chuyên khảo, sưu tầm, tuyển chọn, 1966) sao lại đề là tác phẩm chính, in riêng của mình? (xem “Nhà văn hiện đại”, H., 2007, tr.150). Cuốn này chủ yếu là tác phẩm của cụ Hoàng Ngọc Phách, vậy phải đề tác giả là Hoàng Ngọc Phách, NHC sưu tầm, tuyển chọn, giới thiệu… mới phải. Kể ra cũng lợi. Ngay cả cuốn “Từ điển văn học” khởi đầu do GS Đỗ Đức Hiểu chủ biên; GS Đỗ mất, ông đem ra thêm bớt, in lại (dịp khác ta sẽ bàn, các ông Đặng Tiến, Nguyễn Hữu Sơn và nhiều người khác đã có bài nhận xét sơ bộ, nhưng chưa thấy ai nói rõ điều này: ông đem cả nhà ông vào Từ điển, bất chấp họ có là nhân vật văn học hay không (có thể họ là sử, giáo dục, đạo đức học…, chứ quá ít dính đến văn), và ông thích ai thì đưa vào, không thích thì gạt (Chẳng hạn, tại sao ông lại gạt GS Hoàng Trinh vốn là người lãnh đạo của Viện mà lại đưa nhiều người có ít công trình hơn GS Trinh - vì “tư thù, tư oán” gì chăng? Ưng Quả, Bửu Kế, Nguyễn Khoa Vy… ở Huế sao không được đưa vào từ điển. Tại sao từ điển lại dừng ở những năm 60 của thế kỷ trước và thiếu không biết bao nhiêu người? Ông đã bộc lộ chủ tâm là ông muốn đưa vào cả những nhân vật văn học không hề đáng đưa một tí nào, nhưng không lọt. Ông “dương” người này, “ức” người kia. Làm từ điển phải có chuẩn, phải khoa học, vô tư, khách quan. Cuốn này còn cần phải thảo luận nhiều. Lời Tạm Kết Ông NHC đã dồn tôi vào thế phải lên tiếng, làm tôi mất rất nhiều thời gian và công sức. Nếu tôi phải “thất lễ” với ông, thì ông nên trách mình và nên thông cảm với người. Thật lòng tôi rất chán phải nói những chuyện u ám này. Đời thiếu gì trời xanh, hoa tươi, người tốt… mà phải chui vào cái cõi u minh và vạch cái tối tăm của người này, người kia, nói tắt là phải đi “dọn rác”. Không phải tôi muốn “hạ” ông NHC, để mình “cao” lên. Không, tôi vẫn chỉ là tôi thôi, “người là thế ấy, ta là thế thôi!” (Ngô khởi hiếu biện tai! Ngô bất đắc dĩ dã) (Mạnh Tử). Tôi cố ý tránh tranh biện với ông NHC từ mấy chục năm rồi. Một là, rất không rảnh. Hai là, nhớ lời dạy của cụ Hoài Thanh khi làm nhân viên của cụ ở Viện: “Việc lớn xem là nhỏ, việc nhỏ coi như không có”, và lời của anh Nguyễn Đình Thi, thủ trưởng một thời của tôi: “Đối xử tốt ngay cả với người xử xấu với mình”. Trong đời, phải “lòng chợt từ bi bất ngờ”, phải có “một tấm lòng” như lời ca Trịnh Công Sơn. Tôi nghe đầy tai về chuyện ông NHC, ông NHC xử với tôi ra sao, hẳn ông là người biết rõ nhất. Nhiều bạn bè Hà Nội nói lại với tôi và còn “phê” tôi: “Tại sao ông NHC nói xấu về ông như thế, còn ông lại đi nói tốt cho ông ấy?” Tôi chỉ cười: “NHC là người làm việc, làm được nhiều việc. Người như thế hiện không có nhiều. Còn chuyện cá nhân, thì bỏ qua đi, cho nó nhẹ người”. Tôi và nhiều bạn vẫn đánh giá tốt ông NHC ở những bài, những chỗ mà ông chính là ông, không cần “bành trướng” nâng lên “quân Tào có 30 vạn nói thặng lên thành 100 vạn”. Ông không cần phải lên gân ráng sức quá sức mình, nguy hiểm cho sức khỏe. Tôi làm theo phương châm của các vị thầy, nên thừa biết là ông đã làm gì sau lưng chúng tôi (kể cả quay ngoắt 1800 trong vụ ông Nguyễn Quảng Tuân để thực hiện một ý đồ), chúng tôi cũng chẳng lạ và cho qua, để lo việc khác, thú hơn. Nhưng nay thì ông đã đi quá xa về chính trị và học thuật, và ông chủ động tấn công, nên tôi buộc lòng phải lên tiếng tự vệ. Xin tạm kết đôi điều: Về mặt chính trị: ông NHC muốn giương cờ làm “nhà dân chủ” ở Việt Nam, đó là sự chọn lựa của ông. Ông NHC cũng đã từng có kinh nghiệm về hoạt động này nhiều năm: kinh nghiệm Nội Bài, kinh nghiệm viết bài trên các mạng nước ngoài; gần đây lại đã dẫn đầu một đoàn quỳ lạy trước quan tài “nhà dân chủ” Hoàng Minh Chính, cũng như dẫn đầu đưa đơn về vụ Thơ Trần Dần… Đó là chuyện của ông. Nhưng, ông không nên vu cáo, chửi bới những người khác - khác chính kiến, khác cách làm, khác lộ trình… “Dân chủ” mà như thế sao được? Dân chủ trước hết là phải tôn trọng những người khác ý kiến với mình, chứ đâu lại thô bạo, thô lỗ như một kẻ vô học, vô đạo thế. Theo tôi, ông không phải là người dân chủ. Ông đã từng tham vọng học thuật một cách “bá đạo”, nay nhảy sang làm chính trị lúc cuối đời. Tôi mong ông hãy suy nghĩ lại cho kỹ, đừng quá nóng giận mà mất khôn. Làm chính trị chẳng dễ hơn làm nghiên cứu đâu, ông NHC ơi!. Còn về văn học thì chúng ta có lạ gì nhau. Dẫu sao xưa kia cũng từng là người cùng một tổ chuyên môn của một Viện, người cùng lớp Hán học, bây giờ tuy cư trú hai miền nhưng có lúc còn gặp mặt nhau, trong một Hội đồng chấm luận án tiến sĩ hay cuộc họp này họp kia, vậy vui vẻ là hơn anh NHC ạ. Đời ngắn lắm, anh đã “xưa nay hiếm” rồi đấy nhỉ, vậy thì “còn gặp nhau thì hãy cứ dzui” như một câu thơ dễ thương của bà Tôn Nữ Hỷ Khương mà anh chị em hay nhắc, việc gì mà thù hằn nhau, sân si nhau sâu sắc thế!. Đời rộng dài, biển học bao la, sức ta có hạn, lo tập trung mà làm việc, may ra còn được chút đỉnh ích lợi cho đời: Ta chợt biết rằng vì sao ta sống- Vì đất nước cần một trái tim (Trịnh Công Sơn) Miễn trái tim ấy là một trái tim nhân hậu, chứ không phải “nhất thế tử tâm hoài đại độc” như Nguyễn Du nói. *** Có Nhà Nghiên cứu, nghe chuyện, có thơ rằng: Đâu ngờ người ấy chẳng ra chi! Vu cáo người ta phỏng ích gì? “Dân chủ”, lập trường còn khuất tất, Văn chương, chữ nghĩa đáng hoài nghi. “Thiệp phiên” đâu phải là “qua bến”, Síp - lê ắt hẳn phải dùng i. Tây Tàu thôi thế nên siêng học, Giáo sư đừng để bị khinh khi. Tôi xin phụng họa, tấp tểnh “nối điêu” bài xướng như sau: Hóng hớt, thâm thù có ích chi! Nói năng hỗn ẩu có ra gì? Dân chủ chớ nên dùng vu cáo, Văn chương hẳn phải tránh hiềm nghi. “Phên dậu” ngàn năm chưa hóa bến, “Síp - lê” vạn thuở vẫn nguyên i. Nhớ lời Phật dạy, sân si dứt, “Bất kị bất cầu” , phúc có khi. Trà hoa hạng - Phú Nhuận Ngày Giỗ Tổ Hùng Vương 2008 ☆ ☆ ☆ ☆ ☆ Chưa có đánh giá nào Chia sẻ trên Facebook "Người Xô Viết" với các nhà văn đất Quảng thời kháng chiến chống Pháp (1946-1954) Đăng bởi MinhAnh&PhuongLinh vào 26/07/2008 03:37 Tác giả: Phạm Hồng Việt Cách mạng Tháng Mười đã đưa đến sự ra đời của Liên bang Xô Viết (Liên Xô) và sản sinh ra những con người Xô Viết - những con người đã đưa nước Nga vốn lạc hậu so với nhiều nước Âu - Mỹ trở thành cường quốc công nghiệp thế giới, đi hàng đầu trong việc đánh bại chủ nghĩa phát xít để bảo vệ nền văn minh nhân loại trong chiến tranh thế giới thứ hai, đi tiên phong trong việc đưa người vào vũ trụ. Cũng chính là những con người Xô Viết đã thiết tha với cuộc đấu tranh giữ gìn hòa bình thế giới, nhiệt thành ủng hộ cuộc đấu tranh của các dân tộc thuộc địa trong phong trào giải phóng dân tộc. Hoàn toàn không phải ngẫu nhiên mà những nhà văn - nhà báo đất Quảng vào những năm kháng chiến chống Pháp gian khổ như Nguyễn Văn Bổng, Nam Trân, Nguyễn Thành Long, Phan Thao đã tìm thấy ở các nhà văn Liên Xô những tình cảm trong sáng, những chỗ dựa thân thiết. Nhà văn Nguyễn Văn Bổng kể lại: “Từ sau 1949, ở Liên khu V thỉnh thoảng nhận được “Người Xô Viết chúng tôi” của B.Pôlêvôi, “Ngày và đêm ở Xtalingơrát” của X.Ximônốp, “Mùa xuân ở Xaken” của G.Giulia, “Ngôi sao” của Kadakêvich, “Pari sụp đổ” của Lêrenbua... Một số truyện trong “Người Xô Viết chúng tôi” được in thành sách do Chi hội văn nghệ Liên khu V xuất bản. Sách được hoan nghênh nhiệt liệt và đi đến đâu cũng nghe cán bộ, chiến sĩ kể lại, bàn bạc về những gương anh hùng của nhân dân Xô Viết. Những sách ấy của nước bạn gợi cho chúng tôi phải sống và chiến đấu như thế nào, gợi ra cho chúng tôi phải viết về đồng bào, chiến sĩ và đất nước mình đang kháng chiến ra sao” (1). Người Xô Viết trong tác phẩm của B. Pôlêvôi trong “Chiến tranh thế giới thứ II” - đó là ai? Là Mikhaiin - Xiniki - người chiến sĩ vệ binh nhỏ vé đã trốn khỏi trường quân sự để được tiếp tục chiến đấu; là Tarakum - người trồng nho đã biết biến một ngôi trường ở một ngã tư đường phố thành một thành trì vững chắc chống phát xít; là Bêlơgơrut - người đàn bà nông dân đã hy sinh gia đình mình, con cái mình, nhà cửa mình để cứu lấy lá cờ của một trung đoàn xe tăng; là người lính trinh sát già Xêrênicốp; là anh chiến sĩ công binh đã làm đổ một cách tài tình những cầu đập, đường sắt và nhà cửa không để rơi vào tay bọn phát xít nhưng lại nhớ day dứt những công trình hòa bình trước kia của mình; là người con gái trinh sát trẻ tuổi mảnh khảnh, với cái tên hiệu thơ mộng là “Bạch Dương”, đã biết hy sinh cho Tổ quốc những gì quý giá nhất của chị; là Phôminích - người lính làm cầu của thành Xtalingơrát trong những giờ phút ngắn ngủi trên tiền tuyến đã học tập để trở thành một tay thiện xạ; là Malích Gápđulin - nhà bác học đang sống mà đã trở thành người anh hùng của một bản anh hùng ca dân gian; là cụ Cudômin đã không thèm nhận những đồng tiền mua chuộc của bọn phát xít mà còn tạo điều kiện cho Hồng quân tiêu diệt chúng; là chị Catarin không sợ hiểm nguy loan báo cho bà con trong thôn tin Hồng quân duyệt binh ở Matxcơva trong vòng vây của quân phát xít để bà con giữ vững tinh thần, và quân phát xít đã giết chị; là anh trung úy phi công bị kẻ thù bắt, bị tra tấn dã man nhưng vẫn không một lời khai báo, đã nhổ vào mặt kẻ thù và nói với chúng “Người Xô Viết chúng tao đây!...”. B. Pôlêvôi viết: “Rất nhiều những người Xô Viết..., nam cũng như nữ, những anh hùng khiêm tốn của cuộc chiến tranh - do sự khôn khéo của họ trong chiến đấu, do lòng dạ bền bĩ, tinh thần đoàn kết vô địch của họ, lòng yêu vô hạn của họ đối với Tổ quốc, họ đã bẻ gãy thế lực của chủ nghĩa phát xít. Những con người Xô Viết giản dị, lớn và nhỏ... đã nhân danh nhân dân của họ đáng được khen thưởng. Nhưng làm như thế nào khen thưởng tất cả những người dân Xô Viết, vì họ là những con người Xô Viết” (2). Qua bản dịch của Nam Trân, hình ảnh những người Xô Viết từ trong tác phẩm của B. Pôlêvôi như một ngọn gió trong lành đến với người Việt Nam ở Quảng Nam, ở Liên khu 5, góp phần tiếp sức cho cuộc chiến đấu gian nan và ngoan cường của dân tộc ta trong những năm tháng kháng chiến chống Pháp. Nhà văn Nguyễn Thành Long - sinh ở Nha Trang nhưng nguyên quán ở Quảng Nam, trong thời gian kháng chiến chống Pháp từng có mặt ở chiến trường Quảng Nam - Đà Nẵng kể lại: “Chúng tôi in một số tác phẩm dịch từ văn học Xô Viết ra như “Ngôi sao” của Kadakêvích (Phan Xuân Hoàng dịch) “Người Xô Viết chúng tôi” của B. Pôlêvôi (Nam Trân dịch). Năm 1952 tôi cho in cuốn “Kể lại một số tiểu thuyết Xô viết” (tôi đọc bản tiếng Pháp rồi kể lại, do Nhà xuất bản “Miền Nam” in). Tôi thuyết minh về đất nước Liên Xô (dù rằng bây giờ tôi chưa hề đến được đất nước này) trong những lần đi tham gia các chiến dịch” (3). Cũng trong những năm kháng chiến chống Pháp, ở Liên khu 5, nhà báo Phan Thao đã dịch tập “Người mẹ” của Goocki, một tiểu thuyết nổi tiếng của văn học Cách mạng Nga. Nhưng đáng tiếc là tác phẩm không được in ngay. Mãi đến sau khi Phan Thao qua đời ở Hà Nội, sách mới được các nhà văn Liên khu 5 sưu tầm lại và đưa in ở Nhà xuất bản Văn học. Văn học của nước Nga cách mạng, văn học Xô Viết đã từng gắn bó với đất nước và nhân dân ta. Giờ đây Liên bang Xô Viết đã tan rã, nhưng những gì mà Cách mạng Tháng Mười đã đóng góp với văn minh nhân loại, những giá trị nhân văn của nền văn học do Cách mạng Tháng Mười tạo ra vẫn được loài người tiến bộ trân trọng lưu giữ. (1) Nguyễn Văn Bổng, Con đường từ Liên khu 5 ra Việt Bắc, sách “Cách mạng - kháng chiến và đời sống văn học” (1945-1954). Tập 1, NXB Tác phẩm mới, tr.280. (2) B. Pôlêvôi, Người Xô Viết chúng tôi (Nam Trân dịch cùng nhiều dịch giả khác) NXB Văn học, 1977, tr. 81, 412-413. (3) Xem sách “Cách mạng kháng chiến và đời sống văn học (1945-1954). Tập 1, Sđd, tr. 312, 316, 317. ☆ ☆ ☆ ☆ ☆ Chưa có đánh giá nào Chia sẻ trên Facebook Vài thổ âm, thổ ngữ của người Quảng Đăng bởi MinhAnh&PhuongLinh vào 31/10/2009 09:15 Đã sửa 1 lần, lần cuối bởi Hoa Xuyên Tuyết vào 31/10/2009 09:42 Tác giả: Lê Minh Quốc Khảo sát về giọng nói Quảng Nam là một công trình lớn cần có sự đóng góp của nhiều người, nhiều giới. Không riêng gì Quảng Nam - Đà Nẵng có những thổ ngữ hoặc cách phát âm khiến nhiều người khác khó nghe, khó hiểu thì các địa phương khác cũng có những trường hợp tương tự như vậy. Nhưng đó lại chính là hồn quê của mỗi địa phương. Chỉ cần nghe giọng nói, là người ta nhận ra bóng dáng của quê nhà - đã có lần tôi cảm nhận: Bóng hình này giống người ta Nhưng kìa giọng nói như là giọng tôi Hồn quê đặt ở trên môi Tưởng nghìn cây số xa xôi vọng về Ở đây, tôi chỉ mạn phép bàn về giọng Quảng trong sự ngẫu hứng sau khi đọc bài vè của tác giả Nguyễn Tiến Nhẫn in trong tập Bảo An đất và người (NXB Đà Nẵng, 1999). Thử đọc bài vè này, ta có thể sẽ hiểu ít nhiều một vài kiểu phát âm của người Quảng Nam: Quê tôi A phát thành OA Ă thành E hết, AO ra Ô mà... Không những thế, ta thấy họ còn phát âm OAI thành UA (như nhớ hoài: nhớ hùa); OI thành UA (như nói năng: núa neng); ĂN thành EN (như muối mặn: muối mẹn) v.v… Có chuyện rằng, một cậu bé Đà Nẵng thấy con gì đó đang bò trên tường, vừa kêu lên vừa đưa tay chỉ cho thằng bạn mới từ Sài Gòn ra xứ Quảng chơi: -Ê, cua kìa! Con chi mà lọa! Thằng nhóc Sài Gòn lấy làm lạ, liền ngước mắt lên nhìn thì có thấy con cua gì đâu! Chỉ thấy... con thằn lằn! ẮT thành ÉC (như tắt đèn: téc đèn. Có trường hợp “ngoại lệ” như xa lắc: xa léc - xa quéc); AM thành ÔM (như làm: lồm)... Và khi đặt câu hỏi người ta thường dùng thổ ngữ: ri (như thế này), rứa (vậy, thế), răng (sao), mô (đâu), hỉ (hả) v.v...; khi nghe thế người kia trả lời: nớ (kia), tê (kia), ni (đây), trển (trên), chừ (bây giờ), chi (gì) v.v... Ta thử đoán xem, họ đang nói gì: Chừ hay mai mốt anh ơi Chu choa lâu rứa lơi bơi trổ trời Ba nhe là bậu ba rơi Ba lia, ba lém cùng đời ba lơn Mưa dầm thấm đất lấm lem Mưa chi dai nhách ba bên bốn bề Ở đây, chữ “trổ trời” có thể hiểu là tính từ chỉ một hành động nào đó vượt ra ngoài khuôn phép - chẳng hạn, đứa con trong nhà không ngoan, hư đốn quá lắm, người mẹ mắng: “-Cái thằng hư trổ trời!” là vậy. Nhưng cũng để diễn đạt ý nghĩa tương tự, ở cấp độ thấp hơn, người ta còn dùng từ “hoang”, như: “-Cái thằng ni hoang quá”. Người ta gọi là “ngẳng” để chỉ sự nghịch ngợm, như: “Cái thằng chơi ngẳng ghê, ai đời hắn lấy kéo cắt râu mèo”. Ta đọc tiếp: Mùa nam cau chuối héo queo Vàng rùm đồng lúa, ốm teo cả người Trâu bò hết cỏ nhá nhơi Ô hồ cạn xịt, phơi khô dâu tằm Hạn chi hạn miết khô rang Nắng chi nắng miết nắng chang chang trời Nắng cho hết nghí ngỡn cười Ở trần chẳng dị, quạt lì ra tay Ở đây, “ô” là ao, “cạn xịt” nghĩa là nước trong ao hồ đã cạn chỉ còn xăm xắp nước, tương tự “ít xịt” là rất ít; “miết” là mãi, chỉ một hành động kéo dài - chẳng hạn câu thơ của Lưu Trọng Lư “Mưa chi mưa mãi”, người xứ Quảng hiểu là “Mưa chi mưa miết”; “nghí ngỡn” ta có thể hiểu là dễ ngươi, lờn mặt, đùa giỡn thái quá tùy ngữ cảnh, như: “-Đừng có nghí ngỡn, sắp mưa rồi đó, mau chạy về nhà đi”; “dị” là mắc cỡ, e thẹn; còn “dị òm” là hết sức mắc cỡ, tương tự như thế người ta còn nói “mắc tịt”... Mùa ni bí rị phát khùng Nực chi xà lỏn vẫn lùng bùng tai Cầu trời túi mốt sớm mai Nồm về thả cửa mát rười rượi nhau “Bí rị” là bít bùng, không lối thoát, tắc nghẽn như trong câu hỏi: “Buồn chi mà mặt mày bí rị rứa?”; nhưng “rị” lại là kéo, như: “-Cây ni nặng lắm, bọn bay tới rị giùm tau với”; “túi” là tối, còn “túi thui” là rất tối... Tới đây tao biểu mi nè Cháo ngọt đậu ván bát chè thơm thơm Mình đâu có phỉnh mà lờn Uống ăn ngọt xớt còn thơm lựng lừng “Biểu” là bảo; “phỉnh” là dụ dỗ, gạ gẫm; “ngọt xớt” là rất ngọt... Trong ca dao xưa ở xứ Quảng có câu: Một nong tằm là năm nong kén Một nong kén là chín nén tơ Bạn phỉnh ta chín đợi mười chờ Linh đinh quán sấm, dật dờ quán sen Thú vị quá, ta hãy tìm hiểu thêm một vài thổ ngữ khác, chẳng hạn “điệu” là làm dáng như: “- Chà! Bữa ni ăn mặc điệu quá ta!”, tương tự như thế còn có chữ “gồ” nữa; “gò” là tán tỉnh như: “-Cái thằng ni trổ trời, hỉ mũi còn chưa sạch mà đã gò gái”; thuở nhỏ, tôi còn nghe một từ tương tự là “cua” như: “- Anh Tư đi cua gái hay reng mà cái đầu láng mướt rứa hè?”; “ế” dành để chỉ những cô gái lỡ thì, không có người cưới hỏi; “ghế” là chỉ cơm độn với ngũ cốc như: “-Cơm bữa ni ghế với khoai lang”; “hú hí” là nhỏ to với nhau; “in” là giống nhau như đúc; “không reng (răng)” là không sao, đừng sợ như: “- Chó sủa thôi chớ không reng mô”; “lợt nhớt” là quá lợt; “rượng” là “ngứa nghề”; “sít rịt” là sít với nhau không hở; “trịt” là tẹt như: “- Cô kia cái mặt cũng dễ coi nhưng tiếc cái mũi trịt”; “ủm” là thu hết về cho mình, như để chỉ hành động ôm em bé vào lòng mình làm cho bé ấm áp, người ta nói: “- Ủm em”, còn “ẵm” là bồng v.v... Tôi còn nhớ thuở nhỏ, mẹ tôi đã hát ru bài đồng dao xứ Quảng: Con chim se sẻ Nó đẻ mái tranh Tôi vác hòn sành Tôi lia chết giãy Tôi đem tôi kỉnh Cho thầy một mâm Thầy hỏi chim gì? Con chim sẻ sẻ Ta biết “kỉnh” là biếu, “lia” là ném, là vứt. Lại nữa, “phách” là phách lối, kiêu căng, kiêu ngạo như: “- Mày chữ nghĩa bao nhiêu? Không đầy lá mít! Đừng có mà làm phách”; “xanh xảnh” là nói hỗn, thiếu lễ phép như: “- Cô kia nói chuyện với bà gia mà cứ xanh xảnh cái giọng”; “yểu xìu” là quá yếu; “tổ chảng” là to lớn, có câu nói: “- Đình làng tổ chảng uy nghi lạ thường”; nhưng mập quá cỡ thì họ là nói “mập ú”; trái cây mua về, chưa chín, thường người Quảng Nam bỏ vào trong hũ gạo, đợi chín thì gọi là “giú”; “cái ảng” là cái lu như: “- Chiều ni mi đi gánh nước đổ đầy ảng nghe!”; “giả đò” là “giả vờ”, tương tự còn có “làm bộ làm tịch” v.v... Ca dao Quảng Nam có câu: Giả đò buôn kén, bán tơ Đi ngang qua ngõ đưa thơ cho chàng Khi nghe mẹ ru em: Chiều tà ngả bóng nương dâu Vịn cành bẻ lá em sầu duyên tơ Thì ta hiểu “vịn” là “dựa vào”. Không chỉ có thế, họ còn nói “thọa” là cái hộc tủ; “cụi” là tủ đựng thức ăn, đặt dưới bếp - thông thường thị dân còn gọi là cái “gạc măng rê” (phiên âm Garde manger của Pháp). Cái cụi này ở nông thôn xứ Quảng, người ta thường để bốn cái tô bằng sành, rẻ tiền, dưới bốn chân tủ, đổ đầy nước để ngăn kiến, sâu bọ không theo đó mà leo lên; “lủm” là từ chỉ hành động bốc một vật gì đó bỏ vào trong miệng, như: “-Miếng thịt mới đây đứa mô lủm rồi?”; “trã” tương tự như cái chảo, làm bằng đất, không sâu chỉ trèn trèn, dùng để kho cá; “kiệt” là hẻm; “kiết” là keo kiệt, như: “- Thằng cha ni giàu mà kiết”; “đầu dầu” là đầu trần, như thấy người kia đi giữa nắng chang chang không đội nón, người này nói: “- Reng (răng) mà đi đầu trần (hoặc đầu dầu) rứa? Không sợ cảm néng (nắng) à?”; “ở dổng” là ở truồng, như người ra thường nói: “-Không biết dị à? Lớn rồi mà còn ở dổng!”; “hục” là “hố” như ta thường nghe: “- Mi ra ngoài kia đào cho tao cái hục, sâu chừng nửa thước”; ướt đẫm thì họ nói là “ướt nhẹp” v.v... Nghĩ cũng lạ cho thổ âm, thổ ngữ địa phương. Mới đây, khi đến Huế dự festival Huế 2006 tôi đã “phát hiện” ra chữ “té” ngộ nghĩnh của người miền Trung nói chung. Lúc ấy, đang ngồi ăn chè trên bờ bắc sông Hương, chè hạt sen ngọt mà thanh, ăn đến đâu mát rượi đến đó bỗng tôi giật bắn người khi nghe người chị bảo cô em nhỏ: “-Ăn xong rồi, té ghế mà về”. Ủa! Cái gì lạ vậy? Sao lại có “té” mà lại “té ghế” ở đây? Với người Quảng Nam, “té” là ngã, vấp ngã, vấp té như có câu: “-Kìa! Đi đứng sớn sác coi chừng té dập mỏ!”. Với người Huế, để nói ai đó bị “té&rdquo

Nam Trân (1907-1967), chính tên là Nguyễn Học Sỹ, sinh ngày 15-2-1907 ở làng Phú Thứ Thượng, xã Đại Quang, huyện Đại Lộc (tỉnh Quảng Nam). Học chữ Hán đến năm 12 tuổi và đã tập làm những lối văn trường ốc. Sau học trường quốc học Huế, trường Bảo Hộ Hà Nội. Có bằng Tú tài bản xứ. Làm: Tham tá toà khâm sứ Huế, sau đó làm Tá lý Bộ lại và Thị lang Bộ lại.

Sau Cách mạng Tháng Tám, ông tham gia kháng chiến, công tác ở Uỷ ban kháng chiến hành chính huyện Đại Lộc, Uỷ ban kháng chiến hành chính tỉnh Quảng Nam, rồi làm chánh văn phòng Uỷ ban kháng chiến hành chánh liên khu Việt Nam 1954 ông tập kết ra Bắc, công tác ở Ban chấp hành Hội nhà văn Việt Nam. Năm 1959 công tác tại viện Văn học, chuyên về dịch thuật. Ông cũng là một trong những cán bộ giảng dạy lớp đại học Hán Nôm đầu tiên ở miền Bắc, do uỷ ban khoa học xã hội Việt Nam tổ chức. Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam (1957)

Ông mất ngày 21-12-1967 tại Hà Nội, thọ 60 tuổi.

Đã đăng thơ trên các báo và tạp chí: Nam Phong, Tạp chí Văn học, Sa Đéc, An Nam tạp chí, Phong hoá, Tràng An, Tân tiến...

Các tác phẩm: Huế, đẹp và thơ (1939), Ca dao thi đua, Vườn hạnh phúc (thơ).

Là người dịch bản "Ngục trung nhật ký" (xuất bản lần đầu năm 1960).

Cùng dịch với nhiều tác giả: Thơ Đường I và II (Giới thiệu và dịch với các bút danh: Nam Trân, Tương Như), Thơ Tống, Thơ và từ của Mao Trạch Đông, Thơ văn Lý Trần, Thơ Quách Mạt Nhược, Người Xô Viết chúng tôi,...

Huế đẹp, Huế nên thơ. Ai chẳng nói thế? Ai chẳng thấy thế? Nhưng sao hình ảnh Huế trong thi ca lại tầm thường thế? Có lẽ cảnh Huế huyền diệu, quá mơ màng khồn biết tả thế nào cho thoát sáo. Cũng có lẽ ngắm cảnh Huế, Người ta khó tránh được cái buồn vơ vẩn đó là khí vị riêng của của xứ này và lòng người ta không đủ thản nhiên để ghi lấy hình sắc riêng của mỗi vật. Kể có ít câu của Thu Hồng và hai câu này của Quỳnh Giao cũng được:

Một hàng tôn nữ cười trong nón,
Sông mở lòng ra đón bóng yêu.

Nhưng tả cảnh Huế chưa ai bằng Nam Trân. Nam Trân không rơi vào khuôn sáo là vì người không mơ màng cũng không buồn vơ vẩn. Ở Huế mà ghét Nam Ai, nội chừng ấy cũng đã lạ. Người chỉ thản nhiên nhìn cảnh vật chung quanh và ghi lại những nét già dặn.

Thơ Nam Trân thường mỗi bài là một bức tranh nhỏ trong ấy thế nào cũng có ít điều nhận xét đặc sắc. Thỉnh thoảng người cũng ghép vào trong cảnh một ít tình. Nhưng đầu người có nói đến tình yêu, lời thơ vẫn mực thước, vẫn không mất vẻ thiên nhiên. Điều ấy thấy ngay ở bài đầu quyển "Huế, Đẹp và Thơ": một mẩu cảnh xinh xinh, một chút tình phảng phất trong những vần nhịp nhàng và lặng lẽ như giòng Hương Thuỷ trong veo. "Sóng lòng" thi nhân có xao động cũng chỉ trong khoảng khắc nhưng mặt nước sông kia mà thôi. ý thơ nhẹ nhàng, điệu thơ uyển chuyển. Ta nên để ý bài thơ này sáu câu trên thất ngôn mà bốn cau dưới lục bát. Thất ngôn tả vẻ thản nhiên của người đẹp, lục bát tả chút xao động trong lòng người thơ. một cảnh hai tình, nên thơ cũng một bài hai điệu.

Về âm điệu, thơ Nam Trân thực dồi dào. Thi nhân không theo điệu nào nhất định. Trước mỗi cảnh, mỗi tình, người lại cố tạo ra một điệu thơ thích hợp. Câu thơ luôn luôn biến hoá: số chữ thay đổi từ một đến mười. Điệu thơ đó là điều tối quan hệ với Nam Trân; người luôn luôn tìm kiếm, vì người nghĩ rằng chỉ có người mới chịu nằm hoài trong một khuôn khổ.

Những điệu thơ cũng như ý thơ, ở Nam Trân, đều là kết quả của sự đắn đo kỹ lưỡng, sự suy tính siêng năng. Nam Trân luôn luôn tự chủ ngòi bút của mình một cách chắc chắn, không bao giờ phóng cho nó đi theo những nhạc điệu âm thầm một đôi khi vẫn thao thức trong lòng ta.

Cho nên muốn thưởng thức thơ Nam Trân ta cũng phải luyện lây tâm trí cho bình thản. Hãy xếp thơ Nam Trân lại những lúc lòng ta có chuyện xôn xao.

Lối thơ tả chân vốn xưa ta không có. đây đó rải rác cũng nhặt được đôi câu, nhưng đến Nam Trân mới biệt thành một lối. Nam Trân đã tìm ra được một khoảnh đất mới và ở đó người ta đã dựng nên - ý chừng để sát nhập làng thơ Việt - cái cảnh núi Ngự sông Hương.

Thiết tưởng vị tình láng giềng đất Quảng Nam không thể gửi ra xứ Huế món quà nào quý hơn nữa: lần thứ nhất những vẻ đẹp xứ này được diễn ra thơ.
Nam Trân (1907-1967), chính tên là Nguyễn Học Sỹ, sinh ngày 15-2-1907 ở làng Phú Thứ Thượng, xã Đại Quang, huyện Đại Lộc (tỉnh Quảng Nam). Học chữ Hán đến năm 12 tuổi và đã tập làm những lối văn trường ốc. Sau học trường quốc học Huế, trường Bảo Hộ Hà Nội. Có bằng Tú tài bản xứ. Làm: Tham tá toà khâm sứ Huế, sau đó làm Tá lý Bộ lại và Thị lang Bộ lại.

Sau Cách mạng Tháng Tám, ông tham gia kháng chiến, công tác ở Uỷ ban kháng chiến hành chính huyện Đại Lộc, Uỷ ban kháng chiến hành chính tỉnh Quảng Nam, rồi làm chánh văn phòng Uỷ ban kháng chiến hành chánh liên khu Việt Nam 1954 ông tập kết ra Bắc, công tác ở Ban chấp hành Hội nhà văn Việt Nam. Năm 1959 công tác tại viện Văn học, chuyên về dịch thuật. Ông cũng là một trong những cán bộ giảng dạy lớp đại học Hán Nôm đầu tiên ở miền Bắc, do…

Huế, đẹp và thơ (1939)

 

Ảnh đại diện

Kỷ niệm 100 năm ngày sinh cố nhà thơ - dịch giả Nam Trân

Tác giả: Doãn Thu Tơ


Ngày 18 tháng 10 năm 2007, Viện Văn học, Hội Nhà văn và gia đình Nam Trân đã trang trọng tổ chức Lễ tưởng niệm và hội thảo khoa học kỷ niệm 100 năm ngày sinh và 40 năm ngày mất của nhà thơ - dịch giả Nam Trân.

Đến dự Lễ tưởng niệm và Hội thảo khoa học có các cán bộ Viện Văn học, Hội Nhà văn, Nhà xuất bản Văn học, Hội Văn học nghệ thuật Thừa Thiên Huế và đại diện các cơ quan thông tấn, báo chí, các nhà thơ, nhà văn, nhà lý luận nghiên cứu phê bình văn học, những độc giả yêu thích, mến mộ tài năng thơ… của Nam Trân.

Nam Trân tên thật là Nguyễn Học Sĩ, sinh năm 1907 ở làng Phú Thứ Thượng, huyện Ðại Lộc, tỉnh Quảng Nam. Ông theo học chữ  Hán từ nhỏ, từng làm quan dưới triều Nguyễn. Cách mạng tháng Tám nổ ra,  ông tích cực nhập vào con đường lớn của nhân dân, tham gia Ủy ban kháng chiến và giữ nhiều chức vụ khác nhau cho đến khi về công tác ở Viện Văn học. Khoảng thời gian 10 năm công tác ở Viện là không lâu, nhưng những gì ông để lại cho văn chương, cho nghiên cứu văn chương vẫn khiến mọi người nhớ mãi. Ông không viết nhiều, nhưng những tác phẩm của ông đầy dấu ấn. GS. Phong Lê trong phát biểu của mình đã xúc động nói “Ngỡ như Nam Trân chỉ là một người bạn ghé đến làng thơ, ghé qua vườn thơ, và nhân tiện mà để lại một chùm, chứ không phải chủ định ở lại như nhiều bạn bè khác đã chọn việc viết văn làm thơ như một nghề, với bậc tiền bối đích thực của họ là Tản Đà. Một cuộc chơi, một chuyến ghé thăm thú vị, và chỉ vậy thôi”.                                                                                     

Nam Trân cũng được biết đến với tư cách là một nhà dịch thuật Hán học nổi tiếng. Ông là người tiến hành tổ chức và chủ trì dịch Ngục trung nhật ký của Hồ Chí Minh. Bản dịch Ngục trung nhật ký từ bản in đầu tiên, qua nhiều lần tái bản ở các nhà xuất bản trong và ngoài nước trở thành sự kiện văn học lớn những năm 60 thế kỷ 20.

TS. Lê Thị Dục Tú cho rằng thơ và dịch thuật của Nam Trân đem đến nét đặc sắc riêng cũng như những giá trị to lớn khi đặt nó vào ý thức canh tân văn học của các nhà văn Việt Nam trong những năm 30 thế kỷ XX. Chính ý thức này đã nhanh chóng đưa văn học Việt Nam hoàn thành tiến trình hiện đại hóa văn học, đưa nền văn học của dân tộc ta không chỉ thoát khỏi sự nô dịch của văn học phương Tây mà còn hòa nhập và trở thành một bộ phận của văn học thế giới.

Kỷ niệm 100 năm ngày sinh, 40 năm ngày mất của Nam Trân, chúng ta không chỉ ghi nhận những đóng góp có giá trị của ông mà còn thấm thía trước tinh thần xuất xử, sự lựa chọn và hành vi ứng xử đáng trân trọng, học tập của một nhà thơ-dịch giả, một trí thức yêu nước.

Bài đăng trên trang tin của: Viện Khoa học xã hội Việt Nam
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Vu cáo chính trị - mập mờ học thuật

Tác giả: Mai Quốc Liên


Từ một trình độ Hán học uyên thâm như thế, ông Nguyễn Huệ Chi (NHC) đi vào làm Thơ văn Lý - Trần. Nói cho đúng, đây là một tập hợp văn bản công phu với công sức của nhiều người, nhưng lại in chữ giản thể. Ở đây không thể nói nhiều chuyện chung quanh cuốn sách này (Chẳng hạn, bản thảo do công lao to lớn của các cụ lão nho: Nguyễn Đức Vân, Đào Phương Bình, có cả Nam Trân làm; công lao của “ông đồ Hỉ” (tên gọi thân mật GS Đỗ Văn Hỉ, một nhà Hán Nôm học cự phách) trong việc dịch tất cả những văn bản khó trong ấy, nhất là các văn bia cổ..., và đến chết “ông đồ Hỉ” vẫn uất hận khôn nguôi trong việc bị đè nén... Và thật sự thì cụ Nghè Đinh Văn Chấp, Đông Châu Nguyễn Hữu Tiến, Ngô Tất Tố... đã dịch phân nửa văn bản Lý - Trần rồi. Và chú thích, dịch... nhất là những vấn đề liên quan đến Phật học còn phải bàn. Nhưng đó không phải là chủ đích của bài báo này). Trong cuốn Thơ văn Lý - Trần này, lẽ ra ông NHC chỉ là người biên soạn, biên tập..., nhưng đến tập II, quyển thượng thì ông lên làm chủ biên... Và quyển hạ, tập II, đến nay sau 40 năm từ khi in tập I, vẫn chưa ra. Thật oái ăm! Giờ tôi chỉ xin nói những chuyện “hai năm rõ mười” thôi.


Năm 1969 ở Sài Gòn, Tu thư Đại học Vạn Hạnh in cuốn (Tuệ Trung Thượng sĩ) Ngữ lục do Trúc Thiên dịch. Khi biên soạn Thơ văn Lý - Trần, ông NHC ghi “trong khi dịch thơ văn Trần Tung (tức Tuệ Trung Thượng Sĩ), chúng tôi có tham khảo bản dịch của Trúc Thiên, do Tu thư Đại học Vạn Hạnh ấn hành, 1969” (Thơ văn Lý - Trần, t.II, quyển thượng, H., 1989, tr. 225).
Nhưng “tham khảo” như thế nào? Thôi không nói đến phần “tham khảo” văn xuôi, vì phải mất công đối chứng, chỉ nói về thơ thôi. Đối chiếu bản dịch thơ của ông NHC và của Trúc Thiên thì thấy: ngoài việc lấy lại vần, lấy chữ, lấy nguyên si một số câu; ông NHC “xuất nhập” một số ý, “biên tập” lại để thành bài của mình và rồi ký luôn tên mình, xóa mất tên Trúc Thiên vốn là người đầu tiên dịch bài thơ ấy.
Trường hợp các bài Thế thái hư huyễn - Họa huyện lệnh, Thị chúng, Tặng Thuần Nhất pháp sư, Thị đồ, Chí đạo vô nan... đều là như vậy.
Bài Thế thái hư huyễn, hai câu đầu ông NHC lấy nguyên si (chỉ khác Trúc Thiên dịch chữ phó là gởi, ông để nguyên là phó):
- Vân cẩu đổi thay lắm vẻ mà
Mơ màng gởi trọn giấc Nam kha.
(Trúc Thiên dịch, Ngữ Lục, Sđd, tr.123).
- Vân cẩu đổi thay lắm vẻ mà
Mơ màng phó trọn giấc Nam kha.
(NHC dịch, Thơ văn Lý -Trần, t.II, quyển thượng, tr.250)
Hai câu cuối:
- Thấy chăng đàn én lầu Vương Tạ
Nay hết vàng son lạc vạn nhà.
(Ngữ Lục, Sđd)
- Hãy xem đàn én lầu Vương Tạ
Nay xuống làm thân với mọi nhà.
(Thơ văn Lý - Trần, Sđd, tr.250)
Theo ý tôi, câu dịch Trúc Thiên sáng tạo hơn, hay hơn, nhất là chữ vàng son, chữ lạc thật đắt, khi nhớ câu thơ Đường về Vương, Tạ của Lưu Vũ Tích: Cựu thời Vương Tạ đường tiền yến,/ Phi nhập tầm thường bách tính gia. Dịch thơ không phải dịch chữ, mà dịch cái hồn chữ. Ông NHC dựa vào câu thơ dịch của Trúc Thiên, sửa vài chữ cho là sát nghĩa; còn 4 câu giữa thì cũng chỉ xoay đi đổi lại mà thôi.
Bài Họa huyện lệnh, bản dịch của Trúc Thiên mở đầu bằng hai câu:
Đã từng nối gót Tứ Minh Cuồng
Ưng mến Y Vương với Quỉ Vương.
thì bản NHC là như sau:
Từng phen nối gót Tứ Minh Cuồng
Nào phục Y Vương với Quỉ Vương.
Dựa vào vần cũ, bài cũ, “xuất nhập” một hai chữ rồi ký tên mình. Bài Tặng Thuần Nhất pháp sư, bản dịch của Trúc Thiên mở đầu: Pháp thân tịch diệt sắc thân còn; bài Thị chúng mở đầu: Thôi tìm núi Thiếu với khe Tào, bản NHC cũng hoàn toàn là như vậy (trong khi Thiền sư Thích Nhất Hạnh dịch vần khác: Thôi tìm Thiếu thất với Tào khê); bài Đại đạo chí nan, Trúc Thiên dịch: Quay đầu, vặn óc luống bần thần, thì ông NHC đảo lại chút đỉnh: “Bần thần, vặn óc với quay đầu”, tính ra chỉ khác mỗi chữ với và luống.
Thế nào là dịch lại, là tham khảo? Trong việc dịch thơ, tuy cùng nguyên tác, các bản dịch có thể khác nhau xa, tùy từng người dịch trong quá trình chuyển tải vần điệu, chất thơ, ý tại ngôn ngoại… Đằng này là lấy của người, biên tập, chữa một số chỗ chứ đâu phải dịch?
Trường hợp này cũng xảy ra giữa ông NHC và bản dịch Ngục trung nhật ký của Nam Trân (1907-1967). Nam Trân từng dạy ông NHC ở Lớp Đại học Hán học (1965-1969) về thơ Đường - Tống, vừa là người lãnh đạo ông (cụ Cao Xuân Huy, Tổ trưởng, ông Nam Trân, Nguyễn Văn Hoàn, Phó tổ trưởng, ông NHC tổ viên). Lại là bậc tiền bối (Nam Trân sinh 1907, NHC 1938). Nam Trân Nguyễn Học Sĩ đậu Tú tài bản xứ tiếng Pháp thời Tây; nghiên cứu văn học Tây phương (cổ Hy - La); Hán học thì dịch thơ Đường - Tống, Kinh Thi, cổ văn… chữ tốt đến nhân sĩ Trung Quốc cũng vui lòng xin chữ và in thơ chữ Hán của ông trên tờ Thi san của Hội Nhà văn Trung Quốc. Ông lại là tác giả Huế - Đẹp và Thơ mà Hoài Thanh nhận rằng thơ ông “biệt riêng thành một lối” (Thi nhân Việt Nam). Nam Trân mất (1967), hơn chục năm sau, ông NHC đem ra “duyệt” lại bản dịch của thầy và bậc tiền bối đó. Ngoài mấy bản dịch mới hoàn toàn, còn thì, ông đã sửa chữa: 8 bài sửa 1 từ, 4 bài sửa 2 từ, 1 bài sửa 3 từ, 3 bài sửa 4 từ, 1 bài sửa 3 từ, 1 bài sửa 4 từ, 1 bài sửa 5 từ, 15 bài sửa từ 6 từ trong 3 câu trở lên. Chỉ sửa chữ, không sửa vần! Sửa có 1 chữ cũng ký tên mình vào! Thí dụ thì vô khối. Bài Dạ túc Long Tuyền, 3 câu trên gần như lấy lại nguyên văn, đến câu 4, Nam Trân dịch:
Mừng sáng nghe oanh hót xóm gần
(Cách lân hân thính hiểu oanh đề: Mừng nghe chim oanh bên láng giềng báo sáng) (Nhật ký trong tù, 1960, tr.66).
Ông NHC bèn chữa lại:
Oanh sớm, mừng nghe hót xóm gần
rồi ký tên mình bên cạnh. Đúng là “lợn lành chữa thành lợn què”! Câu thơ dịch của Nam Trân đã là tối ưu so với câu thơ nguyên tác, xuôi thuận, đẹp về tiếng Việt. Còn oanh sớm là oanh gì? Có oanh chiều, oanh tối không? HIỂU là sáng sớm, ở đây nó là trạng ngữ của oanh, con chim oanh hót vào buổi sáng sớm, tức là nó báo sáng, chứ oanh sớm thì tiếng Việt chẳng ai nói thế, viết thế cả. Bài Chúc than (Hàng cháo), ông Nam Trân: quán rượu, ông NHC chữa tiệm rượu, ông Nam Trân: chỉ có cháo hoa…, ông NHC: nào món cháo hoa… thế là đứng tên! Bài thơ tả một quán nghèo trên đường, quán chỉ bán cháo hoa, muối trắng. Vậy cách dịch chỉ có thật đúng cái thần của câu thơ, còn nào món là có ý tán dương món ăn của quán ư!?
Tệ nhất là có bản chỉ chữa 1 chữ, các vị cũng đề tên mình vào bản dịch cũ. Mà chữa thế nào: Nam Trân: sách xưa - sách mới (cựu quyển, tân thư) nay sửa quyển xưa - sách mới (cho đúng nguyên văn, dịch theo chữ!), rồi hân hạnh đứng tên!
Hỡi ôi! Đúng là: “Thế sự người no ổi tiết bảy. Nhân tình ai ủ cúc mồng mười” (Nguyễn Trãi). Giá như ông Nam Trân còn sống chả biết ông nghĩ sao! Những học trò mà trước khi chết, ông than tiếc: “Đào lý phương viên thắng hủy đa. Tiểu tâm bồi ủng nhị niên qua. Như kim vô lực truyền xuân sắc. Trường hướng thu phong thán nhất ta” (Tạm dịch: Cỏ lạ đào thơm mơn mởn tươi. Đem lòng vun xới mấy năm trời. Đến nay không sức truyền xuân sắc. Nhìn gió thu sang, một thở dài).  Những học trò ấy đã vượt qua đầu ông, bất chấp tấm lòng và con chữ mà ông “bồi ủng”!
Kể ra hơi tàn nhẫn. Mà không chỉ có Nam Trân. Đến cụ Nguyễn Sĩ Lâm, Viện trưởng Viện Đông Y, một nhà Hán học cự phách, cẩn thận, chắc chắn, sâu rộng một tâm hồn thơ…, thầy chữ Hán chúng tôi ở lớp Hán - Nôm Sau Đại học (1972-1975) cũng bị NHC cướp chữ! Cả bài của cụ Nguyễn, 12 câu dịch, ông NHC thực ra chỉ chữa có 2 chữ: Vô ngần thành dữ dằn. Cụ Nguyễn dịch: “Giả bộ ác vô ngần” (Nguyên văn: Giả trang ác ngân ngân, nghĩa là: Lại giả bộ ác hầm hầm - Nhật ký trong tù, 1991, tr.26). Ông NHC chữa thành: Vờ làm bộ dữ dằn, chắc gì đã diễn đạt đúng nguyên tác: ngân ngân, ý hung ác, tàn nhẫn (Nhật ký trong tù, tr.27). Rõ ràng ác hầm hầm và dữ dằn mức độ khác nhau, chất lượng khác nhau. Nhưng thôi, chữa là chuyện của ông, nhưng ông lại ký tên mà là ký trước tên như là người dịch chính vào bài của cụ Nguyễn là cớ làm sao?
Nói cho đúng, NHC không chỉ chữa và ký tên chung. Ông cũng có dịch một số bài mới. Thà là như thế! Hay, dở cũng là bản dịch của mình. Văn chương “Tự kỷ văn chương, tha nhân thê thiếp” (Văn mình, vợ người). Nhân nói đến chuyện ứng xử với thầy cũ, tưởng cũng nên nhắc qua chuyện ông NHC và cụ Cao Xuân Huy. Ông lôi trong đống giấy tờ cũ ở nhà con rể cụ Cao Xuân Huy, soạn ra cuốn “Chủ toàn và chủ biệt - hai ngã rẽ của triết học Đông Tây”, đem in bên Tây, rồi đem về đổi tên thành “Tư tưởng phương Đông - gợi những điểm nhìn tham chiếu” (1995), rồi dựa vào uy tín cụ Cao Xuân Huy, cuốn sách đem về Giải Thưởng Hồ Chí Minh cho Cụ. Người ngoài không biết, tưởng thế là học trò “trả nghĩa” thầy. Thực ra, động cơ lại khác. NHC lợi dụng các bài mà Cụ Huy chủ yếu viết từ 1956-1957. Cụ Cao Xuân Huy là người thấm nhuần Lão - Trang, biết rằng “Danh khả danh phi thường danh” (Cái danh có thể gọi được là danh là cái danh không hằng thường - Lão Tử). Cụ đâu có cần “danh”, cần giải thưởng! Cái hay cái lớn là không màng giải, không màng danh, lấy điều không tham làm giải: “bất tham vi vinh”. Chứ đi nhận giải, nhận tiền, còn đâu Lão - Trang, còn đâu Cụ Huy! Sau khi sách ra, học giới tranh biện, phê phán làm phiền cho Cụ khôn xiết, trong đó có ý kiến các ông Trần Thanh Đạm, Đông La, Trần Văn Đoàn… mà NHC đuối lý, không bảo vệ được. Chẳng hạn, xem Đông La: Những điều cần bàn của một công trình triết học - Đọc “Tư tưởng phương Đông - gợi những điểm nhìn tham chiếu”, sách Biên độ của trí tưởng tượng. NXB Văn học, 2001, tr.191-205)…
Cũng tương tự, chuyện đối với thầy Thích Nhất Hạnh, không phải “thầy học”, mà là “thày chùa - thiền sư”. Năm 1974, trong “Việt Nam Phật giáo sử luận”, (T.I, NXB Lá Bối, Sài Gòn), Nguyễn Lang (tức thiền sư Thích Nhất Hạnh), trong chương 9: Tuệ Trung thượng sĩ (tr.269-298); dưới các mục: Diện Mục Tuệ Trung, Hoà Quang Đồng Trần, Đập Vỡ Thái Độ Bám Víu Vào Khái Niệm, Diệu Khúc Bản Lai Tu Cử Xướng, Đập Phá Quan Niệm Lưỡng Nguyên đã phát hiện ra Tuệ Trung mới chính là Trần Tung, con Trần Liễu, anh Trần Hưng Đạo (chứ không phải Trần Quốc Tảng, con Trần Hưng Đạo như Bùi Huy Bích viết trong Hoàng Việt thi tuyển). Thiền sư viết:
“Sách Hoàng Việt Văn Tuyển nói Tuệ Trung Thượng Sĩ là Hưng Ninh Vương Trần Quốc Tảng, con lớn của Trần Hưng Đạo. Sự thực thì tuy Tuệ Trung Thượng Sĩ có tước hiệu là Hưng Ninh Vương, nhưng ông không phải tên là Trần Quốc Tảng cũng không phải là con Trần Hưng Đạo. Ông là anh cả của Trần Hưng Đạo, và tên ông là Trần Quốc Tung. Trần Nhân Tông, người khảo đính sách Tuệ Trung Thượng Sĩ Ngữ Lục, trong bài Thượng Sĩ Hành Trạng in ở cuối sách có nói rõ “Tuệ Trung Thượng Sĩ là con đầu của Khâm Minh Từ Thiện Đại Vương và là anh của Hoàng Thái Hậu Nguyên Thánh Thiên Cảm. Khi Đại Vương mất, hoàng đế Trần Thái Tông cảm nghĩa phong cho Thượng Sĩ tước Hưng Ninh Vương”.
Khâm Minh Từ Thiện Đại Vương là tước hiệu vua Trần Thái Tông ban cho Yên Sinh Vương Trần Liễu khi ông này mất. Đó là vào năm 1251. Cũng vào năm ấy Tuệ Trung Thượng Sĩ được 21 tuổi, và được phong tước Hưng Ninh Vương. Hoàng Thái Hậu Nguyên Thánh Thiên Cảm là con thứ 5 của Yên Sinh Vương Trần Liễu, tên là Thiều, là vợ của vua Trần Thánh Tông. Trần Hưng Đạo có một người con tên là Trần Quốc Tảng, nhưng tước hiệu là Hưng Nhượng Vương chứ không phải là Hưng Ninh Vương”.
Trong phần chú thích, Nguyễn Lang Thích Nhất Hạnh ghi rõ: Con cả của An Sinh Vương tên là Tung. Sách Đại Việt Sử Ký Toàn Thư trong phần nói về vua Trần Minh Tông, có ghi lời bàn của Ngô Sĩ Liên như sau:
“Vua vốn là người hậu với thân thuộc trong họ, đối với người vai trên mà quý hiển lại càng tôn kính lắm. Phàm kẻ thần hạ người nào có tên trùng với những người ấy đều đổi cho tên khác. Người nào tên là Độ đổi thành tên Sư Mạnh vì tên Độ trùng với tên của Thượng Phụ (Trần Thủ Độ), tên là Tung thì đổi làm Thúc Cao, vì tên Tung trùng với tên của Ninh Hưng Vương con trưởng của An Sinh Vương”.
Có những bản in lầm An Sinh Vương thành An Ninh Vương. Ta chưa từng nghe có ai có tước hiệu An Ninh Vương bao giờ. Hưng Ninh Vương là con của An Sinh Vương Trần Liễu. Chữ sinh trong An Sinh Vương hẳn đã bị khắc lầm thành chữ Ninh chỉ vì trước đó đã có chữ ninh trong Hưng Ninh Vương (chú thích của Nguyễn Lang).
Như thế là đã rõ, là rất chi tiết và thuyết phục. Ông NHC trong Thơ văn Lý - Trần (t.I, H., 1977, tr.113-115) cũng “tìm hiểu đích xác Tuệ Trung Thượng Sĩ là ai” (tr.114), đã viết lại những phát hiện của thiền sư Thích Nhất Hạnh mà xem như đó là phát hiện của chính mình. Đến bài viết “Trần Tung, một gương mặt lạ trong làng thơ thiền thời Lý - Trần”, Tạp chí Văn học (số 4-1977), ông NHC mới viết ở phần chú thích: “Cũng xin nói thêm là trong quá trình biên soạn bộ sách Thơ văn Lý - Trần, chúng tôi đã phát hiện ra vấn đề này tương đối sớm, và đã có dịp trình bày sơ lược trong phần khảo luận đầu sách. Gần đây, có đồng chí mách cho biết: trong cuốn Việt Nam Phật giáo sử luận (Lá Bối; Sài Gòn; 1974), Nguyễn Lang cũng có ý kiến giống chúng tôi về tác giả đích thực của Thượng Sĩ Ngữ Lục. Tuy nhiên, tìm đọc kỹ những điều ông Nguyễn Lang đã viết, chúng tôi vẫn thấy cần có một bài báo nói kỹ hơn về những tìm tòi của mình để bạn đọc tham khảo. Vì không những tài liệu và lập luận của chúng tôi có khác, mà cách đánh giá của chúng tôi đối với thơ văn Trần Tung cũng không giống Nguyễn Lang. Vả chăng, cho đến nay, mặc dầu đã có ý kiến sơ bộ của ông Nguyễn Lang, dư luận chung vẫn coi Trần Quốc Tảng là tác giả của Thượng Sĩ Ngữ Lục”.
Thực là khó tin! Sau khi Nam Bắc đã thống nhất, mà một bộ sách nghiên cứu nổi tiếng của một nhân vật nổi tiếng uyên bác như vậy và viết bằng tiếng Việt chứ phải tiếng Tây, tiếng U gì đâu, lại không đến một viện nghiên cứu chuyên ngành, lại đang làm thơ văn Phật giáo! (Còn nhớ, hồi ấy cán bộ Viện trong đó có NHC nườm nượp vào Nam, làm gì một cuốn tài liệu quan thiết đến như vậy mà NHC lại không có, không biết, đến nỗi “gần đây, có đồng chí mách cho biết, trong cuốn Việt Nam Phật giáo sử luận (Lá Bối, Sài Gòn, 1974) Nguyễn Lang cũng có ý kiến giống chúng tôi về tác giả đích thực của Thượng Sĩ Ngữ Lục”. Tư liệu là không khí của nhà nghiên cứu, sao NHC phải đợi có người mách cho một chuyện tày đình như vậy! Dù sao, trong nghiên cứu, có một “luật tục”: ai phát hiện, phát minh ra cái gì, căn cứ vào năm họ đăng ký bằng tác phẩm được công bố. Thí dụ trong trường hợp này: phát hiện Tuệ Trung là Trần Tung đích xác thuộc về Nguyễn Lang (Thích Nhất Hạnh), công bố tại Sài Gòn từ năm 1974; trước NHC (1977) đến ba, bốn năm trời. Lý đơn giản là như vậy. Nhưng thôi, chắc chắn là thiền sư Thích Nhất Hạnh chẳng để ý tranh giành tác quyền gì về chuyện đó, còn chúng ta, thì ai tin NHC cứ tin, cũng không mất gì! Cũng không có gì quan trọng lắm đâu một việc “phát hiện” như thế. Trần Nhân Tông chẳng đã nói rõ ràng trong “Thượng Sĩ Hành Trạng”, Tuệ Trung là con đầu của Khâm Minh Từ Thiện Đại Vương là tước hiệu của vua Trần Thái Tông ban cho anh ruột là Yên Sinh Vương Trần Liễu khi ông này mất… Thế thì “phát hiện này là của Trần Nhân Tông (1258-1308) chứ! Đã vậy, cái cách NHC nói về Nguyễn Lang lại thiếu hẳn sự khiêm tốn của một người đi sau. Ông cho rằng “cách đánh giá của chúng tôi đối với thơ văn Trần Tung cũng không giống Nguyễn Lang” (Bđd, tr.116). Không giống như thế nào? Ông NHC bảo là “thơ thiền của Trần Tung sẽ chỉ có một ý nghĩa nhất định với chúng ta chừng nào nó vẫn còn là thơ, là thơ của thế tục, hoặc là thơ có dính dáng ít nhiều đến thế tục, chứ chưa hoàn toàn là Thiền” (tr.127)…
Ơ hay! Thơ Thiền là thơ Thiền, còn có dính đến thế tục hay không là chuyện khác. Thế thơ Thiền của Trung Hoa, Nhật Bản, Việt Nam (những bài thơ Thiền chân chính, thuần khiết nhất của Trần Thái Tông, Trần Nhân Tông chẳng hạn…) là không, còn ý nghĩa ư? Thực ra thì trong bài viết, để cố chứng minh mình độc lập có được phát hiện này, ông NHC đã tự bộc lộ nhiều cái chưa ngộ Thiền, chưa thông Phật học, chưa quán Tuệ Trung… Ông cho rằng: Tuệ Trung “tồn tại một nhà duy lý, ẩn náu bên trong một con người Thiền”, Tuệ Trung “yêu cầu một sự kiểm chứng bằng lý trí”… “một cái nhìn tương đối sáng và tỉnh, một ý thức thường trực làm “bản ngã”, một sự lựa chọn dứt khoát chỗ đứng ở cõi trần” (Bđd, Tạp chí Văn học, 1977), “Trần Tung bẻ gãy và lật ngược lại nhiều mệnh đề Phật giáo xưa nay vốn lưu truyền!”, “Chủ nghĩa tương đối”, “tâm lý hư vô”, “coi tất cả là phi lý, đánh đồng cái chân và cái giả” (Từ điển văn học, H., NXB Thế giới, 2004, tr.1812).
Những điều đánh giá này, có lẽ vào lúc NHC đang “xin vào Đảng” như ông Đông La nói, nên nó chứng tỏ một lập trường mác - xít giản đơn, thô thiển, áp đặt và đại ngôn! Thực ra thì Trần Tung là một nhà Thiền học (Thiền chứ không phải Phật giáo nói chung) muốn siêu việt lên trên tất cả những phạm trù nhị nguyên. Xem cách phân tích của Thiền sư Thích Nhất Hạnh, một Thiền sư, một học giả, rất dung dị mà hiểu sâu và đúng về Tuệ Trung. Đó là điều chẳng có gì đáng nghi ngờ nhưng đây không phải chỗ để chúng tôi đi sâu phân tích. Cần nói là sau này, ông NHC lại tất tả đi in lại bộ Việt Nam Phật giáo sử luận. Với con người như của NHC, đây là một động thái không đơn giản!
Kết luận lại, tôi chỉ nói một điều giản dị thôi: ông NHC tự cho rằng việc ông tìm ra thơ văn của nhà sư uyên bác, đồng thời là võ tướng có nhiều công lao dẹp giặc này là một cống hiến vô cùng quý giá” (Thơ văn Lý - Trần, t.I, tr.113). Tôi hoàn toàn đồng ý, với một chú thích nhỏ: Từ năm 1969 ở Sài Gòn, Trúc Thiên tìm ra, đã dịch và công bố Tuệ Trung Thượng Sĩ Ngữ Lục (Đại học Vạn Hạnh xuất bản, in lại 1974), tức là phát hiện và dịch trước ông NHC khoảng mười năm, còn về văn bản chữ Hán của tác phẩm này thì ít ra từ đời Chính Hòa thứ 4 (1683) đến đời Thành Thái (1903), Phật giáo Việt Nam vẫn in lại.
Cho nên cái “cống hiến vô cùng quí giá” đó mà ông NHC nhận về mình cũng rất nên phải xem lại.

Bây giờ nói đến chuyện luận án Tiến sĩ “Giai nhân kỳ ngộ diễn ca trong văn học Duy Tân yêu nước đầu thế kỷ XX” của Trần Hải Yến (Viện Văn học - 2002) và bài “Giai nhân kỳ ngộ diễn ca, một thể nghiệm mới của Phan Châu Trinh về truyện thơ lục bát” của ông NHC in trên tạp chí Thời đại mới (Tạp chí nghiên cứu và thảo luận - một tạp chí mạng ở Hoa Kỳ (số 9, 11/2006). Bà Trần Hải Yến, như trong Thư mục tham khảo của luận án cho thấy, biết 4 ngoại ngữ: Hoa, Nhật, Anh, Pháp. Đây là một luận án do PGS-TS Phạm Tú Châu hướng dẫn và đã bảo vệ thành công xuất sắc. Đọc luận án thì thấy không có cái gì dính líu đến Giai nhân mà không được đề cập thấu đáo, sâu sắc, uyên bác, kỹ lưỡng, kể cả vấn đề thể loại “Truyện thơ lục bát”. Thế thì bà Trần Hải Yến còn lép cái nỗi gì để ông NHC rút ruột cái luận án ấy mà viết bài báo trên, rồi sau khi bị phản ứng, phải gỡ xuống và từ đó đến nay không thấy công bố ở trong nước, ngoài nước. Bà Trần Hải Yến cũng như bất cứ một nghiên cứu sinh nào khác, phải đề ở đầu luận án câu này “Xin cam đoan, đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các nhận định và kết luận của luận án là trung thực và chưa từng được ai công bố trong bất cứ công trình nào khác” và ký tên. Ông NHC có dám viết câu này khi viết bài báo nói trên không? Thế là cái bài báo ấy nó là “của em” chứ không phải “của anh”, “của thầy”.
Chữ Hán có thành ngữ: “Đoạt thai, hoán cốt”, nói về việc “rút ruột” và ém nhẹm, phi tang. Vì thế có hai câu tóm tắt chương này:
Tiểu xảo, “đoạt thai” Trần Hải Yến
Đại ngôn, “hoán cốt” Thích Thiền Sư
*
**
Bây giờ, xin qua chuyện chữ Tây của ông NHC để “giải lao” - thư giãn. Tôi không phải là chuyên gia tiếng Pháp, chỉ là học trò tiếng Pháp và tự học nên lẽ ra không nên nói chuyện này nhưng vì ông NHC lâu lâu viết bài cũng lại chưng ra một ít chữ Pháp bằng cách trích dùng một vài từ điển loại phổ thông để tỏ ra mình là người cũng rành tiếng Pháp. Một bà bạn ở Viện Văn học khi xưa còn cho biết “ông NHC làm Dự án về văn học Phần Lan (“Đường vào văn hóa Phần Lan” - 1966) để tỏ ra mình biết tiếng Pháp”. Một ông cụ vốn trước kia là học trò Trường Bưởi, sinh viên Luật Hà Nội, lại đã làm Hiệu trưởng trường Trung học Pháp - Việt, cho biết trong khi chú thích sách, ông NHC phải đi hỏi từng chữ Pháp cơ bản để chú thích. Không biết thì hỏi, đó là điều tốt. Nhưng thực tình, trình độ tiếng Pháp của ông NHC còn khá yếu. Chẳng hạn như nappe, theo lời học giả kia thì ông NHC cho là cái tấm vải trải giường (drap). Nappe trong Nam vẫn dùng nap, và bà xã tôi luôn nói “tấm nap bàn”, tức cái tấm khăn trải bàn, nó đã trở thành từ Việt (gốc Pháp) mất rồi, mà ông không biết.
Trong tập sách biên soạn Truyện ngắn Nam Phong (NXB KHXH, H., 1989), trang 131, NHC chú “tàu xúp-lê” là “tiếng Pháp: Souffler: thổi còi”. Chú giải như vậy là sai. Siffler mới là thổi còi, còn Souffler chỉ có nghĩa là như gió thổi (le vent souffler), thổi tắt ngọn nến (souffler la bougie). Souffler còn nhiều nghĩa nữa. Vậy hai chữ khác nhau chỉ chữ i và o. Chúng tôi xin đưa hai lệ chứng về chữ xíp-lê như sau:
“Nghe xíp-lê một chút rồi ngó thấy xe lửa rần rần chạy tới. Bé Hậu mừng rỡ nên đứng vỗ tay la om sòm” (Đoạn tình - Hồ Biểu Chánh).
“Tàu xíp-lê, kéo neo, xịch xịch chạy. Hai giờ đêm đến bến Hà Thành. Đèn điện sáng trưng, cô thông nom cũng choáng mắt” (Con người Sở Khanh - Phạm Duy Tốn).
Tiếng Pháp như thế thì chẳng có gì đáng tự hào vì ta vốn là nước thuộc địa của Tây xưa, một nước dùng tiếng Pháp, nhiều người tiếng Pháp giỏi lắm.
Ông NHC hầu như không làm công trình riêng. Ông chuyên đi “chủ biên” lấy bài nhiều người khác in, viết Lời giới thiệu rồi đề mình chủ biên (Trường hợp cuốn sách “Hoàng Ngọc Phách - đường đời và đường văn” (chuyên khảo, sưu tầm, tuyển chọn, 1966) sao lại đề là tác phẩm chính, in riêng của mình? (xem “Nhà văn hiện đại”, H., 2007, tr.150). Cuốn này chủ yếu là tác phẩm của cụ Hoàng Ngọc Phách, vậy phải đề tác giả là Hoàng Ngọc Phách, NHC sưu tầm, tuyển chọn, giới thiệu… mới phải.
Kể ra cũng lợi. Ngay cả cuốn “Từ điển văn học” khởi đầu do GS Đỗ Đức Hiểu chủ biên; GS Đỗ mất, ông đem ra thêm bớt, in lại (dịp khác ta sẽ bàn, các ông Đặng Tiến, Nguyễn Hữu Sơn và nhiều người khác đã có bài nhận xét sơ bộ, nhưng chưa thấy ai nói rõ điều này: ông đem cả nhà ông vào Từ điển, bất chấp họ có là nhân vật văn học hay không (có thể họ là sử, giáo dục, đạo đức học…, chứ quá ít dính đến văn), và ông thích ai thì đưa vào, không thích thì gạt (Chẳng hạn, tại sao ông lại gạt GS Hoàng Trinh vốn là người lãnh đạo của Viện mà lại đưa nhiều người có ít công trình hơn GS Trinh - vì “tư thù, tư oán” gì chăng? Ưng Quả, Bửu Kế, Nguyễn Khoa Vy… ở Huế sao không được đưa vào từ điển. Tại sao từ điển lại dừng ở những năm 60 của thế kỷ trước và thiếu không biết bao nhiêu người? Ông đã bộc lộ chủ tâm là ông muốn đưa vào cả những nhân vật văn học không hề đáng đưa một tí nào, nhưng không lọt. Ông “dương” người này, “ức”  người kia. Làm từ điển phải có chuẩn, phải khoa học, vô tư, khách quan. Cuốn này còn cần phải thảo luận nhiều.

Lời Tạm Kết

Ông NHC đã dồn tôi vào thế phải lên tiếng, làm tôi mất rất nhiều thời gian và công sức. Nếu tôi phải “thất lễ” với ông, thì ông nên trách mình và nên thông cảm với người. Thật lòng tôi rất chán phải nói những chuyện u ám này. Đời thiếu gì trời xanh, hoa tươi, người tốt… mà phải chui vào cái cõi u minh và vạch cái tối tăm của người này, người kia, nói tắt là phải đi “dọn rác”. Không phải tôi muốn “hạ” ông NHC, để mình “cao” lên. Không, tôi vẫn chỉ là tôi thôi, “người là thế ấy, ta là thế thôi!” (Ngô khởi hiếu biện tai! Ngô bất đắc dĩ dã) (Mạnh Tử). Tôi cố ý tránh tranh biện với ông NHC từ mấy chục năm rồi. Một là, rất không rảnh. Hai là, nhớ lời dạy của cụ Hoài Thanh khi làm nhân viên của cụ ở Viện: “Việc lớn xem là nhỏ, việc nhỏ coi như không có”, và lời của anh Nguyễn Đình Thi, thủ trưởng một thời của tôi: “Đối xử tốt ngay cả với người xử xấu với mình”. Trong đời, phải “lòng chợt từ bi bất ngờ”, phải có “một tấm lòng” như lời ca Trịnh Công Sơn. Tôi nghe đầy tai về chuyện ông NHC, ông NHC xử với tôi ra sao, hẳn ông là người biết rõ nhất. Nhiều bạn bè Hà Nội nói lại với tôi và còn “phê” tôi: “Tại sao ông NHC nói xấu về ông như thế, còn ông lại đi nói tốt cho ông ấy?” Tôi chỉ cười: “NHC là người làm việc, làm được nhiều việc. Người như thế hiện không có nhiều. Còn chuyện cá nhân, thì bỏ qua đi, cho nó nhẹ người”. Tôi và nhiều bạn vẫn đánh giá tốt ông NHC ở những bài, những chỗ mà ông chính là ông, không cần “bành trướng” nâng lên “quân Tào có 30 vạn nói thặng lên thành 100 vạn”. Ông không cần phải lên gân ráng sức quá sức mình, nguy hiểm cho sức khỏe. Tôi làm theo phương châm của các vị thầy, nên thừa biết là ông đã làm gì sau lưng chúng tôi (kể cả quay ngoắt 1800 trong vụ ông Nguyễn Quảng Tuân để thực hiện một ý đồ), chúng tôi cũng chẳng lạ và cho qua, để lo việc khác, thú hơn.  
Nhưng nay thì ông đã đi quá xa về chính trị và học thuật, và ông chủ động tấn công, nên tôi buộc lòng phải lên tiếng tự vệ. Xin tạm kết đôi điều:
Về mặt chính trị: ông NHC muốn giương cờ làm “nhà dân chủ” ở Việt Nam, đó là sự chọn lựa của ông. Ông NHC cũng đã từng có kinh nghiệm về hoạt động này nhiều năm: kinh nghiệm Nội Bài, kinh nghiệm viết bài trên các mạng nước ngoài; gần đây lại đã dẫn đầu một đoàn quỳ lạy trước quan tài “nhà dân chủ” Hoàng Minh Chính, cũng như dẫn đầu đưa đơn về vụ Thơ Trần Dần… Đó là chuyện của ông. Nhưng, ông không nên vu cáo, chửi bới những người khác - khác chính kiến, khác cách làm, khác lộ trình… “Dân chủ” mà như thế sao được? Dân chủ trước hết là phải tôn trọng những người khác ý kiến với mình, chứ đâu lại thô bạo, thô lỗ như một kẻ vô học, vô đạo thế. Theo tôi, ông không phải là người dân chủ. Ông đã từng tham vọng học thuật một cách “bá đạo”, nay nhảy sang làm chính trị lúc cuối đời. Tôi mong ông hãy suy nghĩ lại cho kỹ, đừng quá nóng giận mà mất khôn. Làm chính trị chẳng dễ hơn làm nghiên cứu đâu, ông NHC ơi!. Còn về văn học thì chúng ta có lạ gì nhau. Dẫu sao xưa kia cũng từng là người cùng một tổ chuyên môn của một Viện, người cùng lớp Hán học, bây giờ tuy cư trú hai miền nhưng có lúc còn gặp mặt nhau, trong một Hội đồng chấm luận án tiến sĩ hay cuộc họp này họp kia, vậy vui vẻ là hơn anh NHC ạ. Đời ngắn lắm, anh đã “xưa nay hiếm” rồi đấy nhỉ, vậy thì “còn gặp nhau thì hãy cứ dzui” như một câu thơ dễ thương của bà Tôn Nữ Hỷ Khương mà anh chị em hay nhắc, việc gì mà thù hằn nhau, sân si nhau sâu sắc thế!. Đời rộng dài, biển học bao la, sức ta có hạn, lo tập trung mà làm việc, may ra còn được chút đỉnh ích lợi cho đời:
Ta chợt biết rằng vì sao ta sống-

Vì đất nước cần một trái tim
(Trịnh Công Sơn)
Miễn trái tim ấy là một trái tim nhân hậu, chứ không phải “nhất thế tử tâm hoài đại độc” như Nguyễn Du nói.
***
Có Nhà Nghiên cứu, nghe chuyện, có thơ rằng:
Đâu ngờ người ấy chẳng ra chi!
Vu cáo người ta phỏng ích gì?
“Dân chủ”, lập trường còn khuất tất,
Văn chương, chữ nghĩa đáng hoài nghi.
“Thiệp phiên” đâu phải là “qua bến”,
Síp - lê ắt hẳn phải dùng i.
Tây Tàu thôi thế nên siêng học,
Giáo sư đừng để bị khinh khi.

Tôi xin phụng họa, tấp tểnh “nối điêu” bài xướng như sau:

Hóng hớt, thâm thù có ích chi!
Nói năng hỗn ẩu có ra gì?
Dân chủ chớ nên dùng vu cáo,
Văn chương hẳn phải tránh hiềm nghi.
“Phên dậu” ngàn năm chưa hóa bến,
“Síp - lê” vạn thuở vẫn nguyên i.
Nhớ lời Phật dạy, sân si dứt,
“Bất kị bất cầu” , phúc có khi.

Trà hoa hạng - Phú Nhuận
Ngày Giỗ Tổ Hùng Vương 2008
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

"Người Xô Viết" với các nhà văn đất Quảng thời kháng chiến chống Pháp (1946-1954)

Tác giả: Phạm Hồng Việt


Cách mạng Tháng Mười đã đưa đến sự ra đời của Liên bang Xô Viết (Liên Xô) và sản sinh ra những con người Xô Viết - những con người đã đưa nước Nga vốn lạc hậu so với nhiều nước Âu - Mỹ trở thành cường quốc công nghiệp thế giới, đi hàng đầu trong việc đánh bại chủ nghĩa phát xít để bảo vệ nền văn minh nhân loại trong chiến tranh thế giới thứ hai, đi  tiên phong trong việc đưa người vào vũ trụ. Cũng chính là những con người Xô Viết đã thiết tha với cuộc đấu tranh giữ gìn hòa bình thế giới, nhiệt thành ủng hộ cuộc đấu tranh của các dân tộc thuộc địa trong phong trào giải phóng dân tộc.

Hoàn toàn không phải ngẫu nhiên mà những nhà văn - nhà báo đất Quảng vào những năm kháng chiến chống Pháp gian khổ như Nguyễn Văn Bổng, Nam Trân, Nguyễn Thành Long, Phan Thao đã tìm thấy ở các nhà văn Liên Xô những tình cảm trong sáng, những chỗ dựa thân thiết.

Nhà văn Nguyễn Văn Bổng kể lại: “Từ sau 1949, ở Liên khu V thỉnh thoảng nhận được “Người Xô Viết chúng tôi” của B.Pôlêvôi, “Ngày và đêm ở Xtalingơrát” của X.Ximônốp, “Mùa xuân ở Xaken” của G.Giulia, “Ngôi sao” của Kadakêvich, “Pari sụp đổ” của Lêrenbua... Một số truyện trong “Người Xô Viết chúng tôi” được in thành sách do Chi hội văn nghệ Liên khu V xuất bản. Sách được hoan nghênh nhiệt liệt và đi đến đâu cũng nghe cán bộ, chiến sĩ kể lại, bàn bạc về những gương anh hùng của nhân dân Xô Viết. Những sách ấy của nước bạn gợi cho chúng tôi phải sống và chiến đấu như thế nào, gợi ra cho chúng tôi phải viết về đồng bào, chiến sĩ và đất nước mình đang kháng chiến ra sao” (1).

Người Xô Viết trong tác phẩm của B. Pôlêvôi trong “Chiến tranh thế giới thứ II” - đó là ai? Là Mikhaiin - Xiniki - người chiến sĩ vệ binh nhỏ vé đã trốn khỏi trường quân sự để được tiếp tục chiến đấu; là Tarakum - người trồng nho đã biết biến một ngôi trường ở một ngã tư đường phố thành một thành trì vững chắc chống phát xít; là Bêlơgơrut - người đàn bà nông dân đã hy sinh gia đình mình, con cái mình, nhà cửa mình để cứu lấy lá cờ của một trung đoàn xe tăng; là người lính trinh sát già Xêrênicốp; là anh chiến sĩ công binh đã làm đổ một cách tài tình những cầu đập, đường sắt và nhà cửa không để rơi vào tay bọn phát xít nhưng lại nhớ day dứt những công trình hòa bình trước kia của mình; là người con gái trinh sát trẻ tuổi mảnh khảnh, với cái tên hiệu thơ mộng là “Bạch Dương”, đã biết hy sinh cho Tổ quốc những gì quý giá nhất của chị; là Phôminích - người lính làm cầu của thành Xtalingơrát trong những giờ phút ngắn ngủi trên tiền tuyến đã học tập để trở thành một tay thiện xạ; là Malích Gápđulin - nhà bác học đang sống mà đã trở thành người anh hùng của một bản anh hùng ca dân gian; là cụ Cudômin đã không thèm nhận những đồng tiền mua chuộc của bọn phát xít mà còn tạo điều kiện cho Hồng quân tiêu diệt chúng; là chị Catarin không sợ hiểm nguy loan báo cho bà con trong thôn tin Hồng quân duyệt binh ở Matxcơva trong vòng vây của quân phát xít để bà con giữ vững tinh thần, và quân phát xít đã giết chị; là anh trung úy phi công bị kẻ thù bắt, bị tra tấn dã man nhưng vẫn không một lời khai báo, đã nhổ vào mặt kẻ thù và nói với chúng “Người Xô Viết chúng tao đây!...”. B. Pôlêvôi viết: “Rất nhiều những người Xô Viết..., nam cũng như nữ, những anh hùng khiêm tốn của cuộc chiến tranh - do sự khôn khéo của họ trong chiến đấu, do lòng dạ bền bĩ, tinh thần đoàn kết vô địch của họ, lòng yêu vô hạn của họ đối với Tổ quốc, họ đã bẻ gãy thế lực của chủ nghĩa phát xít. Những con người Xô Viết giản dị, lớn và nhỏ... đã nhân danh nhân dân của họ đáng được khen thưởng. Nhưng làm như thế nào khen thưởng tất cả những người dân Xô Viết, vì họ là những con người Xô Viết” (2).

Qua bản dịch của Nam Trân, hình ảnh những người Xô Viết từ trong tác phẩm của B. Pôlêvôi như một ngọn gió trong lành đến với người Việt Nam ở Quảng Nam, ở Liên khu 5, góp phần tiếp sức cho cuộc chiến đấu gian nan và ngoan cường của dân tộc ta trong những năm tháng kháng chiến chống Pháp.

Nhà văn Nguyễn Thành Long - sinh ở Nha Trang nhưng nguyên quán ở Quảng Nam, trong thời gian kháng chiến chống Pháp từng có mặt ở chiến trường Quảng Nam - Đà Nẵng kể lại: “Chúng tôi in một số tác phẩm dịch từ văn học Xô Viết ra như “Ngôi sao” của Kadakêvích (Phan Xuân Hoàng dịch) “Người Xô Viết chúng tôi” của B. Pôlêvôi (Nam Trân dịch). Năm 1952 tôi cho in cuốn “Kể lại một số tiểu thuyết Xô viết” (tôi đọc bản tiếng Pháp rồi kể lại, do Nhà xuất bản “Miền Nam” in). Tôi thuyết minh về đất nước Liên Xô (dù rằng bây giờ tôi chưa hề đến được đất nước này) trong những lần đi tham gia các chiến dịch” (3).

Cũng trong những năm kháng chiến chống Pháp, ở Liên khu 5, nhà báo Phan Thao đã dịch tập “Người mẹ” của Goocki, một tiểu thuyết nổi tiếng của văn học Cách mạng Nga. Nhưng đáng tiếc là tác phẩm không được in ngay. Mãi đến sau khi Phan Thao qua đời ở Hà Nội, sách mới được các nhà văn Liên khu 5 sưu tầm lại và đưa in ở Nhà xuất bản Văn học.
Văn học của nước Nga cách mạng, văn học Xô Viết đã từng gắn bó với đất nước và nhân dân ta. Giờ đây Liên bang Xô Viết đã tan rã, nhưng những gì mà Cách mạng Tháng Mười đã đóng góp với văn minh nhân loại, những giá trị nhân văn của nền văn học do Cách mạng Tháng Mười tạo ra vẫn được loài người tiến bộ trân trọng lưu giữ.

(1) Nguyễn Văn Bổng, Con đường từ Liên khu 5 ra Việt Bắc, sách “Cách mạng - kháng chiến và đời sống văn học” (1945-1954). Tập 1, NXB Tác phẩm mới, tr.280.
(2) B. Pôlêvôi, Người Xô Viết chúng tôi (Nam Trân dịch cùng nhiều dịch giả khác) NXB Văn học, 1977, tr. 81, 412-413.
(3) Xem sách “Cách mạng kháng chiến và đời sống văn học (1945-1954). Tập 1, Sđd, tr. 312, 316, 317.
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Vài thổ âm, thổ ngữ của người Quảng

Tác giả: Lê Minh Quốc


Khảo sát về giọng nói Quảng Nam là một công trình lớn cần có sự đóng góp của nhiều người, nhiều giới. Không riêng gì Quảng Nam - Đà Nẵng có những thổ ngữ hoặc cách phát âm khiến nhiều người khác khó nghe, khó hiểu thì các địa phương khác cũng có những trường hợp tương tự như vậy. Nhưng đó lại chính là hồn quê của mỗi địa phương. Chỉ cần nghe giọng nói, là người ta nhận ra bóng dáng của quê nhà - đã có lần tôi cảm nhận:

Bóng hình này giống người ta
Nhưng kìa giọng nói như là giọng tôi
Hồn quê đặt ở trên môi
Tưởng nghìn cây số xa xôi vọng về

Ở đây, tôi chỉ mạn phép bàn về giọng Quảng trong sự ngẫu hứng sau khi đọc bài vè của tác giả Nguyễn Tiến Nhẫn in trong tập Bảo An đất và người (NXB Đà Nẵng, 1999). Thử đọc bài vè này, ta có thể sẽ hiểu ít nhiều một vài kiểu phát âm của người Quảng Nam:

Quê tôi A phát thành OA
Ă thành E hết, AO ra Ô mà...

Không những thế, ta thấy họ còn phát âm OAI thành UA (như nhớ hoài: nhớ hùa); OI thành UA (như nói năng: núa neng); ĂN thành EN (như muối mặn: muối mẹn) v.v… Có chuyện rằng, một cậu bé Đà Nẵng thấy con gì đó đang bò trên tường, vừa kêu lên vừa đưa tay chỉ cho thằng bạn mới từ Sài Gòn ra xứ Quảng chơi:

-Ê, cua kìa! Con chi mà lọa!

Thằng nhóc Sài Gòn lấy làm lạ, liền ngước mắt lên nhìn thì có thấy con cua gì đâu! Chỉ thấy... con thằn lằn!

ẮT thành ÉC (như tắt đèn: téc đèn. Có trường hợp “ngoại lệ” như xa lắc: xa léc - xa quéc); AM thành ÔM (như làm: lồm)... Và khi đặt câu hỏi người ta thường dùng thổ ngữ: ri (như thế này), rứa (vậy, thế), răng (sao), mô (đâu), hỉ (hả) v.v...; khi nghe thế người kia trả lời: nớ (kia), tê (kia), ni (đây), trển (trên), chừ (bây giờ), chi (gì) v.v... Ta thử đoán xem, họ đang nói gì:

Chừ hay mai mốt anh ơi
Chu choa lâu rứa lơi bơi trổ trời
Ba nhe là bậu ba rơi
Ba lia, ba lém cùng đời ba lơn
Mưa dầm thấm đất lấm lem
Mưa chi dai nhách ba bên bốn bề

Ở đây, chữ “trổ trời” có thể hiểu là tính từ chỉ một hành động nào đó vượt ra ngoài khuôn phép - chẳng hạn, đứa con trong nhà không ngoan, hư đốn quá lắm, người mẹ mắng: “-Cái thằng hư trổ trời!” là vậy. Nhưng cũng để diễn đạt ý nghĩa tương tự, ở cấp độ thấp hơn, người ta còn dùng từ “hoang”, như: “-Cái thằng ni hoang quá”. Người ta gọi là “ngẳng” để chỉ sự nghịch ngợm, như: “Cái thằng chơi ngẳng ghê, ai đời hắn lấy kéo cắt râu mèo”. Ta đọc tiếp:

Mùa nam cau chuối héo queo
Vàng rùm đồng lúa, ốm teo cả người
Trâu bò hết cỏ nhá nhơi
Ô hồ cạn xịt, phơi khô dâu tằm
Hạn chi hạn miết khô rang
Nắng chi nắng miết nắng chang chang trời
Nắng cho hết nghí ngỡn cười
Ở trần chẳng dị, quạt lì ra tay

Ở đây, “ô” là ao, “cạn xịt” nghĩa là nước trong ao hồ đã cạn chỉ còn xăm xắp nước, tương tự “ít xịt” là rất ít; “miết” là mãi, chỉ một hành động kéo dài - chẳng hạn câu thơ của Lưu Trọng Lư “Mưa chi mưa mãi”, người xứ Quảng hiểu là “Mưa chi mưa miết”; “nghí ngỡn” ta có thể hiểu là dễ ngươi, lờn mặt, đùa giỡn thái quá tùy ngữ cảnh, như: “-Đừng có nghí ngỡn, sắp mưa rồi đó, mau chạy về nhà đi”; “dị” là mắc cỡ, e thẹn; còn “dị òm” là hết sức mắc cỡ, tương tự như thế người ta còn nói “mắc tịt”...

Mùa ni bí rị phát khùng
Nực chi xà lỏn vẫn lùng bùng tai
Cầu trời túi mốt sớm mai
Nồm về thả cửa mát rười rượi nhau

“Bí rị” là bít bùng, không lối thoát, tắc nghẽn như trong câu hỏi: “Buồn chi mà mặt mày bí rị rứa?”; nhưng “rị” lại là kéo, như: “-Cây ni nặng lắm, bọn bay tới rị giùm tau với”; “túi” là tối, còn “túi thui” là rất tối...

Tới đây tao biểu mi nè
Cháo ngọt đậu ván bát chè thơm thơm
Mình đâu có phỉnh mà lờn
Uống ăn ngọt xớt còn thơm lựng lừng

“Biểu” là bảo; “phỉnh” là dụ dỗ, gạ gẫm; “ngọt xớt” là rất ngọt... Trong ca dao xưa ở xứ Quảng có câu:

Một nong tằm là năm nong kén
Một nong kén là chín nén tơ
Bạn phỉnh ta chín đợi mười chờ
Linh đinh quán sấm, dật dờ quán sen

Thú vị quá, ta hãy tìm hiểu thêm một vài thổ ngữ khác, chẳng hạn “điệu” là làm dáng như: “- Chà! Bữa ni ăn mặc điệu quá ta!”, tương tự như thế còn có chữ “gồ” nữa; “gò” là tán tỉnh như: “-Cái thằng ni trổ trời, hỉ mũi còn chưa sạch mà đã gò gái”; thuở nhỏ, tôi còn nghe một từ tương tự là “cua” như: “- Anh Tư đi cua gái hay reng mà cái đầu láng mướt rứa hè?”; “ế” dành để chỉ những cô gái lỡ thì, không có người cưới hỏi; “ghế” là chỉ cơm độn với ngũ cốc như: “-Cơm bữa ni ghế với khoai lang”; “hú hí” là nhỏ to với nhau; “in” là giống nhau như đúc; “không reng (răng)” là không sao, đừng sợ như: “- Chó sủa thôi chớ không reng mô”; “lợt nhớt” là quá lợt; “rượng” là “ngứa nghề”; “sít rịt” là sít với nhau không hở; “trịt” là tẹt như: “- Cô kia cái mặt cũng dễ coi nhưng tiếc cái mũi trịt”; “ủm” là thu hết về cho mình, như để chỉ hành động ôm em bé vào lòng mình làm cho bé ấm áp, người ta nói: “- Ủm em”, còn “ẵm” là bồng v.v...

Tôi còn nhớ thuở nhỏ, mẹ tôi đã hát ru bài đồng dao xứ Quảng:

Con chim se sẻ
Nó đẻ mái tranh
Tôi vác hòn sành
Tôi lia chết giãy
Tôi đem tôi kỉnh
Cho thầy một mâm
Thầy hỏi chim gì?
Con chim sẻ sẻ

Ta biết “kỉ
Bài liên quan

Thôi Hữu Nguyễn Đắc Giới, Tân Sắc, Trần Văn Tấn

Thôi Hữu (1914-1950) tên thật là Nguyễn Đắc Giới (có nơi ghi Nguyễn Đức Giới), sinh tại Hoằng Hoá, Thanh Hoá, làm thợ điện, tham gia tổ chức bí mật ở Hà Nội, bị bắt, vượt ngục, tham gia Hội văn hoá cứu quốc, bị máy bay Pháp oanh tạc, mất mới 31 tuổi. Bút danh khác: Tân Sắc, Trần Văn Tấn. Tác phẩm: - ...

Xuân Thuỷ Nguyễn Trọng Nhâm

Xuân Thuỷ là nhà cách mạng, nhà thơ, tên thật là Nguyễn Trọng Nhâm, sinh ngày 2/9/1912 trong một gia đình nho học tại xã Xuân phương, huyện Hoài Đức, tỉnh Hà Đông, nay thuộc Từ Liêm, Hà Nội. Ông sớm có tinh thần yêu nước và lòng ham thích thơ văn. Năm 1938, ông bị thực dân Pháp bắt và đày trong các ...

Nguyễn Vỹ

Nguyễn Vỹ sinh năm 1910 ở làng Tân Hội (nay đổi là Tân Phong), huyện Đức Phổ, Quảng Ngãi. Đã từng học qua các trường Quảng Ngãi, trường Quy Nhơn. Ông đã từng cạo đầu đi tu, gánh cát ở bãi sông Cái, từng bán kẹo ở Hà Nội, bán báo ở Sài Gòn. Về sau này sống bằng nghề viết văn. - Đã viết: Ami du peuple ...

Nguyễn Xuân Huy

Nguyễn Xuân Huy sinh ngày 15/7/1915 tại làng Dũng Quyết, huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định. Học ở Nam Định, sau là giáo viên dạy học ở Hà Nội. Ông có thơ đăng trên các báo Đông tây , Phụ nữ thời đàm , Nhật tân , Tân thiếu niên, Hanoi báo .

Vũ Hoàng Chương

Vũ Hoàng Chương sinh ngày 5 tháng 5 năm 1916 tại Nam Định. Chánh quán của ông ở làng Phù Ủng tỉnh Hưng Yên. Thủa nhỏ ông theo hoc Albert Sarrault ở Hà Nội, đỗ tú tài năm 1937. Năm 1938 ông vào trường Luật nhưng chỉ được một năm thì lại bỏ đi làm Phó kiểm soát sở hoả xa Đông Dương. Năm 1941 ông bỏ sở ...

Tân Diên Niên 辛延年

Tân Diên Niên 辛延年 người đời Đông Hán, không rõ thân thế. Tác phẩm của ông chỉ còn lại một bài "Vũ lâm lang" 羽林郎 rất có giá trị.

Đào Cảng Đào Văn Cảng

Đào Cảng (1941-1987) tên khai sinh là Đào Văn Cảng, sinh tại huyện Thuỷ Nguyên, thành phố Hải Phòng. Quê gốc xã Khúc Thuỷ, huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Tây. Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam. Đào Cảng làm thợ cơ khí trong thời kỳ giặc Mỹ đánh phá miền Bắc. Sau đó ông chuyển sang làm công tác nghiệp vụ tại ...

Triệu Nhất 趙壹

Triệu Nhất 趙壹 là danh sĩ triều Hán Linh Đế 漢靈帝 (168–189) đời Đông Hán, năm sinh và mất không rõ, tự là Nguyên Thúc 元叔, người Tây Huyện, Hán Dương (nay thuộc tây nam thành phố Thiên Thuỷ, tỉnh Cam Túc). Ông là người cậy tài kiêu ngạo, từng nhiều lần bị người khác vu hại đến tội chết, nhưng lại có ...

Nguyễn Huy Tưởng

Nguyễn Huy Tưởng (1912-1960) quê ở Từ Sơn, Bắc Ninh, nay thuộc huyện Đông Anh, Hà Nội. Là nhà văn, nhà thơ, nhà viết kịch, tác giả của những tiểu thuyết lịch sử, vở kịch lớn như: Vũ Như Tô , Đêm hội Long Trì , Bắc Sơn , Sống mãi với thủ đô . Được tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học nghệ thuật ...

Vũ Hân

Vũ Hân (1919-1984) là nhà thơ, nhà viết kịch. Sinh tại làng Minh Hương, Quảng Nam, mất ở TP Hồ Chí Minh, làm nghề dạy học tư. Tác phẩm: - Đoạn trường tân thanh khảo luận (nghiên cứu) - Mai sau (thơ) - Giảng sách dưới trăng (kịch thơ) - Người điên giữa kinh thành (kịch thơ)

Mới nhất

THPT Đinh Tiên Hoàng

THPT Đinh Tiên Hoàng đang không ngừng nỗ lực phát triển trở thành một ngôi trường với chất lượng giảng dạy tốt nhất, tạo ra những thế hệ học sinh chất lượng

THPT Thực nghiệm

Trường THPT Thực Nghiệm trực thuộc Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam. Trường là cơ sở giáo dục đào tạo công lập trong hệ thống giáo dục quốc dân và trong hệ thống các trường phổ thông của thành phố Hà Nội. Trường dạy học theo chương trình giáo dục Trung học phổ thông của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Tiếp ...

THPT Đông Kinh

Khẩu hiệu hành động: “ Hãy đặt mình vào vị trí cha mẹ học sinh để giảng giải giáo dục và xử lý công việc ” “ Tất cả vì học sinh thân yêu ”

THPT Hà Nội Academy

Những rào cản còn tồn tại kể trên sẽ được vượt qua bởi những công dân toàn cầu tích cực với nhiệm vụ chung tay xây dựng một thế giới tốt đẹp hơn thông qua việc nghiên cứu và tìm kiếm giải pháp cho những vấn đề toàn cầu bao gồm, nhưng không giới hạn ở nhân quyền, đói nghèo và công bằng xã hội. Nhận ...

http://thptkimlien-hanoi.edu.vn/

Qua 40 năm nỗ lực phấn đấu trong các hoạt động giáo dục, vượt khó khăn, thiếu thốn về cơ sở vật chất, trường THPT Kim Liên đã tạo dựn được uy tín vững chắc, là 1 trong 5 trường THPT hàng đầu của Thủ đô có chất lượng giáo dục toàn diện không ngừng nâng cao và trở thành địa chỉ tin cậy của các bậc ...

THPT Tô Hiến Thành

Trường THPT Tô Hiến Thành được thành lập từ năm học 1995-1996, theo quyết định của Ủy Ban nhân dân tỉnh Thanh Hóa. Đến tháng 6/2010, trường chuyển đổi loại hình sang công lập. Suốt 20 năm phát triển, thầy, cô giáo, thế hệ học sinh đã phấn đấu vượt qua mọi khó khăn, gian khổ, từng bước phát triển ...

THPT Mai Hắc Đế

Trường THPT Mai Hắc Đế được thành lập năm 2009, sau gần 10 năm xây dựng và phát triển, Trường đã trở thành một địa chỉ tin cậy trong đào tạo bậc THPT trên địa bàn Hà Nội.

Trường Trung học phổ thông Nguyễn Gia Thiều

Nhìn lại chặng đường gần 60 năm xây dựng và trưởng thành , các thế hệ giáo viên và học sinh trường Nguyễn Gia Thiều có thể tự hào về truyền thống vẻ vang của trường ; tự hào vì trường đã đóng góp cho đất nước những Anh hùng , liệt sĩ , những người chiến sĩ , nhà khoa học , trí thức , những cán bộ ...

Trường Trung học phổ thông MV.Lô-mô-nô-xốp

Sứ mệnh Xây dựng Hệ thống giáo dục Lômônôxốp có môi trường học tập nền nếp, kỉ cương, chất lượng giáo dục cao; học sinh được giáo dục toàn diện, có cơ hội, điều kiện phát triển phẩm chất, năng lực và tư duy sáng tạo, tự tin hội nhập.

Trường Trung học phổ thông Quốc tế Việt Úc Hà Nội

Trường thực hiện việc giảng dạy và học tập theo chương trình do Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành, thực hiện thời gian học tập theo biên chế năm học do Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định. Song song với chương trình này là chương trình học bằng tiếng Anh được giảng dạy bởi đội ngũ giáo viên bản ngữ giàu ...